Quan niệm của Thanh Thảo về thơ

09:35 05/02/2009
MAI BÁ ẤNNgoài sáng tác, hơn mười năm trở lại đây, Thanh Thảo còn xuất hiện với tư cách là một người viết tiểu luận - phê bình được bạn đọc rất chú ý bởi giọng văn sắc sảo với những phát hiện độc đáo, mới mẻ. Nhìn chung, phong cách viết tiểu luận-phê bình của Thanh Thảo khá nhất quán nhằm mục đích tìm ra cái hay cái độc đáo của tác phẩm văn học mà không ồn ào tranh luận, không nặng nề về lý thuyết nhưng có độ bền về tính triết lý.

Mỗi bài viết của anh đều in đậm cá tính riêng của anh. Trong bài viết như một lời bạt ở cuối cuốn tiểu luận - phê bình "Ngón thứ sáu của bàn tay", nhà thơ Nguyễn Đỗ cho rằng: "Điều mà Thanh Thảo có được trong tập sách này - cái thành công nhất - chính là anh đã được sáng tác, anh viết tiểu luận như là một hối thúc bên trong, giống khi làm thơ" [tr.63].
Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi chỉ đề cập đến những quan điểm chính của anh được thể hiện trong các bài viết phê bình - tiểu luận, xin tạm gác lại phần quan điểm của anh được thể hiện rất phong phú và đa dạng trong Trường ca và thơ anh, đặc biệt là ba Trường ca: "Đêm trên cát" viết về nhà thơ Cao Bá Quát, "Trò chuyện với nhân vật của mình" viết về nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu và "Khối vuông ru bích" với quan niệm "ru bích là cấu trúc của thơ".

Quan niệm thơ được Thanh Thảo phát biểu khá đa dạng độc đáo theo cách cảm, cách nghĩ, cách nói riêng của mình: "Thơ là cái lặng lẽ của con hổ. Ngay con hổ cũng có lúc giật mình vì một tiếng lá rụng. Thơ đi giữa can trường và hoảng hốt, đi giữa cái liều và nỗi sợ... Thơ là con dao găm "Tôi ném vào khoảng trống" (Văn Cao), nhưng người bị thương lại chính là tôi" [Ngón thứ sáu của bàn tay, tr. 5]. Chỗ khác Thanh Thảo phát biểu: "Thơ là chữ nghĩa cũng  không là chữ nghĩa, là ý thức mà không phải ý thức, là vô thức mà không hẳn vô thức. Thơ đúng nghĩa là sự bộc lộ tận cùng của nhà thơ" [Sự đồng cảm trong phê bình thơ, tr.66].

Về bản chất của thơ, Thanh Thảo quan niệm: “Bản chất của thơ là thơ ngây, là bất thường, là xuất kỳ bất ý" [Văn Cao và năm 2000-tr.76], "là tiếng nói của tâm linh, tiếng nói của sự chiêm nghiệm nhiều khi là cả đời người, của nhiều đời người". Những tập thơ có giá trị thực sự, chúng có thể là "Kinh thánh của tâm hồn", là thứ "không thể mua và không thể bán. nhưng lại không thể thiếu cho con người" [Mười năm cõng thơ leo núi, tr.63]. Nhưng "Thơ khác kinh cầu. Nó không tạo ra những cơn mê tập thể. Nó không ru rín" mà nó mê hoặc con người bằng "sự thức tỉnh". "Thơ chỉ dành cho từng người một. Và khi một người đọc thơ cho mình, là người ấy đã đồng hiện với một giáo đường. Vì vậy, có thể coi một người đọc thơ như nghìn người đọc kinh" [Tản mạn về thơ. Tr.79].

Về chức năng giáo dục của thơ, Thanh Thảo có một quan niệm khá mới lạ: "thơ có ích không chỉ vì thơ giáo huấn ai, giáo dục ai, cải tạo ai, mà vì thơ thức tỉnh con người trước cái "trăm năm", thơ đặt con người đối diện với nghìn năm, thơ cho con người một thoáng nhìn lại chính mình một cách bình thản" [Tản mạn về thơ, tr.80]. Chỗ khác, anh thổ lộ: "Thơ đích thực không nhằm giáo dục ai, cải tạo ai, nhưng nó lại giúp thanh lọc tâm hồn con người". Thơ còn là "đôi nạn" giúp người tàn tật "đứng dậy, bước đến với mọi người, là đôi bàn tay chìa ra với mọi người", vâng, chính là thơ, và đôi bàn tay thơ "như đôi lá xanh dung dị, gần gũi" [Lửa xanh thầm cháy mãi không nguôi, tr.12].

Về sức sống của thơ trong cơ chế thị trường hiện nay, Thanh Thảo khẳng định: Nó "vẫn là thứ dây leo khó bảo mà những lưỡi rìu thực dụng chặt đứt chỗ này nó lại mọc lên chỗ khác" [Hướng tới Nobel hay Nobell? Tr.89]. Nhân bàn về sự "bền lòng" của Đường thi, Thanh Thảo đã khái quát về sức sống vĩnh cửu của thơ. Từ chỗ so sánh: thơ Đường "có tuổi thọ hơn cả tuổi thọ của Tề Thiên Đại Thánh, dầu nó không hề được ăn đào tiên", anh bắc cầu dòng suy tưởng của mình sang: cái mà thơ "được ăn chỉ là nỗi đau đớn, tủi nhục, là tình yêu vô hạn của con người. Và ánh trăng, và hoa, và cây cỏ. Cái nó ăn, là cảm giác. Cái cảm giác của một con người như một vũ trụ và của cả vũ trụ như một con người, như một hạt cát, như cái chớp mắt của thời gian". "Thơ có trước Thiên Chúa giáo, có trước Phật giáo, có trước Hồi giáo. Nhưng cho đến thời đại hiện này, thơ vẫn sống mà không có tín đồ" [Tản mạn về thơ, tr.79].

Về mối quan hệ giữa người đọc, dân tộc và thơ, Thanh Thảo có một cái nhìn khá nhất quán: Thơ "phải được đồng bào mình chấp nhận, dù không phải là toàn bộ, trước khi có thể được thế giới công nhận... Bởi không gì hạnh phúc cho bằng được đồng bào mình đồng cảm mến yêu" [Hướng tới Nobel hay Nobel? Tr.90]. "Người làm thơ ngày thường cũng nói nhỏ, họ chỉ nói to hơn trong thơ". Họ "nói về những dự cảm", "hướng đến một cộng đồng, một dân tộc, một đất nước, nó hướng đến Con Người, đến toàn nhân loại" nhưng "thơ vốn âm thầm, tìm được một người tri âm đã mừng hết lớn, đâu dám ước ao mê hoặc được hàng vạn hàng triệu người" [Có một dòng sông 80 tuổi, tr.139].
Về quan hệ giữa thơ và cuộc sống, đặc biệt là hiện thực chiến tranh, là người nằm ngay trong cuộc chiến, anh tâm sự: "Chiến tranh là một trải nghiệm khốc liệt" không ai mong muốn, "nhưng rồi khi phải đối đầu với nó, phải ngập chìm trong nó, và may mắn cuối cùng thoát ra khỏi nó". Lúc đó, "người ta có thể coi những bài thơ rất bình thường mình viết được trong chiến tranh như những vắt cơm đã nuôi mình khi đói, như hớp nước cuối cùng trong bi-đông mà mình sẻ chia với đồng đội, lại như một ân sủng mà mình nhận được" (Về thế hệ những nhà thơ chống Mỹ, tr.4).

Thanh Thảo cũng quan niệm: nói đến thơ là nói đến sự sáng tạo, nhưng cách nói của anh cũng độc đáo như thơ anh: "Hơn ai hết, người làm thơ phải là người bình tĩnh khi buông dây câu về vô định mong giật được con -cá - bặt - tăm...Nghĩa là khi làm thơ, nhà thơ biết mình sống trong lòng sự sáng tạo. Đó là niềm tự hào và điều an ủi lớn nhất đối với một nhà thơ" (Hướng tới Nobel hay Nobell? tr.90). Thách thức của thơ mà cũng là sự quyến rũ của thơ là: "Thơ chẳng ai giống ai, chẳng ai mong muốn giống ai, và không có lối đi nào chung cho hai nhà thơ cả" ( Mười năm cõng thơ leo núi, tr.66).

Bàn về thi pháp, Thanh Thảo bắt đầu bằng sự liên tưởng từ bóng đá (mà tên tuổi anh xuất hiện thường xuyên với cách bình luận rất riêng): dấu ấn thi pháp của từng nhà thơ chính là những "cú sút" từ ngữ trong thơ, "sút lọt" vào "khung thành ẩn hiện của thơ". Thi pháp của một nhà thơ "được coi như một thứ kĩ thuật đi bống, dắt bóng", chỉ khác là "khung thành trong bóng đá luôn hiện rõ trước mắt cầu thủ, còn "khung thành" trong thơ lại lúc ẩn lúc hiện, và người là thơ chẳng biết khi nào thì đưa được ngôn từ vào đúng dòng thơ, vào "lọt" bài thơ. Những "cú sút" từ ngữ trong thơ mang nặng dấu ấn thi pháp của từng nhà thơ" ("Thời máu xanh" và số phận người lính, tr.124-125).

Về ngôn ngữ, hình tượng, biểu tượng thơ, Thanh Thảo quan niệm: chớ nên tưởng rằng "ngôn ngữ thơ là làm phong phú ngôn ngữ con người", mà "nó chỉ chắt lọc tinh túy của ngôn ngữ con người". cũng đừng nghĩ rằng: những hình ảnh,những biểu tượng thơ chỉ có kích thích trí tưởng tượng của con người, mà "nó còn khiến con người vững tin rằng ngoài những hình ảnh thế giới  mà mình thấy được, cảm nhận được còn những hình ảnh mà mình chưa thấy nhưng sẽ thấy, chưa cảm được nhưng sẽ cảm được. Có những giấc mơ mình sẽ mơ, và có những cuộc đời mình sẽ sống cùng với cuộc đời chính mình đang sống" (Tản mạn về thơ, tr.81).

Có người phỏng vấn hỏi rằng: "Có cảm giác anh đã bắt kịp một chân sang thơ hiện đại-điều rất khó đối với một thế hệ thơ thời chiến?", Thanh thảo bộc bạch: "Thực ra, nhà thơ cách tân không phải lúc nào cũng chăm chăm làm cho mình quái lạ đi. Làm thơ phải cực kỳ đơn giản, làm mà như không ấy" [Tôi hối hả quét dọn con người mình, tr.88]. Anh quan niệm: Tư duy thơ hiện đại là kiểu tư duy có bước nhảy cấu tứ thơ đầy khoảng lặng tạo nên rất nhiều "không gian rỗng" trong thơ: "Chính ở khoảng giữa của những câu thơ độc lập tương đối, đã ẩn hiện cái không gian rỗng của bài thơ, là cái thoạt nhìn, mới đọc cứ ngỡ như không thấy gì, không nói lên điều gì. Cái kỳ lạ của thơ là ở đó: chữ nương tựa vào không - chữ, chỗ dày rậm cậy nhờ chỗ trắng trong, không - gian - đặc được cấu trúc lên nhờ không - gian - rỗng". Anh cho rằng: khác với thơ cổ điển, thơ hiện đại "không nhằm vào từng câu thơ" mà nhằm vào "từng mảng thơ", "những mảng tối, mảng sáng trong bài thơ đan xen nhau, những mảng có nghĩa và vô nghĩa đan xen nhau… buộc tiềm thức, vô thức của ta phải làm việc, buộc ta phải ngụp lặn xuống lòng nước tối, ngụp lặn vào chính những giấc mơ của ta" [Tản mạn về thơ, tr. 80-81]. Chính cái "lòng nước tối", "những giấc mơ" ấy đã tạo nên độ mờ nhòe nghĩa lý câu thơ của Thanh Thảo. Anh rất tâm đắc với "Lý thuyết phân tích tinh thần" của Erich Fromm: "Tuyệt đại đa số các giấc mơ có một đặc trưng chung: chúng không tuân theo quy luật logích đã chi phối lộ trình tư duy khi chúng ta thức tỉnh; ở đây phạm trù thời gian, không gian bị coi thường" [Ngôn ngữ bị lãng quên, tr.11].

Đánh giá sự vận động của thơ Việt Nam những năm cuối thế kỷ XX, Thanh Thảo nhận xét: "Mười năm thơ Việt cuối thế kỷ là mười năm có những chuyển động ngầm, như những khối sóng dưới lòng sông sâu, những chuyển động có một bề nổi hòa hoãn, nhưng một bề chìm quyết liệt, nhiều lúc không khoan nhượng" [Mười năm cõng thơ leo núi, tr.64)]. Trong bài phát biểu có tựa đề "Thơ mãi mãi là bí mật" (mà sắp tới nó sẽ trở thành đầu đề một tập phê bình - tiểu luận dày hơn 400 trang đang chuẩn bị xuất bản) tại Liên hoan thơ quốc tế ở Pháp (11/2003), xuất phát từ “một ánh nắng vàng hoe” của Maiacopxki, Thanh Thảo nhận định: "Ánh nắng ấy là thơ, mà sự bí ẩn của nó không chia đều cho tất cả mọi người , trong tất cả mọi thời điểm của cuộc đời. Nó có thể đến với người này, lúc này, với người khác, lúc khác. Bất chợt hiện và bất chợt tan... Thơ không từ chối bất cứ cái gì, nhưng thơ khao khát sự bí ẩn".

Chính quan niệm "Thơ mãi mãi là bí mật" nên cả cuộc đời thơ của mình, Thanh Thảo, từ trước đến sau, vẫn cứ khư khư giữ mãi cái khoảng lặng bí mật ấy. Vì thế, người ta bảo thơ Thanh Thảo quá khó hiểu cũng có cái lý của nó. Gần đây nhất, trong bài trả lời phỏng có tựa đề "Thơ chẳng là gì nhưng cũng có thể là tất cả", Thanh Thảo tóm lại quan niệm thơ của mình: "Quan niệm của tôi về thơ vẫn thế, chẳng có gì mới hoặc cũ hơn". Có thể có người "thay đổi hẳn quan niệm của mình" hoặc "ngộ" được thơ sau khi đọc một bài thơ. Nhưng cũng có người chỉ để "khẳng định thêm những điều mình đã nghĩ". Còn theo anh, "thơ phải hiện đại, bởi chúng ta đang sống thời hiện đại nhưng muôn đời, thơ vẫn là chuyện rút ruột rút gan mình ra mà thôi" [tr.82-83].

Khi được hỏi về sự ảnh hưởng của phương Tây trong quá trình hiện đại hóa thơ ca Việt Nam, Thanh Thảo trả lời rất đơn giản: "tính hiện đại" không phải do "những kĩ thuật thơ phương Tây" mang đến, "mà còn đến từ sự phối hợp tự nhiên và bất ngờ của thơ phương Tây với khả năng dồn nén, tích chứa, u mặc, phẳng lặng mà sâu thẳm của thơ phương Đông, của tâm hồn thơ Việt. Và cái chính là phải qua ngôn ngữ riêng biệt của từng nhà thơ" [Thơ chẳng là gì nhưng cũng có thể là tất cả, tr.83].
Về cái đẹp trong thơ, đặc biệt là thơ hiện đại, anh cho rằng: đây là vấn đề không đơn giản, nhưng anh khẳng định: "Cái đẹp của thơ bây giờ phải khác thôi...có thể "tục"(vulgarism), có thể "bẩn" (dirty) mà vẫn đẹp đấy. Bởi chỉ có Đức Mẹ Đồng Trinh mới sinh con mà hoàn toàn sạch sẽ, tinh khiết thôi. Các cuộc sinh nở bình thường khác, những cuộc sinh nở của con người, đều có phần "vulgarism" và "dirty". Thơ cũng vậy thôi. Có điều, cái cuối cùng là "đứa con", là "bài thơ" như một sản phẩm tự nhiên, sống" [Thơ chẳng là gì nhưng cũng có thể là tất cả, tr.85].

Là một nhà thơ có một giọng điệu thơ "lạ" ngay từ những ngày đầu cầm bút, sau những thành công ban đầu, Thanh Thảo không "chững lại” mà luôn tự vượt lên mình. Là một người say mê nghiên cứu các lý thuyết, các trào lưu văn học hiện đại phương Tây kết hợp với thực tiễn sáng tác của mình, Thanh Thảo đã có những quan niện thơ đáng để ta ghi nhận.
                Tháng 12/2004
                M.B.A

(nguồn: TCSH số 191 - 01 - 2005)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN QUANG HÀTrong đời có những bài thơ người ta quên, mà chỉ nhớ một câu nằm lòng. Bởi đó là những câu thơ thực sự, những câu thơ thi sĩ. Từ xưa đến nay, đã có rất nhiều định nghĩa về thơ: Thơ là tiếng hát của trái tim; Thơ là hạt muối kết tinh của tình cảm; Thơ là phút giây rung động của tâm hồn... Nói chung, những định nghĩa ấy cho ta hiểu rằng ở đâu có được sự rung động của trái tim thì ở đó có thơ.

  • ĐỖ LAI THUÝPhê bình văn học Việt Nam, sau sự khởi nguồn của Thiếu Sơn với Phê bình và Cảo luận (1933) chia thành hai ngả. Một xuất phát từ Phê bình để trở thành lối phê bình chủ quan ấn tượng với Hoài Thanh và Thi nhân Việt Nam (1942). Lối kia bắt nguồn từ Cảo luận tạo nên phê bình khách quan khoa học với Vũ Ngọc Phan của Nhà văn hiện đại (1942), Trần Thanh Mai của Hàn Mặc Tử (1941), Trương Tửu của Nguyễn Du và Truyện Kiều (1942), Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ (1945). Sự phân chia này, dĩ nhiên, không phải là hành chính, mà là khoa học, tức sự phân giới dựa trên những yếu tố chủ đạo, nên không phải là không thể vượt biên. Bởi, mọi biên giới đều mơ hồ hơn ta tưởng, nhất là ở khoa học văn chương.

  • LTS: Marcel Reich-Ranicki, sinh năm 1920, người ở Đức được mệnh danh là "Giáo hoàng văn học", là nhà phê bình văn học đương đại quan trọng nhất của CHLB Đức. "Một lời biện hộ cho thơ" là bài thuyết trình đọc vào ngày 30.11.1980 nhân dịp ra mắt Tập 5 của "Tuyển thơ Frankfurt" trong khuôn khổ chuyên mục thơ của nhật báo "Frankfurter Allgemeine Zeitung" (FAZ) mà tác giả là chủ biên phần văn học từ 1973 đến 1988.Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài "Một lời biện hộ cho thơ" của ông sau đây do dịch giả Trương Hồng Quang thực hiện.

  • TRẦN HUYỀN SÂMGeorge Sand (1804-1876) là một gương mặt độc đáo trên văn đàn Pháp thế kỷ XIX. Cùng thời với những cây bút nổi tiếng như: A.Lamartine, V.Hugo, A.Vigny, A.Musset... nữ sĩ vẫn tạo cho mình một tầm vóc riêng không chìm khuất. George Sand bước vào thế giới nghệ thuật bằng một thái độ tự tin và một khát vọng sáng tạo mãnh liệt. Với hơn hai mươi cuốn tiểu thuyết đồ sộ, G.Sand đã trở thành một tên tuổi lừng danh ngay từ đương thời. Dĩ nhiên, bà lừng danh còn bởi nhiều mối tình bất tử, trong đó có nhà thơ Pháp nổi tiếng A.Musset và nhạc sĩ thiên tài Chopin người Ba Lan.

  • PHẠM QUANG TRUNGCó lần, dăm ba người có thiên hướng lý luận chúng tôi gặp nhau, một câu hỏi có thể nói là quan thiết được nêu ra: trong quan niệm văn chương, e ngại nhất là thiên hướng nào? Rất mừng là ý kiến khá thống nhất, tuy phải trải qua tranh biện, không đến nỗi quyết liệt, cũng không phải hoàn toàn xuôi chiều hẳn. Có lẽ thế mới hay!

  • NGUYỄN HỮU HỒNG MINH1- "Thơ trẻ- Những giá trị mới" là một "mưu mô" của nhà phê bình trẻ Nguyễn Thanh Sơn và nhóm "Văn nghệ mới" (bao gồm Nguyễn Hữu Hồng Minh, Văn Cầm Hải, Phan Huyền Thư, Ly Hoàng Ly, Nguyễn Vĩnh Tiến, Dạ Thảo Phương... và một số người khác) dự tính tập hợp, tuyển chọn 1 tuyển thơ của 10 (hay nhiều hơn) tác giả trẻ từ 30 tuổi trở xuống, xuất hiện trong vòng 3 năm cuối cùng của thế kỉ để trình làng giới thiệu chân dung thế hệ mình.

  • NGUYỄN HOÀN Trịnh Công Sơn là một hiện tượng độc đáo của âm nhạc và văn hoá Việt Nam được ái mộ không chỉ ở trong nước mà cả ở nước ngoài. Vì thế mà từ khi ông qua đời đến nay đã có trên chục đầu sách viết về ông, một số lượng hiếm thấy đối với các nhạc sĩ khác. Gần đây có cuốn “Trịnh Công Sơn vết chân dã tràng” của Ban Mai do Nhà xuất bản Lao Động, Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây xuất bản, Hà Nội, 2008. Với niềm ngưỡng mộ tài hoa và nhân cách nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, tôi đã hăm hở tìm đọc cuốn sách mới này nhưng tiếc thay, chưa kịp trọn nỗi mừng đã phải thất vọng về những trang viết đánh giá đầy sai lệch và thiếu sót, phiến diện về Trịnh Công Sơn và chiến tranh Việt Nam.

  • HOÀNG QUỐC HẢIThơ Lý - Trần có mạch nguồn từ Đinh - Lê, nếu không muốn nói trước nữa. Rất tiếc, nguồn tư liệu còn lại cho chúng ta khảo cứu quá nghèo nàn.Nghèo nàn, nhưng cũng đủ tạm cho ta soi chiếu lại tư tưởng của tổ tiên ta từ cả ngàn năm trước.

  • NGUYỄN VĂN THUẤN          (Nhóm nghiên cứu - lý luận phê bình trẻ)Thời gian gần đây, tại Việt , các tác phẩm của nhà văn Nhật Bản H.Murakami thường xuyên được dịch và xuất bản. Là một giọng nói hấp dẫn trên văn đàn thế giới, sáng tác của ông thu hút đông đảo công chúng và dành được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, phê bình. Một trong những tiểu thuyết làm nên danh tiếng của ông là Rừng Nauy.

  • PHAN TÂMQuê hương Phan Đăng Lưu, xã Hoa Thành, huyện Yên Thành, cách Kim Liên, Nam Đàn, quê hương Hồ Chí Minh khoảng 60 km.Hai nhân cách lớn của đất Nghệ An. Không hẹn mà gặp, xuất phát từ lương tri dân tộc, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, đến chủ nghĩa Mac - Lê nin, thành hai chiến sĩ cộng sản Việt Nam nổi tiếng.

  • THÁI DOÃN HIỂUNhà thơ Võ Văn Trực thuộc loại tài thì vừa phải nhưng tình thì rất lớn. Chính cái chân tình đó đã giúp anh bù đắp được vào năng lực còn hạn chế và mong manh của mình, vươn lên đạt được những thành tựu mới đóng góp cho kho tàng thi ca hiện đại của dân tộc 4 bài thơ xuất sắc: “Chị, Vĩnh viễn từ nay, Thu về một nửa và Nghĩa địa làng, người ta sẽ còn đọc mãi.

  • HÀ  ÁNH MINHBài thứ nhất, Một cuộc đời "Ngậm ngải tìm trầm" của Vương Trí Nhàn, đăng trên tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam số Xuân Canh Thìn năm 2000, và bài thứ hai "Sư phụ Thanh Tịnh làm báo tết" của Ngô Vĩnh Bình, đăng trên báo Văn Nghệ, số Tết cũng năm Canh Thìn 2000. Bài đầu tiên viết dài, giọng văn trau chuốt điệu nghệ. Bài sau ngắn, mộc mạc.

  • LÊ THỊ HƯỜNGDẫu mượn hình thức của thể kí, dẫu tìm đến vần điệu của thơ, điểm nhất quán trong sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường là một cái tôi say đắm thiên nhiên. Đằng sau những tài hoa câu chữ là một cái tôi đa cảm - quá chừng là đa cảm - luôn dành cho cỏ dại những tình cảm lớn lao.  

  • BỬU NAM1. Nếu văn xuôi hư cấu (đặc biệt là tiểu thuyết) chiếm vị trí hàng đầu trong bức tranh thể loại của văn học Mỹ - La tinh nửa sau thế kỷ XX, thì thơ ca của lục địa này ở cùng thời gian cũng phát triển phong phú và rực rỡ không kém, nó tiếp tục đà cách tân và những tìm tòi đổi mới của những nhà thơ lớn ở những năm 30 - 40.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP1. Khi chạm vào cơn lốc và những điệu rock thơ mang tên Vi Thuỳ Linh, bất chợt tôi nhớ đến câu thơ dịu dàng và sâu thẳm của Paul Eluard: Trái đất màu xanh như một quả cam. Với P. Eluard, tình yêu là một thế giới tinh khiết, rạng rỡ và ngọt ngào: Đến mức tưởng em khỏa thân trước mặt. Còn Vi Thuỳ Linh, nếu ai hỏi thế giới màu gì, tôi đồ rằng nàng Vi sẽ trả lời tắp lự: Màu yêu.

  • HÀ VĂN LƯỠNG1. Cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của nhân dân Xô Viết là một bản anh hùng ca bất tử của dân tộc Nga trong thế kỷ XX (1941-1945). Nó mãi mãi đi vào lịch sử vẻ vang và oanh liệt, không chỉ của đất nước Xô Viết mà còn cả với nhân loại tiến bộ yêu chuộng hòa bình trên thế giới, khẳng định bản chất tốt đẹp và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của con ngưòi Xô Viết.

  • LƯƠNG THỰC THULTS: Lương Thực Thu, sinh năm 1903 tại Bắc Kinh, thời nhỏ học ở trường Thanh Hoa. Năm 1923 du học tại Mỹ. Năm 1926 về nước, lần lượt dạy học ở trường Đại học Đông Nam, Đại học Thanh Đảo, Đại học Bắc Kinh, và Đại học Sư phạm Bắc Kinh. Năm 1949 sang ở Đài Loan, chủ yếu giảng dạy ở Đại học Sư phạm Đài Loan. Năm 1966 nghỉ hưu, năm 1987 ốm chết tại Đài Bắc.

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG   (Đọc “Lý luận và văn học”, NXB Trẻ 2005 của GS.TS Lê Ngọc Trà)Ra mắt bạn đọc năm 1990, năm 1991, cuốn sách “Lý luận và văn học” của Giáo sư - Tiến sĩ Lê Ngọc Trà được trao giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam. 15 năm qua, những tưởng một số vấn đề về lý luận văn học mà cuốn sách đề cập đã không còn mới, đã “lạc hậu” so với tiến trình phát triển của văn học. Nhưng không, khi đọc lại cuốn sách được nhà xuất bản Trẻ tái bản lần thứ nhất năm 2005, những vấn đề mà GS.TS Lê Ngọc Trà đề cập vẫn còn nóng hổi và giữ nguyên tính thời sự của nó.

  • TRẦN ĐÌNH SỬLí luận văn học Việt Nam thế kỉ XX đã trải qua ba lần thay đổi hệ hình tư duy. Lần thứ nhất diễn ra vào những năm 1932 đến 1945 với việc hình thành quan niệm văn học biểu hiện con người, xã hội, lấy thẩm mĩ làm nguyên tắc, chống lại quan niệm văn học thời trung đại lấy tải đạo, giáo huấn, học thuật làm chính tông, mở ra một thời đại mới trong văn học dân tộc.

  • HỒ THẾ HÀĐà Linh - Cây bút truyện ngắn quen thuộc của bạn đọc cả nước, đặc biệt, của Đà Nẵng với các tác phẩm Giấc mơ của dòng sông (1998), Nàng Kim Chi sáu ngón (1992),Truyện của Người (1992) và gần đây nhất là Vĩnh biệt cây Vông Đồng (1997). Bên cạnh ấy, Đà Linh còn viết biên khảo văn hoá, địa chí và biên dịch.