Phương pháp xã hội học trong nghiên cứu văn học

15:04 12/03/2009
NGUYỄN VĂN DÂNTheo định nghĩa chung, xã hội học là khoa học nghiên cứu về các sự việc mang tính chất xã hội. Mặc dù cội nguồn của nó phải kể từ thời Aristote của Hy Lạp, nhưng với tư cách là một ngành khoa học, thì xã hội học vẫn là một bộ môn khoa học khá mới mẻ. Ngay cả tên gọi của nó cũng phải đến năm 1836 mới được nhà triết học người Pháp Auguste Comte đặt ra.

Ông đề xuất một ngành khoa học mới mà ban đầu ông gọi là “vật lý học xã hội” và sau đó gọi là “xã hội học”. Ngày nay, người ta đã định nghĩa xã hội học là khoa học nghiên cứu về xã hội con người và về các sự việc xã hội(1); hay là khoa học nghiên cứu sự phát triển, cơ cấu và chức năng của xã hội con người(2). Nói cụ thể là xã hội học nghiên cứu sự tương tác giữa một bên là các cơ cấu và thể chế xã hội cũng như các vấn đề xã hội với một bên là sự phát triển của xã hội. Và trong số “các cơ cấu, thể chế và vấn đề xã hội” đó có văn học và nghệ thuật. Chính vì vậy mà trong ngành xã hội học có một bộ môn được gọi là “xã hội học nghệ thuật”, trong đó bao hàm cả một đối tượng là văn học.

Như thế, xã hội học văn học là lĩnh vực nằm trong ngành xã hội học nói chung, vậy tại sao những người làm lý luận văn học lại quan tâm đến xã hội học văn học và lại áp dụng phương pháp xã hội học để nghiên cứu văn học? Đó là vì trên thực tế, do có sự đa dạng lớn trong các phương pháp nghiên cứu và các phương thức tiếp cận lý luận, cho nên các nhà xã hội học thuộc một lĩnh vực riêng biệt thường có nhiều điểm chung với những người làm việc ở bộ môn đối tác với lĩnh vực đó hơn là với những nhà xã hội học làm việc ở các lĩnh vực riêng biệt khác trong ngành xã hội học. Chính vì vậy mà một nhà xã hội học văn học sẽ gần gũi, thậm chí là đồng nhất, với một nhà nghiên cứu văn học, hơn là với một đồng nghiệp của họ ở một lĩnh vực xã hội học khác, như lĩnh vực xã hội học về lao động chẳng hạn.

Nằm trong ngành xã hội học, bộ môn xã hội học văn học cũng nhanh chóng phát triển, và từ giữa thế kỷ XX nó trở thành một khoa học phổ biến trên thế giới. Nhiều nước đã thành lập các ban, các trung tâm nghiên cứu xã hội học văn học nằm trong các viện xã hội học hoặc trong các trường đại học. Đại hội VI của Hiệp hội Văn học So sánh Quốc tế họp tại Bordeaux (Pháp) năm 1970 đã lấy chủ đề là Văn học và xã hội, đánh dấu thái độ nhất trí quan tâm của giới nghiên cứu văn học trên thế giới đối với cách tiếp cập xã hội học văn học. Ở nước ta hiện nay, Viện Xã hội học có một phòng nghiên cứu về văn hoá: Phòng Văn hoá, trong đó văn học chưa được chú ý nhiều. Có thể nói ở nước ta, xã hội học văn học chưa có được những thành tựu đáng kể. Và nếu có, thì đó là kết quả của các chuyên gia nghiên cứu văn học nhiều hơn là của các nhà xã hội học chuyên nghiệp. Ở đây, tôi sẽ giới thiệu xã hội học văn học với tư cách là phương pháp áp dụng cho nghiên cứu văn học.

Nói đến xã hội học văn học, chúng ta phải kể tới đóng góp của nhà xã hội học người Pháp Robert Escarpit, giáo sư Đại học Bordeaux III (1910-?). Năm 1958, ông đã cho xuất bản một công trình được coi là tác phẩm giáo trình “kinh điển” của xã hội học văn học nhan đề: Xã hội học văn học, trong đó ông chia văn học ra làm ba bộ phận cơ bản: + sản xuất, + phân phối [phổ biến, truyền bá] và + tiêu thụ văn học. Tức là thuật ngữ “văn học” không còn chỉ đơn thuần có nghĩa là sản xuất ra tác phẩm văn học như trước đây người ta vẫn thường quan niệm, mà nó còn bao gồm cả hoạt động tiêu thụ văn học. Với Escarpit, quá trình văn học sẽ bao gồm các khâu: tác giả – tác phẩm – công chúng. Ở đây, Escarpit đã dùng các thuật ngữ mang tính chất xã hội hoá, theo đúng với tinh thần là việc viết văn đã trở thành một nghề trong xã hội: nghề viết văn [“le métier des lettres”]. Trong cuốn sách của ông, ông đã giới thiệu cái nghề này rất tường tận.

Tuy nhiên chúng tôi phải nói rằng, cuốn sách của ông chỉ là một cuốn cẩm nang đặc thù về công tác điều tra xã hội học đối với văn học với tư cách là một đối tượng xã hội học, chứ ông không đi sâu phân tích hiệu quả nghệ thuật của mối quan hệ tương tác giữa xã hội và văn học. Ông điều tra rất kỹ các yếu tố con người và xã hội của nhà văn như tuổi tác, nơi sinh, thành phần xã hội-nghề nghiệp; ông cũng khảo sát khâu phân phối văn học với các phương thức và thiết chế như nhà xuất bản, thư viện...; và ông phân tích chi tiết các thành phần “công chúng” trong khâu “tiêu thụ văn học”. Nhưng tất cả những cái đó chỉ dừng lại ở các sự việc mang tính chất gần như thuần tuý xã hội học, chúng không dẫn tới những kết luận về mặt giá trị nghệ thuật và thẩm mỹ của tác phẩm và hiện tượng văn học. Tức là khái niệm “xã hội học văn học” của Escarpit nặng về vế “xã hội học” và nhẹ về vế “văn học”. Ở đây ông chỉ đứng từ góc độ xã hội học để điều tra các sự việc văn học, chứ ông không đứng từ góc độ văn học để đánh giá văn học trong mối quan hệ với xã hội. Đọc nó, ta chỉ thấy chân dung của nhà xã hội học mà không thấy bóng dáng của văn học. Chính vì vậy mà qua cuốn sách của ông, chúng ta sẽ không rút ra được những bài học về mặt áp dụng phương pháp xã hội học cho nghiên cứu văn học. Cho nên theo tôi, cuốn sách của ông chỉ có giá trị là một cuốn sách nhập môn, đưa ra những đường hướng chung cho xã hội học văn học. Nó là một cuốn cẩm nang cho các nhà xã hội học chứ không phải cho các nhà nghiên cứu văn học. Dù sao đây cũng là một trong những cuốn sách đầu tiên đề cập một cách khá đầy đủ đến mọi khía cạnh của lĩnh vực xã hội học văn học.

Tuy nhiên không phải bất cứ một nhà xã hội học văn học nào cũng đi theo hướng nghiên cứu của Escarpit, mà trên thực tế trong ngành xã hội học văn học đã hình thành hai xu hướng khá rõ rệt: xu hướng thứ nhất tập trung chú ý vào sự tác động của xã hội đến văn học, xu hướng này ban đầu có vẻ như được nhiều người quan tâm hơn và có thể được gọi là xã hội học sáng tác; xu hướng thứ hai chú ý vào sự tác động của văn học đến xã hội, được gọi là xã hội học tiếp nhận. Về xã hội học tiếp nhận, tôi đã có dịp bàn đến nó(3), nay tôi xin đề cập riêng đến xu hướng thứ nhất mà ta có thể gọi là “phương pháp xã hội học sáng tác”.

Xu hướng xã hội học nghiên cứu sự tác động của xã hội đến sáng tác văn học là một xu hướng phổ biến và đã có nguồn gốc từ lâu. Xu hướng này ban đầu được thể hiện một phần trong những công trình không chuyên về xã hội học. Nhưng đến thế kỷ XX thì nó được thể hiện thành những công trình chuyên luận xã hội học văn học một cách triệt để. Ở đây, tôi xin giới thiệu một chuyên gia về xã hội học văn học đã có ý muốn xác lập những nguyên tắc lý thuyết cho lĩnh vực xã hội học sáng tác, đó là nhà xã hội học văn học người Pháp Lucien Goldmann (1913-1970).

Trong công trình Vì một xã hội học tiểu thuyết, ( Paris , 1964), Goldmann, một học trò của G. Lukacs (Hungari), đã thiết lập những nguyên tắc phương pháp luận cho việc nghiên cứu xã hội học tiểu thuyết. Ông tuyên bố: “...vấn đề đầu tiên mà một khoa học xã hội học tiểu thuyết cần phải giải quyết là vấn đề về mối quan hệ giữa chính cái hình thức tiểu thuyết với cái cơ cấu [hay “cấu trúc”] của môi trường xã hội mà trong đó cái hình thức tiểu thuyết được phát triển, tức nó là vấn đề về tiểu thuyết như là một thể loại văn học và về cái xã hội hiện đại mang tính cá nhân chủ nghĩa”(4). Và cái xã hội mang tính cá nhân chủ nghĩa này, Goldmann cho rằng nó là “do nền sản xuất phục vụ thị trường sinh ra”; rằng “Có một sự giống nhau chặt chẽ giữa hình thức văn học của tiểu thuyết [...] so với mối quan hệ hàng ngày của con người với của cải nói chung, và mở rộng ra là mối quan hệ của con người với con người trong một xã hội sản xuất phục vụ thị trường”(5). Và, căn cứ vào quan niệm của Lukacs cho rằng hình thức của tiểu thuyết được đặc trưng hoá bởi sự tồn tại của một nhân vật chính được ông định nghĩa rất thích đáng là nhân vật có vấn đề, Goldmann đi đến chỗ quan niệm rằng “Tiểu thuyết là lịch sử một sự tìm kiếm mang tính biến thoái [...], một sự tìm kiếm các giá trị đích thực trong một thế giới cũng bị biến thoái nhưng ở một cấp độ cao hơn nhiều và theo một phương thức khác”(6). Goldmann cho rằng các giá trị đích thực là những giá trị đặc trưng cho mỗi cuốn tiểu thuyết và chúng khác nhau theo từng cuốn tiểu thuyết. Như vậy, giá trị đích thực là căn cứ để đánh giá sự biến thoái của nhân vật, và nhà nghiên cứu phải phân tích các giá trị đích thực ngoài đời để xác địch các giá trị đích thực trong một cuốn tiểu thuyết.

Theo Goldmann, trong xã hội, giá trị sử dụng của các đồ vật sẽ là giá trị đích thực; còn trong xã hội sản xuất phục vụ thị trường của chủ nghĩa tư bản, thì giá trị sử dụng bị biến thoái thành giá trị trao đổi. Đồng thời, trong cái xã hội có sự biến thoái từ giá trị sử dụng thành giá trị trao đổi ấy, vẫn còn một số cá nhân – là những người sáng tạo trong tất cả mọi lĩnh vực văn hoá-tinh thần – vẫn muốn tìm kiếm các giá trị sử dụng, và vì thế, họ bị gạt ra ngoài lề xã hội và trở thành những cá nhân có vấn đề. Và trên bình diện văn học, những cá nhân có vấn đề đó được thể hiện thành các nhân vật có vấn đề. Đó chính là cái lịch sử đồng đẳng của cơ cấu xã hội và cấu trúc tiểu thuyết mà đối với mỗi cuốn tiểu thuyết, nhà nghiên cứu xã hội học có nhiệm vụ phải tìm ra.

Từ quan niệm trên, Goldmann đi đến quan niệm về cái mà ông gọi là “Phương pháp cấu trúc phát sinh trong lịch sử văn học”. Ông đã trình bày một số nguyên tắc cơ bản của phương pháp cấu trúc phát sinh như sau:
Phương pháp cấu trúc phát sinh xuất phát từ giả thiết cho rằng bất cứ một hành vi ứng xử nào của con người cũng là một nỗ lực muốn đưa ra một lời giải đáp có ý nghĩa đối với một tình huống riêng biệt, và chính qua đó nó có xu hướng muốn tạo ra sự cân bằng giữa chủ thể hành động với đối tượng nhận thức của nó, tức là thế giới quanh ta. Tuy nhiên xu hướng cân bằng này luôn mang một tính chất không bền và tạm thời, bởi vì bất cứ sự cân bằng nào cũng sẽ dẫn đến tình trạng trong đó thái độ ứng xử của con người sẽ làm biến đổi thế giới, và sự biến đổi thế giới sẽ làm cho thế cân bằng cũ trở nên không đáp ứng và sản sinh ra xu hướng cân bằng mới để rồi cuối cùng đến lượt nó, nó lại bị đào thải. Như thế, hiện thực con người diễn ra như một quá trình hai mặt: + giải kết cấu đối với các cơ cấu cũ và + kết cấu các cơ cấu mới để tạo ra thế cân bằng nhằm đáp ứng những yêu cầu mới của các tầng lớp xã hội(7). Phương pháp nghiên cứu cái quá trình giải kết cấu và kết cấu này được Goldmann gọi là “phương pháp cấu trúc [hay cơ cấu] phát sinh”. Sau đó Goldmann lần lượt giải quyết những vấn đề mà phương pháp cấu trúc phát sinh gặp phải.

Thứ nhất là vấn đề chủ thể của tư tưởng và hành động. Ông cho rằng bất cứ cá nhân nào cũng phải nằm trong một tầng lớp xã hội nhất định. Do đó trong lĩnh vực văn hoá-văn học, người sáng tạo chỉ là người đại diện cho một tầng lớp xã hội, và tầng lớp xã hội, “xét đến cùng, mới chính là chủ thể thực sự của hành động sáng tác, thông qua người sáng tác”(8).
Về điểm này, theo Goldmann, phương pháp cấu trúc phát sinh là một sự thay đổi hoàn toàn phương hướng nghiên cứu, bởi vì giả thiết cơ bản của nó là nó cho rằng tính chất tập thể của sự sáng tạo văn học được hình thành bởi một điều: cấu trúc của thế giới tác phẩm có tính chất đồng đẳng với cấu trúc tinh thần của một số tầng lớp xã hội, trong khi trên bình diện nội dung, tức là trên bình diện của sự sáng tạo ra những thế giới tưởng tượng nằm dưới sự chi phối của các cấu trúc đó, thì nhà văn có một sự tự do sáng tạo hoàn toàn(9).

Thứ hai là vấn đề “cắt lớp đối tượng”. Vấn đề này yêu cầu nhà xã hội học văn học khi nghiên cứu bằng phương pháp cấu trúc phát sinh sẽ phải phân định phạm vi cho các nhóm dữ liệu kinh nghiệm với tư cách là các thành tố làm nên các cấu trúc, các tổng thể tương đối, và sau đó phải đưa chúng vào trong các cấu trúc khác rộng lớn hơn nhưng phải cùng loại, và cứ tiếp tục như thế. Trong quá trình cắt lớp đối tượng này, khâu đoạn làm sáng tỏ một cấu trúc ý nghĩa của tác phẩm được Goldmann gọi là quá trình tìm hiểu tác phẩm; còn khâu đoạn đưa tác phẩm vào trong một cấu trúc [hay cơ cấu] rộng lớn hơn được ông gọi là quá trình lý giải đối với tác phẩm đó.

Cuối cùng Goldmann nói đến “chức năng của sự sáng tạo văn hoá trong đời sống của con người”. Về vấn đề này ông cho rằng sự sáng tạo văn hoá là để “bù đắp cho sự pha tạp và cho những sự thoả hiệp mà thực tế đã áp đặt cho các chủ thể con người, và nó tạo thuận lợi để cho họ hoà nhập vào thế giới thực tại, điều này có thể là cơ sở tâm lý học của sự thanh lọc [catharsis]. Ở đây, Goldmann đã kết hợp chiết trung chủ nghĩa Mác với tâm phân học Freud để xây dựng nên phương pháp cấu trúc phát sinh.

Như vậy ở Goldmann có sự kết hợp các phương pháp (mặc dù có phần chiết trung, máy móc) để phục vụ cho một công trình nghiên cứu xã hội học về văn học. Về cơ bản Goldmann vẫn là một nhà xã hội học văn học, bởi vì các nguyên tắc và mục đích phương pháp luận của ông vẫn là thuộc lĩnh vực xã hội học. Ông không bàn sâu về các nguyên tắc của chủ nghĩa cấu trúc, mà ông chỉ áp dụng phương pháp phân tích cấu trúc và tâm phân học để rút ra những kết luận về xã hội học, về cơ sở xã hội của cấu trúc tiểu thuyết. Thuật ngữ “cấu trúc” của ông đôi khi có thể được hiểu một cách rất phóng khoáng. Thậm chí cái phương pháp cấu trúc phát sinh của ông cũng có thể được gọi là phương pháp hệ thống. Bởi lẽ, những cái mà ông gọi là các cấu trúc/cơ cấu x• hội nhiều tầng cũng có thể được gọi là những hệ thống, và nếu thay thuật ngữ “cấu trúc” bằng thuật ngữ “hệ thống”, thì ta cũng có thể gọi phương pháp của Goldmann là “phương pháp hệ thống phát sinh”. Do đó trong trường hợp của Goldmann, nếu ta có tiếp thu những thành tựu phương pháp của ông thì ta có thể gọi phương pháp của ông là “phương pháp xã hội học hệ thống-cấu trúc/cơ cấu”. Vì thế, đối với Goldmann, tôi vẫn xếp ông vào phương pháp xã hội học chứ không xếp ông vào chủ nghĩa cấu trúc như có người đã làm.

Ở cuối công trình, Goldmann cũng đã nói đến “chức năng của sự sáng tạo văn hoá trong đời sống của con người”, đó là chức năng giống như kiểu “thanh lọc” [catharsis] của Aristote, nhưng ông chỉ coi đó là một giả thiết. Ông vẫn chưa đề cập kỹ lưỡng đến khâu tiếp nhận văn học. Do đó, xã hội học văn học của ông chủ yếu vẫn là xã hội học sáng tác. Tuy nhiên, về mặt bài học phương pháp thì cuốn sách của Goldmann có ích cho chúng ta hơn so với cuốn sách của Escarpit trong việc áp dụng phương pháp xã hội học vào nghiên cứu văn học.

Trước đây, ở thế kỷ XIX, có một nhà triết học và phê bình văn học người Pháp là Hippolyte Taine cũng đã phát triển một phương pháp nghiên cứu văn học mang tính nhân học-xã hội học. Taine cho rằng mọi nhà văn và tác phẩm đều chịu ảnh hưởng của ba yếu tố: chủng tộc, môi trường xã hội, thời đại lịch sử. Ông cho rằng các yếu tố tâm-sinh lý của nhà văn, các yếu tố về hoàn cảnh xã hội, về lịch sử thời đại, đều có một vai trò quyết định đến tính chất và giá trị của tác phẩm. Và để nghiên cứu các yếu tố đó, nhà nghiên cứu phải áp dụng các thành tựu của khoa học nhân văn – như sinh lý học, tâm lý học, nhân chủng học – và của xã hội học. Như vậy, có thể nói phương pháp nghiên cứu của Taine cũng là một mầm mống của phương pháp xã hội học hiện đại. Chỉ có điều ở ông có sự kết hợp nhiều lĩnh vực mà nếu phân tích rạch ròi theo cái nhìn ngày nay thì ta có thể còn nói đến một phương pháp sinh lý, phương pháp tâm lý và phương pháp lịch sử. Chính vì vậy mà có nhiều người đã xếp ông vào trường phái văn hoá-lịch sử. Dù sao, với quan điểm của ông về hoàn cảnh, chúng ta không thể không nhắc đến vai trò mở đầu của ông đối với phương pháp xã hội học.

Ở Việt , phương pháp xã hội học cũng đã được các nhà nghiên cứu văn học áp dụng từ lâu. Tuy nhiên nó thường được kết hợp với các phương pháp khác để giúp nhà nghiên cứu đánh giá toàn diện một đối tượng. Nhìn chung các nhà nghiên cứu của Việt thường kết hợp nghiên cứu hoàn cảnh xã hội với nghiên cứu thân thế tiểu sử, con người, sự nghiệp của nhà văn để tìm hiểu tác phẩm. Có thể nói xuất phát điểm của cách làm này là hợp lý. Chỉ có điều nếu quá lệ thuộc vào các yếu tố thân thế nhà văn và hoàn cảnh xã hội thì đôi khi sẽ dẫn đến những kết luận khiên cưỡng. Trường hợp của Nguyễn Bách Khoa là một ví dụ.

Là người chịu ảnh hưởng của các lý thuyết khoa học phương Tây, như lý thuyết nhân học-xã hội học của H. Taine, lý thuyết của nhà tâm lý học người Thuỵ Sĩ thế kỷ XX J. Piaget, lý thuyết xã hội học-lịch sử của nhà lý luận chính trị người Nga G. V. Plekhanov, lý thuyết tâm phân học vô thức của nhà tâm phân học người áo cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX S. Freud, Nguyễn Bách Khoa cũng có thể được coi là một người đa phương pháp. Mặc dù tiếp thu phương pháp xã hội học của Taine trong việc đề cao vai trò của hoàn cảnh xã hội và thời đại lịch sử, nhưng Nguyễn Bách Khoa vẫn phê phán Taine là đã không chú ý đến tâm lý cá nhân của nhà văn. Và đó là điều mà Nguyễn Bách Khoa đã quan tâm. Ông tiếp thu các phương pháp tâm lý, và tiếp thu phương pháp xã hội học-lịch sử về đấu tranh giai cấp của Plekhanov, để bổ khuyết cho phương pháp của Taine. Nhưng ở ông, cái nổi bật nhất vẫn là phương pháp xã hội học-lịch sử.

Nguyễn Bách Khoa là người rất có ý thức về phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu. Trong lời Tựa viết cho công trình Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ, ông đã công khai tuyên bố rõ ràng các nguyên tắc mà có thể gọi là “nguyên tắc phương pháp luận” của ông như sau:
“1.) Đời sống tinh thần của con người là sản phẩm của đời sống sinh lý và xã hội.
2.) Bản chất (cả sinh lý lẫn tâm lý) của con người luôn luôn biến đổi theo sự biến đổi của hoàn cảnh xã hội.
3.) Con người sau khi bị xã hội quyết định có thể ảnh hưởng trở lại đến xã hội, nhưng sức ảnh hưởng này cũng vẫn bị những điều kiện xã hội quyết định”(10). Sau đó ông cho rằng, theo các nguyên tắc trên, muốn hiểu một nhân vật lịch sử, chúng ta phải khảo sát các phương diện sau:
“1.) Khảo xét [sát - NVD] kỹ hoàn cảnh xã hội [...]
2.) Khảo xét kỹ kiến trúc nguyện vọng, tâm lý, tư tưởng, xu hướng cùng vai trò lịch sử của đẳng cấp cá nhân ấy.
3.) Khảo xét xem những ảnh hưởng của cuộc xung đột đẳng cấp trong xã hội đã tác động đến cá nhân ra sao và đã chịu sức phản động của cá nhân ấy tới chừng nào.

Tóm lại: phải nghiên cứu tất cả cái hệ thống xã hội trong đó cá nhân kia, đứng ở phạm vi đẳng cấp của mình, đã bị hoàn cảnh quyết định và đã chiến đấu để phản động lại hoàn cảnh ấy”(11).
Như vậy, Nguyễn Bách Khoa rất có ý thức quan tâm đến phương pháp làm việc của một nhà nghiên cứu, rất nhấn mạnh đến tính khoa học của phương pháp, và ông đả phá kịch liệt những người nào chỉ ưa cái thói bình văn, tán văn theo lối tụng ca mà không đưa ra được bất cứ một luận cứ nào cho sự tụng ca đó. Lối phê bình này ông gọi là “phương pháp phê bình phù phiếm”. Mặt khác ông cũng phản đối những người nào chỉ biết tôn thờ thái quá cái đẹp nghệ thuật để đi đến chỗ tuyên bố rằng vì nó đẹp quá, hay quá, nên chúng ta chỉ được phép ngắm nhìn mà ngưỡng mộ nó chứ không được phép mổ xẻ, phân tích nó. Sau đó, ông đã áp dụng cái mà ông gọi là “phương pháp duy vật biện chứng” của mình để nghiên cứu thơ Hồ Xuân Hương và Truyện Kiều.
Đối với thơ Hồ Xuân Hương, ông Nguyễn Bách Khoa đã xuất phát từ tâm phân học Freud để đi đến kết luận đó chỉ là một sản phẩm của những ẩn ức tâm sinh lý hay “là sự phản ánh của sản phẩm đó.”

Còn đối với Truyện Kiều, ông Nguyễn Bách Khoa cho rằng cái mà từ trước đến nay người ta vẫn khen nhất ở Truyện Kiều là thể thơ lục bát (tức là hình thức nghệ thuật), thì theo ông nó cũng “chỉ là sản phẩm của một trạng thái nô lệ của dân tộc trong một giai đoạn lịch sử (thời Bắc thuộc).” Và ông nhấn mạnh: “Âm điệu lục bát tiến đến chỗ tuyệt diệu là một âm điệu báo tin sự diệt vong vậy”. Còn về nội dung Truyện Kiều thì theo ông nó chỉ là sự phản ánh cái ý thức hệ ốm yếu của đẳng cấp của Nguyễn Du mà thôi: “Truyện Kiều chỉ là cái kết tinh của những cái suy nhược trong cốt tinh Việt ”. Và: “Một xã hội ốm, một đẳng cấp ốm, một cá nhân ốm: Tất cả Truyện Kiều là ở đó”. “Ý thức của nghệ sĩ quy định hình thức của tác phẩm thật là chặt chịa. Tôi thành thực hiến câu kết luận này cho sự suy nghĩ của những ai đã tưởng nhầm rằng giá trị một tác phẩm chỉ là một giá trị kỹ thuật, một giá trị về hình thức”(12). Cuối cùng ông kết luận bằng một câu phủ nhận giá trị Truyện Kiều:Truyện Kiều là một thứ văn chương đã ở một vị trí phản tiến hoá lúc đương thời của Nguyễn Du. Nó chứa chan một chất tàn héo, tiêu ma (chất thơ). Nó là kết tinh phẩm của một chặng đường suy đồi nhất trên tràng kỳ tiến hoá của cá tính Việt . Cái đẹp của Truyện Kiều ngày nay chỉ những tâm hồn muốn thụt lùi mới có thể thưởng ngoạn được”(13).

Ngày nay chúng ta đã thấy rõ là phương pháp xã hội học của Nguyễn Bách Khoa đã bộc lộ những khiếm khuyết không thể tha thứ. Ông đã có xuất phát điểm đúng khi phê phán “phương pháp phê bình phù phiếm”, nhưng ông lại sa vào một cực đoan khác: phê bình máy móc. Mặc dù ông tuyên bố phương pháp của ông là “phương pháp duy vật biện chứng”, mang tính khoa học chặt chẽ, nhưng việc thực hành phương pháp của ông lại thiếu biện chứng và thiếu chặt chẽ. Ông đã lược quy một cách thô thiển sự tác động của hoàn cảnh xã hội để suy diễn một cách máy móc, đã không thấy được mâu thuẫn trong con người Nguyễn Du khi đánh giá nội dung Truyện Kiều, và không thấy được vị trí độc lập của nghệ thuật so với ý thức giai cấp-xã hội khi ông đánh giá giá trị của thể thơ lục bát. Việc này đã làm cho cái “phương pháp duy vật biện chứng” của ông biến thành “phương pháp duy vật máy móc” và đã bị nhiều người phê phán.

Tóm lại, phương pháp xã hội học có nhiệm vụ tìm hiểu các mối quan hệ giữa văn học với xã hội. Tuy nhiên cần lưu ý rằng đây chỉ là một phương pháp bổ sung để giúp ta hiểu được những khía cạnh ngoại văn học có liên quan mật thiết đến bản chất của hiện tượng văn học, từ đó hiểu rõ bản chất của hiện tượng văn học hơn.
N.V.D
(196/06-05)

------------------
(1) Le petit Larousse illustré, Paris , 2000.
(2) Microsoft Encarta 99 Encyclopedia.
(3) Xem: Nguyễn Văn Dân: Tiếp nhận văn học – một đề tài lớn của nghiên cứu văn học, in trong Nghiên cứu văn học – lý luận và ứng dụng, H., Nxb. Giáo dục, 1999, tr. 58-91.
(4) Lucien Goldmann:
Pour une sociologie du roman, Paris , Ed. Gallimard, 1992, p. 34-35 (tái bản).
(5) L Goldmann: Như trên, tr. 36.
(6) L. Goldmann: Như trên, tr. 23.
(7) L. Goldmann: Sđd., tr. 338.
(8) L. Goldmann: Sđd., tr. 342-343.
(9) Xem L. Goldmann: Sđd., tr. 344-345.
(10) Nguyễn Bách Khoa: Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ, Nxb. Hàn Thuyên, 1944, tr. XXIV.
(11) Như trên, tr. XXIX (Nguyễn Bách Khoa nhấn mạnh).
(12)  Nguyễn Bách Khoa: Văn chương Truyện Kiều, (in lần ba), Hà Nội, Nxb. Thế giới, 1953, tr. 153-156.
(13) Như trên, tr. 166.

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN KHẮC PHÊTừ lâu, ở Huế, nhiều người đã biết tiếng ba công chúa, ba nữ sĩ (Tam Khanh) con vua Minh Mạng, em gái nhà thơ nổi tiếng Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, trong đó MAI AM là người được nhắc đến nhiều nhất. Mai Am nổi tiếng trước hết vì tài thơ và cùng vì cuộc đời riêng không được may mắn của bà, tuy bà là người sống thọ nhất trong “Tam Khanh”.

  • LÊ DỤC TÚCùng với nghệ thuật tiếp cận và phản ánh hiện thực, nghệ thuật miêu tả và khắc họa chân dung nhân vật, nghệ thuật châm biếm và sử dụng ngôn ngữ cũng là một trong những nét nghệ thuật đặc sắc ta thường gặp trong các phóng sự Việt Nam 1932 - 1945.

  • NGUYỄN VĂN DÂNTrong thế kỷ XX vừa qua, thế giới, đặc biệt là thế giới phương Tây, đã sản sinh ra biết bao phương pháp phục vụ cho nghiên cứu văn học, trong đó phương pháp cấu trúc là một trong những phương pháp được quan tâm nhiều nhất.

  • AN KHÁNHHai mươi tám năm kể từ ngày chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, đủ để một thế hệ trưởng thành, một dòng thơ định vị. Tháng 3 vừa qua, Hội Văn nghệ Hà Nội và nhóm nhà thơ - nhà văn - cựu binh Mỹ có cuộc giao lưu thú vị, nhằm tìm ra tiếng nói "tương đồng", sự thân ái giữa các thế hệ Mỹ - Việt thông qua những thông điệp của văn chương.

  • TRẦN ĐÌNH SỬ Bạn đọc Việt Nam vốn không xa lạ với phê bình phân tâm học hơn nửa thế kỷ nay, bởi nó đã bắt đầu được giới thiệu vào nước ta từ những năm ba mươi, bốn mươi thế kỷ trước. Nhưng đáng tiếc nó đã bị kỳ thị rất nặng nề từ nhiều phía. Giống như nhân loại có thời phản ứng với Darwin vì không chấp nhận lý thuyết xem con người là một loài cao quý lại có thể tiến hóa từ một loài tầm thường như loài khỉ, người ta cũng không thể chấp nhận lý thuyết phân tâm học xem con người - một sinh vật có lý trí cao quý lại có thể bị sai khiến bởi bản năng tầm thường như các loài vật hạ đẳng!

  • PHẠM ĐÌNH ÂN(Nhân kỷ niệm lần thứ 20 ngày mất của Thế Lữ 3-6-1989 – 3-6-2009)Nói đến Thế Lữ, trước tiên là nói đến một nhà thơ tài danh, người góp phần lớn mở đầu phong trào Thơ Mới (1932-1945), cũng là nhà thơ tiêu biểu nhất của Thơ Mới buổi đầu. Ông còn là cây bút văn xuôi nghệ thuật tài hoa, là nhà báo, dịch giả và nổi bật là nhà hoạt động sân khấu xuất sắc, cụ thể là đưa nghệ thuật biểu diễn kịch nói nước nhà trở thành chuyên nghiệp theo hướng hiện đại hóa.

  • THÁI DOÃN HIỂUPhàm trần chưa rõ vàng thauChân tâm chẳng biết ở đâu mà tìm.                                VẠN HẠNH Thiền sư

  • HỒ THẾ HÀ  Thi ca là một loại hình nghệ thuật ngôn từ đặc biệt. Nó là điển hình của cảm xúc và tâm trạng được chứa đựng bởi một hình thức - “hình thức mang tính quan niệm” cũng rất đặc biệt. Sự “quái đản” trong sử dụng ngôn từ; sự chuyển nghĩa, tạo sinh nghĩa trong việc sử dụng các biện pháp tu từ; sự trừu tượng hoá, khái quát hoá các trạng thái tình cảm, hiện thực và khát vọng sống của con người; sự hữu hình hoá hoặc vô hình hoá các cảm xúc, đối tượng; sự âm thanh hoá theo quy luật của khoa phát âm thực nghiệm học (phonétique  expérimentale)...đã làm cho thi ca có sức quyến rũ bội phần (multiple) so với các thể loại nghệ thuật ngôn từ khác.

  • LÊ XUÂN LÍTHỏi: Mã Giám Sinh sau khi mua được Kiều, Mã phải đưa Kiều đi ròng rã một tháng tròn mới đến Lâm Tri, nơi Tú Bà đang chờ đợi. Trên đường, Mã đâm thèm muốn chuyện “nước trước bẻ hoa”. Hắn nghĩ ra đủ mưu mẹo, lí lẽ và hắn đâm liều, Nguyễn Du viết:              Đào tiên đã bén tay phàm              Thì vin cành quít, cho cam sự đờiĐào tiên ở đây là quả cây đào. Sao câu dưới lại vin cành quít? Nguyễn Du có lẩm cẩm không?

  • CHU ĐÌNH KIÊN1. Có những tác phẩm người đọc phải thực sự “vật lộn” trên từng trang giấy, mới có thể hiểu được nhà văn muốn nói điều gì. Đó là hiện tượng “Những kẻ thiện tâm” (Les Bienveillantes) của Jonathan Littell. Một “cas” được xem là quá khó đọc. Tác phẩm đã đạt hai giải thưởng danh giá của nước Pháp là: giải Goncourt và giải thưởng của Viện hàn lâm Pháp.

  • PHONG LÊSinh năm 1893, Ngô Tất Tố rõ ràng là bậc tiền bối của số rất lớn, nếu không nói là tất cả những người làm nên diện mạo hiện đại của văn học Việt Nam thời 1932-1945. Tất cả - gồm những gương mặt tiêu biểu trong phong trào Thơ mới, Tự Lực văn đoàn và trào lưu hiện thực đều ra đời sau ông từ 10 đến 20 năm, thậm chí ngót 30 năm.

  • HẢI TRUNGHiện tượng ngôn ngữ lai tạp hay gọi nôm na là tiếng bồi, tiếng lơ lớ (Pidgins và Creoles) được ngành ngôn ngữ học đề cập đến với những đặc trưng gắn liền với xã hội. Nguồn gốc ra đời của loại hình ngôn ngữ này có nhiều nét khác biệt so với ngôn ngữ nói chung. Đây không chỉ là một hiện tượng cá thể của một cộng đồng ngôn ngữ nào, mà nó có thể phát sinh gắn liền với những diễn biến, những thay đổi, sự phát triển của lịch sử, xã hội của nhiều dân tộc, nhiều quốc gia khác nhau.

  • BÙI NGỌC TẤN... Đã bao nhiêu cuộc hội thảo, bao nhiêu cuộc tổng kết, bao nhiêu cuộc thi cùng với bao nhiêu giải thưởng, văn chương của chúng ta, đặc biệt là tiểu thuyết vẫn chẳng tiến lên. Rất nhiều tiền của bỏ ra, rất nhiều trí tuệ công sức đã được đầu tư để rồi không đạt được điều mong muốn. Không có được những sáng tác hay, những tác phẩm chịu được thử thách của thời gian. Sự thất thu này đều đã được tiêu liệu.

  • NGUYỄN HUỆ CHICao Bá Quát là một tài thơ trác việt ở nửa đầu thế kỷ XIX. Thơ ông có những cách tân nghệ thuật táo bạo, không còn là loại thơ “kỷ sự” của thế kỷ XVIII mà đã chuyển sang một giọng điệu mới, kết hợp tự sự với độc thoại, cho nên lời thơ hàm súc, đa nghĩa, và mạch thơ hướng tới những đề tài có ý nghĩa xã hội sâu rộng.

  • NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNĐã nhiều sử liệu viết về cuộc xử án vua Duy Tân và các lãnh tụ khởi xướng cuộc khởi nghĩa bất thành tháng 5-1916, mà trong đó hai chí sĩ Thái Phiên - Trần Cao Vân là hai vị đứng đầu. Tất cả các sử liệu đều cho rằng, việc hành hình đối với Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu diễn ra vào sáng ngày 17-5-1916. Ngay cả trong họ tộc hai nhà chí sĩ, việc ghi nhớ để cúng kỵ, hoặc tổ chức kỷ niệm cũng được tính theo ngày như thế.

  • PHONG LÊBây giờ, sau 60 năm - với bao là biến động, phát triển theo gia tốc lớn của lịch sử trong thế kỷ XX - từ một nước còn bị nô lệ, rên xiết dưới hai tầng xiềng xích Pháp-Nhật đã vùng dậy làm một cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại, rồi tiến hành hai cuộc kháng chiến trong suốt 30 năm, đi tới thống nhất và phát triển đất nước theo định hướng mới của chủ nghĩa xã hội, và đang triển khai một cuộc hội nhập lớn với nhân loại; - bây giờ, sau bao biến thiên ấy mà nhìn lại Đề cương về văn hoá Việt Nam năm 1943(1), quả không khó khăn, thậm chí là dễ thấy những mặt bất cập của Đề cương... trong nhìn nhận và đánh giá lịch sử dân tộc và văn hoá dân tộc, từ quá khứ đến hiện tại (ở thời điểm 1943); và nhìn rộng ra thế giới, trong cục diện sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại; và gắn với nó, văn hoá, văn chương - học thuật cũng đang chuyển sang giai đoạn Hiện đại và Hậu hiện đại...

  • TƯƠNG LAITrung thực là phẩm chất hàng đầu của một người dám tự nhận mình là nhà khoa học. Mà thật ra, đâu chỉ nhà khoa học mới cần đến phẩm chất ấy, nhà chính trị, nhà kinh tế, nhà văn hoá... và bất cứ là "nhà" gì đi chăng nữa, trước hết phải là một con người biết tự trọng để không làm những việc khuất tất, không nói dối để cho mình phải hổ thẹn với chính mình. Đấy là trường hợp được vận dụng cho những người chưa bị đứt "dây thần kinh xấu hổ", chứ khi đã đứt mất cái đó rồi, thì sự cắn rứt lương tâm cũng không còn, lấy đâu ra sự tự phản tỉnh để mà còn biết xấu hổ. Mà trò đời, "đã trót thì phải trét", đã nói dối thì rồi cứ phải nói dối quanh, vì "dại rồi còn biết khôn làm sao đây".

  • MÃ GIANG LÂNVăn học tồn tại được nhiều khi phụ thuộc vào độc giả. Độc giả tiếp nhận tác phẩm như thế nào? Tiếp nhận và truyền đạt cho người khác. Có khi tiếp nhận rồi nhưng lại rất khó truyền đạt. Trường hợp này thường diễn ra với tác phẩm thơ. Thực ra tiếp nhận là một quá trình. Mỗi lần đọc là một lần tiếp nhận, phát hiện.

  • HÀ VĂN LƯỠNGTrong dòng chảy của văn học Nga thế kỷ XX, bộ phận văn học Nga ở hải ngoại chiếm một vị trí nhất định, tạo nên sự thống nhất, đa dạng của thế kỷ văn học này (bao gồm các mảng: văn học đầu thế kỷ, văn học thời kỳ Xô Viết, văn học Nga ở hải ngoại và văn học Nga hậu Xô Viết). Nhưng việc nhận chân những giá trị của mảng văn học này với tư cách là một bộ phận của văn học Nga thế kỷ XX thì dường như diễn ra quá chậm (mãi đến những thập niên 70, 80 trở đi của thế kỷ XX) và phức tạp, thậm chí có ý kiến đối lập nhau.

  • TRẦN THANH MẠILTS: Nhà văn Trần Thanh Mại (1908-1965) là người con xứ Huế. Tên ông đã được đặt cho một con đường ở đây và một con đường ở thành phố Hồ Chí Minh. Trần Thanh Mại toàn tập (ba tập) cũng đã được Nhà xuất bản Văn học phát hành năm 2004.Vừa rồi, nhà văn Hồng Diệu, trong dịp vào thành phố Hồ Chí Minh dự lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Trần Thanh Mại, đã tìm thấy trang di cảo lưu tại gia đình. Bài nghiên cứu dưới đây, do chính nhà văn Trần Thanh Mại viết tay, có nhiều chỗ cắt dán, thêm bớt, hoặc mờ. Nhà văn Hồng Diệu đã khôi phục lại bài viết, và gửi cho Sông Hương. Chúng tôi xin cám ơn nhà văn Hồng Diệu và trân trọng giới thiệu bài này cùng bạn đọc.S.H