Phu Văn Lâu, hồi đầu thế kỷ 20, (Tranh màu nước của Gras,BAVH, No4, 1915) - Ảnh: vietsciences.free.fr
Câu ca dao đã mô tả một cách ngắn gọn nhưng khá đầy đủ và chính xác ba công trình kiến trúc tiêu biểu nhất nằm ở mặt tiền của hệ thống thành quách cung điện Huế. Ngọ Môn là bộ mặt của Hoàng Thành, Đại Nội. Cột cờ hay Kỳ đài là hình ảnh nổi bật nằm ở vị trí trung tâm của cố đô. So với hai công trình kiến trúc ấy thì Phu Văn Lâu chỉ là một tòa nhà tương đối nhỏ. Nhưng, tại sao nó lại được nói lên cùng một lượt, xem như ngang hàng? Chắc hẳn nó phải có một giá trị nào đó về mặt văn hoá và lịch sử. Chúng ta thử tìm hiểu về mặt kiến trúc, chức năng văn hoá của tòa nhà, và một số sự kiện lịch sử đã xảy ra ở đây. Theo một số sử sách của quốc sử quán triều Nguyễn thì vào đầu thời Gia Long, khi chưa có tòa nhà như ta đang thấy hiện nay triều đình đã cho xây dựng ở vị trí ấy một ngôi nhà nhỏ gọi là Bảng Đình, “các chiếu thư dụ chỉ đem bá cáo thì treo yết ở đó” (1). Đến tháng 6 năm Gia Long thứ 18 (tháng 7-1819), triều đình cho giải tỏa Bảng Đình ấy đi và xây dựng vào đó tòa nhà hai tầng được đặt tên là Phu Văn Lâu (2). Tòa nhà kiến trúc trên một cái nền hình vuông mỗi cạnh 12,24m. Mặt đất của đoạn thành giai này hơi xuôi về phía trước, nên nền cao đến 1,22m ở mặt tiền, còn ở mặt hậu thì nền chỉ cao 1,07m. Mặt nền lát đá cẩm thạch, quanh sân lát gạch Bát Tràng, nhưng nay sân đã thay thế bằng gạch ca-rô đúc bằng xi-măng. Tòa nhà chia làm hai tầng, gồm hai bộ mái chồng lên nhau, dưới lớn trên nhỏ. Mái ngày xưa lợp ngói ống tráng men vàng (hoàng lưu ly) là loại ngói được dùng để lợp cho tất cả các cung điện nằm ở trục chính của Kinh thành. Tòa nhà có 16 cột gỗ tròn sơn màu đỏ đậm. Bốn cột chính ở giữa chạy liên tục từ trên nền đến nóc tầng trên, cao khoảng 8 mét. Cột gỗ lim, chu vi trung bình 10,7m, 12 cột quần ở chung quanh cao khoảng 3m, có tiết diện nhỏ hơn, chu vi từ 0,95m đến 1m. Mỗi cột nhà đều dựng trên một bệ đá thanh. Những viên đá tảng được chạm thành hai tầng, dưới vuông trên tròn, cao 31cm. Chung quanh mặt nền, xây một hệ thống lan can cao 0,65m, chỉ bị gián đoạn ở các hệ thống bậc thềm giữa 3 mặt trước, trái và phải dùng để lên xuống. Hai lối đi hai bên không có thành bậc thềm. Hai bên hệ thống bậc cấp mặt trước có thành bậc chạm hình rồng. Đứng từ mặt nhìn lên, ta thấy có trần gỗ. Từ tầng dưới đi lên tầng trên bằng một cầu thang bằng gỗ đặt ở góc phải. Ở tầng trên, cả 4 mặt đều dựng đố bản, kiểu đố lụa khung tranh. Hai mặt trước và sau trổ cửa sổ tròn, hai mặt trái và phải trổ cửa sổ vuông, đối xứng nhau từng cặp (1). Chạy quanh bên ngoài là một hệ thống lan can con tiện bằng gỗ trau chuốt thật thanh tú và duyên dáng (2). Ở nội thất không trần thiết gì, nhưng ngoại thất thì trang trí đẹp. Trên nóc lầu đắp cặp hồi long chầu mặt nhật. Các góc mái chắp hình con giao. Các bờ nóc, bờ quyết đều chia ra từng ô hộc kiểu lòng giếng, trong đó trang trí các thứ hoa lá đắp nổi bằng sành sứ nhiều màu. Trước mặt tầng nầy treo tấm biển gỗ đề ba chữ Phu Văn Lâu (3). Dạng thức cấu trúc tòa nhà nằm trong hệ thống âm dương ngũ hành. Phu Văn Lâu hai tầng tượng trưng cho lưỡng nghi. Ở tầng trên, hai cặp cửa sổ tròn và vuông biểu hiện rõ rệt hình dáng trời và đất: trời tròn đất vuông. Cái nền, bộ phận thấp nhất của tòa nhà, có kích thước hình vuông, cũng tượng trưng cho đất, hình ảnh mặt trời trên nóc tầng hai, bộ phận kiến trúc cao nhất, hình tròn, cũng tượng trưng cho trời. Tòa nhà tuy không lớn nhưng đứng ở một vị trí quan trọng: ngay giữa mặt tiền kinh thành. Bởi vậy, ý niệm kiến trúc mang tính triết lý ấy phải được thể hiện ở đây. Dụng ý của các nhà kiến trúc Việt Nam đầu thế kỷ 19 được thấy rõ hơn qua kiểu xây dựng Kỳ đài và Ngọ Môn nằm trong câu ca dao đã được nhắc đến. Kỳ Đài ba cấp tượng trưng cho tam tài: thiên, địa, nhân. Ngọ Môn năm cửa biểu hiện ngũ hành: kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Như vậy, nếu tính từ ngoài và trong kinh thành thì khái niệm kiến trúc siêu nhiên ấy đã thể hiện từ lưỡng nghi (âm dương) với Phu Văn Lâu, qua tam tài và Kỳ Đài, đến Ngũ hành với Ngọ Môn. Và, nếu nhìn xa hơn một quãng nữa hòn núi Ngự Bình dùng làm tiền án cho đế đô có thể tượng trưng cho thái cực. Phải chăng cả một loạt thực thể và kiến trúc nằm trên trục chính kinh thành Huế đã đi từ thái cực đến lưỡng nghi, rồi qua những yếu tố khác nữa trong hệ thống Thái cực- Lưỡng nghi - tứ tượng - bát quái - vạn vật? Tóm lại, về mặt kiến trúc, ngoài vẻ đẹp thanh thoát, nhẹ nhàng và tỷ lệ hài hòa cân xứng của nó, Phu Văn Lâu còn mang rõ tính triết lý theo thế giới quan của người xưa nữa. Trong trận bão lớn năm giáp thìn (1904), Phu Văn Lâu bị hư hỏng hoàn toàn. Năm sau (1905), vua Thành Thái đã cho tái thiết lại theo quy mô cũ. Tấm biển dưới mái lầu mặt trước hiện nay là tấm biển đã được làm lại dưới thời Thành Thái trong lần tu sửa ấy. Trên biển, ngoài ba chữ đại tự Phu Văn Lâu, còn ghi hai lạc khoản với cỡ chữ nhỏ. Lạc khoản thứ nhất viết: Gia Long thập bát niên lục nguyệt nhật kiến (nghĩa là xây dựng vào một ngày thuộc tháng 6 năm Gia Long thứ 18, tức là tháng 7-1819). Lạc khoản thứ hai ghi: Thành Thái thập thất niên nhị nguyệt nhật trùng kiến (nghĩa là xây dựng lại vào một ngày thuộc tháng 2 năm Thành Thái thứ 17, tức là tháng 3-1905). (4) Trong đợt tái thiết này, ngói ống hoàng lưu ly đã bị thay thế bằng ngói âm dương màu gạch (5). Hai lần tu sửa gần đây là vào năm 1963 (6) và năm 1974 (7). Trong lần tu sửa 1963, người ta đã dựng hệ thống vách gỗ ở cả bốn mặt tầng trên thay cho đồ bản cũ có cửa sổ tròn và vuông ngày trước; chỉ trổ một cửa lá sách ở giữa mặt tiền, kiểu thượng song hạ bản: Và trong lần tu sửa 1974, người ta thay thế một số rui, đòn tay bằng gỗ, lợp lại mái bằng ngói âm dương thông thường: và nhất là thay bốn cột giữa và bốn cột góc bằng bê-tông cốt sắt giả gỗ như ta đang thấy hiện nay. Lần tu sửa gần đây nhất vào cuối năm 1984. Trong đợt này, người ta đã thay thế một cột quân đã mục nát, hai kèo, một số đòn tay và rui đã hỏng vì mái bị thủng. Ngói ở cả hai tầng mái được lợp lại, nhưng diềm mái lại không được tu bổ. Tóm lại, qua những lần tu sửa nói trên, chất liệu xây dựng và một số bộ phận kiến trúc đã thay đổi một cách tùy tiện, làm giảm giá trị của tòa nhà không ít. Phu Văn Lâu là gì? Chữ Phu Văn Lâu thường bị một số người viết nhầm, đọc nhầm là Phú Văn Lâu. Thực ra: Phu là trình bày ra, phô diễn ra. Văn là vẻ đẹp, ý nghĩa bao hàm trong các chữ văn chương, văn nghệ, văn học, văn hoá. Lâu là ngôi nhà lầu, vì nó có hai tầng. Như thế, Phu Văn Lâu là ngôi nhà lầu dùng để phô diễn những cái hay, cái đẹp trong văn hoá, nghệ thuật cho mọi người thưởng ngoạn. Tòa nhà này đã từng được nhà nước phong kiến giao cho những chức năng như trong nghĩa đen vừa giải thích: Một là nơi yết thị các chiếu chỉ của triều đình và kết quả các kỳ thi đình; hai là nơi tổ chức các cuộc vui để mừng tuổi thọ của các vua nhà Nguyễn. Thật vậy, tầng dưới (để trống cả bốn mặt chung quanh, bên trong cũng chẳng trần thiết gì) khi cần, người ta treo lên một tấm bảng sơn son thếp vàng, gọi là Kim bảng hay Bảng vàng, để đính vào đó những chiếu chỉ của nhà vua cần thông báo cho thần dân, hay niêm yết danh sách những sĩ tử thi đỗ tiến sĩ, phó bảng trong các kỳ thi đình (cũng còn gọi là điện thí) được tổ chức ở hoàng cung. Các cuộc sát hạch ở bậc cao nhất này thường diễn ra ở hai nhà Tả Vu, Hữu Vu hoặc Duyệt Thị Đường trong phạm vi Tử Cấm thành. Thông thường nhà vua ra đề thi, chấm bài và quyết định kết quả trong kỳ thi. Các thí sinh trúng tuyển được vua trao tặng lễ phục, vật phẩm và đãi yến tiệc tại điện Cần Chánh, và đôi khi còn được vua cho cưỡi ngựa xem hoa ở vườn ngự uyển. Hôm sau, triều đình tổ chức cuộc lễ truyền lô tại điện Thái Hòa hay tại Ngọ Môn để xướng danh những người thi đỗ. Tiếp đó, họ được ghi tên trên một tấm bảng lớn gọi là Bảng vàng. Tấm bảng được rước một cách trọng thể đến Phu Văn Lâu để treo yết ở đây cho mọi người đến đọc; có lính canh gác và quan hữu trách túc trực. Sau 3 ngày, tấm bảng ấy lại được rước một cách trọng thể đến trường Quốc Tử Giám để lưu trữ, xem như là một văn vật quý của nhà trường. Cuối cùng, những người đỗ tiến sĩ còn được khắc tên tuổi và quê quán vào bia đá, dựng ở Văn Miếu bên cạnh trường Quốc Tử Giám. Hiện nay, tại Văn Miếu Huế còn có 32 tấm bia tiến sĩ lập từ các khoa thi từ thời Minh Mạng đến thời Khải Định. Cái tên “Bảng vàng bia đá” là như vậy. “Bảng vàng” treo ở Phu Văn Lâu. “Bia đá” dựng ở Văn Miếu. Ngoài ra, mỗi lần nhà vua ban chiếu chỉ gì thì văn bản đó cũng đưa ra niêm yết ở Phu Văn Lâu. Vào năm 1829, một năm trước khi xây dựng Hổ Quyền - một trường đấu của voi và cọp, Minh Mạng đã cho tổ chức một trận đấu giữa voi và cọp trước Phu Văn Lâu. Nhà vua đã ngồi trên một chiếc thuyền rồng đậu gần bờ sông Hương để xem. Mặc dù con cọp đã bị buộc vào một cái cọc rất chắc, nhưng vì nó mạnh quá nên đã bứt được dây và bơi về phía thuyền vua. Mọi người hoảng hốt. Không có vũ khí trong tay, vua Minh Mạng phải dùng một cái sào để đẩy lùi con vật. Ngay sau đó, mấy người lính nhảy xuống một chiếc thuyền nhỏ tiến đến gần con thú và giết nó chết giữa dòng sông” (8). Vào năm 1830, nhân dịp Tứ tuần Đại khánh của Minh Mạng, triều đình đã tổ chức ở khu vực Phu Văn Lâu những cuộc vui chơi, yến tiệc trong suốt 3 ngày để chào mừng (9). Chính nhà vua cũng ngự ra ở Phu Văn Lâu để xem các trò vui chơi đặc biệt do nhiều địa phương về biểu diễn. Trong dịp này, Minh Mạng cho mời 100 vị bô lão ở kinh đô và các tỉnh lân cận có tuổi từ 70 trở lên. Số tuổi của họ cộng lại thành 10.000 tuổi chẵn, tức là 10.000 năm, đúng với ý nghĩa chữ “vạn thọ” để chúc nhà vua sống lâu. Đối với các cụ từ 100 tuổi trở lên, vua thăm hỏi từng người và trao tặng cho họ mỗi vị một lạng quế và một đồng tiền vàng. Sau đó, tất cả các vị kỳ lão ấy đều được nhà vua khoản đãi yến tiệc và chúc mừng họ lại bằng một số bài thơ ngự chế (10). Tại Phu Văn Lâu cũng là nơi nhà vua cùng triều thần duyệt khán các đơn vị bộ binh và kỵ binh của triều đình diễu hành. Sau đó vua xuống bến sông Hương để duyệt khán thủy binh, và xem cuộc đua thuyền đầy hào hứng và thú vị ở trên sông. Theo gương của Minh Mạng, về sau các vua Thiệu Trị và Tự Đức cũng mời các vị kỳ lão về dự các ngày lễ tứ tuần và ngũ tuần của nhà vua. Trong dịp nầy, nhân dân nô nức đến xem các nghệ nhân từ nhiều nơi trên cả nước về biểu diễn trò chơi và ca nhạc vũ ở nhà rạp dựng lên trước bến Phu Văn Lâu. Các cuộc vui công cộng diễn ra ở đây suốt 3 ngày liền. Vào năm 1843, Thiệu Trị còn cho dựng gần bên phải Phu Văn Lâu một nhà bia nhỏ, trên mặt bia khắc bài “Hương Giang hiểu phiếm” (11) là bài thứ 11 trong 20 bài thơ nhà vua làm ra để ca ngợi 20 cảnh đẹp nhất của cố đô, gọi là Thần kinh nhị thập cảnh. Để tăng thêm vẻ uy nghiêm cho Phu Văn Lâu, triều đình đã cho dựng ở hai bên mặt tiền hai tấm bia đá thanh, mỗi bia khắc bốn chữ “khuynh cái hạ mã” (nghiêng lọng xuống ngựa), nghĩa là ai đi qua trước mặt tòa nhà này cũng phải cất nón mũ và xuống ngựa. Ở sân trước của Phu Văn Lâu cũng đã thiết trí hai bên hai khẩu súng thần công nhỏ bằng đồng (12). Ngày nay, du khách gần xa đến Huế, ai lại không một lần nhìn ngắm di tích lịch sử và văn hoá ấy của cố đô. Và, ai lại không nghe vang vọng từ đây câu hò mái nhì man mác, gợi lại tấm lòng yêu nước thiết tha của nhân dân ta, mà tương truyền gắn liền với tâm sự vua Duy Tân thuở nọ: Chiều chiều trước bến Văn Lâu Ai ngồi ai câu, Ai sầu ai thảm, Ai thương ai cảm, Ai nhớ ai trông, Thuyền ai thấp thoáng bên sông, Đưa câu mái đẩy chạnh lòng nước non. Huế đầu 1985. P.T.A. (14/8-85) ------------ 1. Đại Nam thực lục, bản dịch của Viện sử học, tập IV, Hà Nội, 1963, trang 380. 2. Nguyễn Văn Hiền. Le Pavillon des Edits, Bulletin des Amis du Vieux Huế, 1915, trang 377. 3. Ba chữ Phu Văn Lâu trên tấm biển thời Thành Thái này là do Tham tri bộ công Phạm Văn Điền viết. Ông có tài viết chữ rất đẹp. Sau khi về hưu, ông được tặng hàm Thượng thư bộ lễ. 4. Đại Nam Nhất Thống Chí, Kinh sư, bản dịch của Nguyễn Tạo, Sài Gòn, 1960, trang 66. 5. Nguyễn Văn Hiền, nơi đã dẫn. 6. Nguyễn Bá Lăng, vấn đề bảo tồn cổ tích, Tạp chí khảo cổ, Bộ mới, số 1, Sài Gòn, 1967, trang 18. 7. Theo bản “báo cáo nguyệt đề” của chi nhánh Bảo tồn Cổ tích Huế (văn bản đánh máy) đề ngày 23-10-1974, số 471- BTBT gởi ông Giám đốc viện khảo cổ Sài Gòn. 8. Nguyễn Văn Hiền, bài đã dẫn, trang 379-381. 9. Đại Nam Thực lục, bản dịch, tập XXII, Hà Nội, 1969, trang 68. 10. Nguyễn Văn Hiền, bài đã dẫn, trang 379-381. 11. Hương Giang hiểu phiếm: đi chơi thuyền buổi sáng trên sông Hương. 12. Rất tiếc là ngày nay hai tấm bia và hai khẩu súng đều không còn nguyên tại chỗ. |
TRẦN VIẾT ĐIỀN
Chính sử triều Nguyễn chép mộ vua Quang Trung được táng ở vùng Nam sông Hương và đã bị quật phá.
VÕ VINH QUANG
Thanh Bình từ đường, thờ tổ nghề hát bội của triều Nguyễn, tọa lạc ở kiệt 281 đường Chi Lăng, thành phố Huế là một địa điểm quan trọng trong truyền thống văn hóa nghệ thuật của đất Cố đô.
CHÂU THU HÀ
Trong những năm qua, xây dựng văn hóa doanh nghiệp (VHDN) đã và đang được các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế nói riêng quan tâm thực hiện.
PHƯỚC VĨNH
Nói đến những tiềm năng phát triển của Huế là nói đến các yếu tố thiên nhiên, lịch sử văn hóa, trong đó có yếu tố sông, núi, cỏ cây và con người; là nhắc đến những bài thơ sâu lắng, những giai điệu mượt mà…
LGT: Cuốn sách Florette ou la rivière des parfums của tác giả T. Trilby(*) được dịch sang tiếng Việt với nhan đề Chuyện bên dòng sông Hương(**). Bối cảnh câu chuyện xảy ra ở Huế và vùng phụ cận vào thập niên 1920 của thế kỷ XX.
LƯU TRỌNG VĂN
(thực hiện)
PHAN THUẬN AN
Nghệ thuật cung đình là những loại hình nghệ thuật gắn bó thiết thân với sinh hoạt tinh thần và vật chất của giới cầm quyền tại kinh đô dưới các triều đại quân chủ ngày xưa.
PHAN TÂN
Trong năm 2018 vừa qua, ngoài kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, Uỷ ban nhân dân (UBND) tỉnh cũng đã triển khai những chương trình đột phá, công trình trọng điểm, tập trung lãnh đạo, tạo tiền đề, động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội địa phương phát triển theo hướng nhanh, bền vững. Các chương trình này có ý nghĩa hết sức quan trọng, tác động trực tiếp đến sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương…
NGUYỄN VĂN CƯƠNG - NGUYỄN VĂN KHÁNH
Trong chuyến đi điền dã khảo sát di tích tại khu vực Phường Thủy Xuân, TP Huế. Chúng tôi tình cờ phát hiện một di chỉ cổ nằm lẫn khuất trong những tán cây rậm rạp trên vườn đồi của làng Dương Xuân thượng trước đây. Vạch lá dò dẫm tìm vào, chúng tôi mới nhận ra nơi mình đặt chân đến chính là một Văn Miếu, nơi thờ phụng vị Thánh về Văn, người mà được hậu thế tôn vinh là Vạn thế Sư biểu (người thầy của muôn đời), Đức Khổng Tử. Ngôi miếu nằm lọt thỏm trong những tán lá, bụi cây.
HỒ VĨNH
Đại bác là một từ dùng chung cho tất cả các loại trọng pháo hay súng lớn. Tiền thân của chúng là những máy ném đá (Thạch pháo) ra đời cách đây 1.000 năm. Từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII ở Việt Nam đã xuất hiện các loại pháo bằng đồng và pháo bằng sắt mà ngày nay chúng ta thường gọi là súng thần công.
KIM THOA
Chè bán ban ngày, ban đêm. Chè gánh, chè xách, chè ăn trên bờ, chè thưởng thức dưới đò. Huế bán đủ thứ chè, bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào, nhưng ít thấy chè hột sen.
NGUYỄN ĐẮC XUÂN
Hoàng tử Cảnh (1780 -1801) là con trưởng của vua Gia Long. Trong thời gian chống nhà Tây Sơn, hoàng tử Cảnh đã theo Bá-đa-lộc sang Pháp cầu viện cho họ Nguyễn. Hoàng tử Cảnh theo Thiên chúa giáo và được giám mục Bá-đa-lộc rất thương yêu.
THƠM QUANG - THANH BIÊN
Trong khối tài liệu hiện đang được bảo quản tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV có khá nhiều tư liệu liên quan đến trường Bách Công xưa (tức trường Cao đẳng Công nghiệp Huế ngày nay). Bên cạnh tài liệu tiếng Pháp thuộc phông Tòa Khâm sứ Trung kỳ, chúng tôi cũng xin được cung cấp thêm một số thông tin quan trọng về trường Bách Công xưa được ghi chép trong các bộ chính sử của triều Nguyễn.
NGUYỄN THÁI SƠN*
Đồng chí Nguyễn Chí Diểu (1908 - 1939) là nhà lãnh đạo tiền bối tiêu biểu của Đảng và cách mạng Việt Nam.
TRẦN ĐÌNH HẰNG - LÊ ĐÌNH HÙNG
Trải qua nhiều vấn nạn của thiên tai, địch họa mà đến nay, tài liệu nghiên cứu về thời chúa Nguyễn Đàng Trong rất hiếm hoi. Vì vậy, tài liệu lưu trữ từ gia tộc sẽ góp phần thiết thực để soi rọi một số chi tiết bổ sung cho chính sử.
LÊ VĂN LÂN
Huế là đô thị không chỉ trong nước mà cả thế giới tôn vinh với nhiều danh hiệu cao quý. Nhưng đứng trước những danh hiệu này, bản thân người Huế cũng thấy đang còn nhiều khoảng cách lớn.
LÊ QUANG THÁI
Ngày xuân còn dài, xin kể vài mẫu chuyện dê tiêu biểu trên đất kinh kỳ văn vật cốt chỉ mua vui chốc lát trong hương vị của ngày Tết cổ truyền.
PHAN THUẬN AN
Cũng như các triều đại quân chủ khác trong lịch sử Việt Nam, triều đại nhà Nguyễn (1802-1945) đã lập ra tại kinh đô một cơ quan chuyên trách về y tế, gọi là Thái Y Viện, để chăm lo sức khỏe cho hoàng gia và điều hành công việc chữa bệnh cho mọi người trong nước.
TRẦN VIẾT ĐIỀN
Đồi Dương Xuân ở nam sông Kim Trà (sông Hương) từng có phủ Dương Xuân là mặc định nhưng vì đồi lại lớn rộng, có nhiều phần nhấp nhô theo phương thẳng đứng, uốn éo theo bình đồ nên đồi có nhiều gò, cồn.
TRẦN ANH SƠN
Huế mà chúng tôi nhắc đến ở đây là xứ Huế ngày xưa, thuở còn là "Đô thành Thuận Hóa” của Chúa Nguyễn.