Phu Văn Lâu, hồi đầu thế kỷ 20, (Tranh màu nước của Gras,BAVH, No4, 1915) - Ảnh: vietsciences.free.fr
Câu ca dao đã mô tả một cách ngắn gọn nhưng khá đầy đủ và chính xác ba công trình kiến trúc tiêu biểu nhất nằm ở mặt tiền của hệ thống thành quách cung điện Huế. Ngọ Môn là bộ mặt của Hoàng Thành, Đại Nội. Cột cờ hay Kỳ đài là hình ảnh nổi bật nằm ở vị trí trung tâm của cố đô. So với hai công trình kiến trúc ấy thì Phu Văn Lâu chỉ là một tòa nhà tương đối nhỏ. Nhưng, tại sao nó lại được nói lên cùng một lượt, xem như ngang hàng? Chắc hẳn nó phải có một giá trị nào đó về mặt văn hoá và lịch sử. Chúng ta thử tìm hiểu về mặt kiến trúc, chức năng văn hoá của tòa nhà, và một số sự kiện lịch sử đã xảy ra ở đây. Theo một số sử sách của quốc sử quán triều Nguyễn thì vào đầu thời Gia Long, khi chưa có tòa nhà như ta đang thấy hiện nay triều đình đã cho xây dựng ở vị trí ấy một ngôi nhà nhỏ gọi là Bảng Đình, “các chiếu thư dụ chỉ đem bá cáo thì treo yết ở đó” (1). Đến tháng 6 năm Gia Long thứ 18 (tháng 7-1819), triều đình cho giải tỏa Bảng Đình ấy đi và xây dựng vào đó tòa nhà hai tầng được đặt tên là Phu Văn Lâu (2). Tòa nhà kiến trúc trên một cái nền hình vuông mỗi cạnh 12,24m. Mặt đất của đoạn thành giai này hơi xuôi về phía trước, nên nền cao đến 1,22m ở mặt tiền, còn ở mặt hậu thì nền chỉ cao 1,07m. Mặt nền lát đá cẩm thạch, quanh sân lát gạch Bát Tràng, nhưng nay sân đã thay thế bằng gạch ca-rô đúc bằng xi-măng. Tòa nhà chia làm hai tầng, gồm hai bộ mái chồng lên nhau, dưới lớn trên nhỏ. Mái ngày xưa lợp ngói ống tráng men vàng (hoàng lưu ly) là loại ngói được dùng để lợp cho tất cả các cung điện nằm ở trục chính của Kinh thành. Tòa nhà có 16 cột gỗ tròn sơn màu đỏ đậm. Bốn cột chính ở giữa chạy liên tục từ trên nền đến nóc tầng trên, cao khoảng 8 mét. Cột gỗ lim, chu vi trung bình 10,7m, 12 cột quần ở chung quanh cao khoảng 3m, có tiết diện nhỏ hơn, chu vi từ 0,95m đến 1m. Mỗi cột nhà đều dựng trên một bệ đá thanh. Những viên đá tảng được chạm thành hai tầng, dưới vuông trên tròn, cao 31cm. Chung quanh mặt nền, xây một hệ thống lan can cao 0,65m, chỉ bị gián đoạn ở các hệ thống bậc thềm giữa 3 mặt trước, trái và phải dùng để lên xuống. Hai lối đi hai bên không có thành bậc thềm. Hai bên hệ thống bậc cấp mặt trước có thành bậc chạm hình rồng. Đứng từ mặt nhìn lên, ta thấy có trần gỗ. Từ tầng dưới đi lên tầng trên bằng một cầu thang bằng gỗ đặt ở góc phải. Ở tầng trên, cả 4 mặt đều dựng đố bản, kiểu đố lụa khung tranh. Hai mặt trước và sau trổ cửa sổ tròn, hai mặt trái và phải trổ cửa sổ vuông, đối xứng nhau từng cặp (1). Chạy quanh bên ngoài là một hệ thống lan can con tiện bằng gỗ trau chuốt thật thanh tú và duyên dáng (2). Ở nội thất không trần thiết gì, nhưng ngoại thất thì trang trí đẹp. Trên nóc lầu đắp cặp hồi long chầu mặt nhật. Các góc mái chắp hình con giao. Các bờ nóc, bờ quyết đều chia ra từng ô hộc kiểu lòng giếng, trong đó trang trí các thứ hoa lá đắp nổi bằng sành sứ nhiều màu. Trước mặt tầng nầy treo tấm biển gỗ đề ba chữ Phu Văn Lâu (3). Dạng thức cấu trúc tòa nhà nằm trong hệ thống âm dương ngũ hành. Phu Văn Lâu hai tầng tượng trưng cho lưỡng nghi. Ở tầng trên, hai cặp cửa sổ tròn và vuông biểu hiện rõ rệt hình dáng trời và đất: trời tròn đất vuông. Cái nền, bộ phận thấp nhất của tòa nhà, có kích thước hình vuông, cũng tượng trưng cho đất, hình ảnh mặt trời trên nóc tầng hai, bộ phận kiến trúc cao nhất, hình tròn, cũng tượng trưng cho trời. Tòa nhà tuy không lớn nhưng đứng ở một vị trí quan trọng: ngay giữa mặt tiền kinh thành. Bởi vậy, ý niệm kiến trúc mang tính triết lý ấy phải được thể hiện ở đây. Dụng ý của các nhà kiến trúc Việt Nam đầu thế kỷ 19 được thấy rõ hơn qua kiểu xây dựng Kỳ đài và Ngọ Môn nằm trong câu ca dao đã được nhắc đến. Kỳ Đài ba cấp tượng trưng cho tam tài: thiên, địa, nhân. Ngọ Môn năm cửa biểu hiện ngũ hành: kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Như vậy, nếu tính từ ngoài và trong kinh thành thì khái niệm kiến trúc siêu nhiên ấy đã thể hiện từ lưỡng nghi (âm dương) với Phu Văn Lâu, qua tam tài và Kỳ Đài, đến Ngũ hành với Ngọ Môn. Và, nếu nhìn xa hơn một quãng nữa hòn núi Ngự Bình dùng làm tiền án cho đế đô có thể tượng trưng cho thái cực. Phải chăng cả một loạt thực thể và kiến trúc nằm trên trục chính kinh thành Huế đã đi từ thái cực đến lưỡng nghi, rồi qua những yếu tố khác nữa trong hệ thống Thái cực- Lưỡng nghi - tứ tượng - bát quái - vạn vật? Tóm lại, về mặt kiến trúc, ngoài vẻ đẹp thanh thoát, nhẹ nhàng và tỷ lệ hài hòa cân xứng của nó, Phu Văn Lâu còn mang rõ tính triết lý theo thế giới quan của người xưa nữa. Trong trận bão lớn năm giáp thìn (1904), Phu Văn Lâu bị hư hỏng hoàn toàn. Năm sau (1905), vua Thành Thái đã cho tái thiết lại theo quy mô cũ. Tấm biển dưới mái lầu mặt trước hiện nay là tấm biển đã được làm lại dưới thời Thành Thái trong lần tu sửa ấy. Trên biển, ngoài ba chữ đại tự Phu Văn Lâu, còn ghi hai lạc khoản với cỡ chữ nhỏ. Lạc khoản thứ nhất viết: Gia Long thập bát niên lục nguyệt nhật kiến (nghĩa là xây dựng vào một ngày thuộc tháng 6 năm Gia Long thứ 18, tức là tháng 7-1819). Lạc khoản thứ hai ghi: Thành Thái thập thất niên nhị nguyệt nhật trùng kiến (nghĩa là xây dựng lại vào một ngày thuộc tháng 2 năm Thành Thái thứ 17, tức là tháng 3-1905). (4) Trong đợt tái thiết này, ngói ống hoàng lưu ly đã bị thay thế bằng ngói âm dương màu gạch (5). Hai lần tu sửa gần đây là vào năm 1963 (6) và năm 1974 (7). Trong lần tu sửa 1963, người ta đã dựng hệ thống vách gỗ ở cả bốn mặt tầng trên thay cho đồ bản cũ có cửa sổ tròn và vuông ngày trước; chỉ trổ một cửa lá sách ở giữa mặt tiền, kiểu thượng song hạ bản: Và trong lần tu sửa 1974, người ta thay thế một số rui, đòn tay bằng gỗ, lợp lại mái bằng ngói âm dương thông thường: và nhất là thay bốn cột giữa và bốn cột góc bằng bê-tông cốt sắt giả gỗ như ta đang thấy hiện nay. Lần tu sửa gần đây nhất vào cuối năm 1984. Trong đợt này, người ta đã thay thế một cột quân đã mục nát, hai kèo, một số đòn tay và rui đã hỏng vì mái bị thủng. Ngói ở cả hai tầng mái được lợp lại, nhưng diềm mái lại không được tu bổ. Tóm lại, qua những lần tu sửa nói trên, chất liệu xây dựng và một số bộ phận kiến trúc đã thay đổi một cách tùy tiện, làm giảm giá trị của tòa nhà không ít. Phu Văn Lâu là gì? Chữ Phu Văn Lâu thường bị một số người viết nhầm, đọc nhầm là Phú Văn Lâu. Thực ra: Phu là trình bày ra, phô diễn ra. Văn là vẻ đẹp, ý nghĩa bao hàm trong các chữ văn chương, văn nghệ, văn học, văn hoá. Lâu là ngôi nhà lầu, vì nó có hai tầng. Như thế, Phu Văn Lâu là ngôi nhà lầu dùng để phô diễn những cái hay, cái đẹp trong văn hoá, nghệ thuật cho mọi người thưởng ngoạn. Tòa nhà này đã từng được nhà nước phong kiến giao cho những chức năng như trong nghĩa đen vừa giải thích: Một là nơi yết thị các chiếu chỉ của triều đình và kết quả các kỳ thi đình; hai là nơi tổ chức các cuộc vui để mừng tuổi thọ của các vua nhà Nguyễn. Thật vậy, tầng dưới (để trống cả bốn mặt chung quanh, bên trong cũng chẳng trần thiết gì) khi cần, người ta treo lên một tấm bảng sơn son thếp vàng, gọi là Kim bảng hay Bảng vàng, để đính vào đó những chiếu chỉ của nhà vua cần thông báo cho thần dân, hay niêm yết danh sách những sĩ tử thi đỗ tiến sĩ, phó bảng trong các kỳ thi đình (cũng còn gọi là điện thí) được tổ chức ở hoàng cung. Các cuộc sát hạch ở bậc cao nhất này thường diễn ra ở hai nhà Tả Vu, Hữu Vu hoặc Duyệt Thị Đường trong phạm vi Tử Cấm thành. Thông thường nhà vua ra đề thi, chấm bài và quyết định kết quả trong kỳ thi. Các thí sinh trúng tuyển được vua trao tặng lễ phục, vật phẩm và đãi yến tiệc tại điện Cần Chánh, và đôi khi còn được vua cho cưỡi ngựa xem hoa ở vườn ngự uyển. Hôm sau, triều đình tổ chức cuộc lễ truyền lô tại điện Thái Hòa hay tại Ngọ Môn để xướng danh những người thi đỗ. Tiếp đó, họ được ghi tên trên một tấm bảng lớn gọi là Bảng vàng. Tấm bảng được rước một cách trọng thể đến Phu Văn Lâu để treo yết ở đây cho mọi người đến đọc; có lính canh gác và quan hữu trách túc trực. Sau 3 ngày, tấm bảng ấy lại được rước một cách trọng thể đến trường Quốc Tử Giám để lưu trữ, xem như là một văn vật quý của nhà trường. Cuối cùng, những người đỗ tiến sĩ còn được khắc tên tuổi và quê quán vào bia đá, dựng ở Văn Miếu bên cạnh trường Quốc Tử Giám. Hiện nay, tại Văn Miếu Huế còn có 32 tấm bia tiến sĩ lập từ các khoa thi từ thời Minh Mạng đến thời Khải Định. Cái tên “Bảng vàng bia đá” là như vậy. “Bảng vàng” treo ở Phu Văn Lâu. “Bia đá” dựng ở Văn Miếu. Ngoài ra, mỗi lần nhà vua ban chiếu chỉ gì thì văn bản đó cũng đưa ra niêm yết ở Phu Văn Lâu. Vào năm 1829, một năm trước khi xây dựng Hổ Quyền - một trường đấu của voi và cọp, Minh Mạng đã cho tổ chức một trận đấu giữa voi và cọp trước Phu Văn Lâu. Nhà vua đã ngồi trên một chiếc thuyền rồng đậu gần bờ sông Hương để xem. Mặc dù con cọp đã bị buộc vào một cái cọc rất chắc, nhưng vì nó mạnh quá nên đã bứt được dây và bơi về phía thuyền vua. Mọi người hoảng hốt. Không có vũ khí trong tay, vua Minh Mạng phải dùng một cái sào để đẩy lùi con vật. Ngay sau đó, mấy người lính nhảy xuống một chiếc thuyền nhỏ tiến đến gần con thú và giết nó chết giữa dòng sông” (8). Vào năm 1830, nhân dịp Tứ tuần Đại khánh của Minh Mạng, triều đình đã tổ chức ở khu vực Phu Văn Lâu những cuộc vui chơi, yến tiệc trong suốt 3 ngày để chào mừng (9). Chính nhà vua cũng ngự ra ở Phu Văn Lâu để xem các trò vui chơi đặc biệt do nhiều địa phương về biểu diễn. Trong dịp này, Minh Mạng cho mời 100 vị bô lão ở kinh đô và các tỉnh lân cận có tuổi từ 70 trở lên. Số tuổi của họ cộng lại thành 10.000 tuổi chẵn, tức là 10.000 năm, đúng với ý nghĩa chữ “vạn thọ” để chúc nhà vua sống lâu. Đối với các cụ từ 100 tuổi trở lên, vua thăm hỏi từng người và trao tặng cho họ mỗi vị một lạng quế và một đồng tiền vàng. Sau đó, tất cả các vị kỳ lão ấy đều được nhà vua khoản đãi yến tiệc và chúc mừng họ lại bằng một số bài thơ ngự chế (10). Tại Phu Văn Lâu cũng là nơi nhà vua cùng triều thần duyệt khán các đơn vị bộ binh và kỵ binh của triều đình diễu hành. Sau đó vua xuống bến sông Hương để duyệt khán thủy binh, và xem cuộc đua thuyền đầy hào hứng và thú vị ở trên sông. Theo gương của Minh Mạng, về sau các vua Thiệu Trị và Tự Đức cũng mời các vị kỳ lão về dự các ngày lễ tứ tuần và ngũ tuần của nhà vua. Trong dịp nầy, nhân dân nô nức đến xem các nghệ nhân từ nhiều nơi trên cả nước về biểu diễn trò chơi và ca nhạc vũ ở nhà rạp dựng lên trước bến Phu Văn Lâu. Các cuộc vui công cộng diễn ra ở đây suốt 3 ngày liền. Vào năm 1843, Thiệu Trị còn cho dựng gần bên phải Phu Văn Lâu một nhà bia nhỏ, trên mặt bia khắc bài “Hương Giang hiểu phiếm” (11) là bài thứ 11 trong 20 bài thơ nhà vua làm ra để ca ngợi 20 cảnh đẹp nhất của cố đô, gọi là Thần kinh nhị thập cảnh. Để tăng thêm vẻ uy nghiêm cho Phu Văn Lâu, triều đình đã cho dựng ở hai bên mặt tiền hai tấm bia đá thanh, mỗi bia khắc bốn chữ “khuynh cái hạ mã” (nghiêng lọng xuống ngựa), nghĩa là ai đi qua trước mặt tòa nhà này cũng phải cất nón mũ và xuống ngựa. Ở sân trước của Phu Văn Lâu cũng đã thiết trí hai bên hai khẩu súng thần công nhỏ bằng đồng (12). Ngày nay, du khách gần xa đến Huế, ai lại không một lần nhìn ngắm di tích lịch sử và văn hoá ấy của cố đô. Và, ai lại không nghe vang vọng từ đây câu hò mái nhì man mác, gợi lại tấm lòng yêu nước thiết tha của nhân dân ta, mà tương truyền gắn liền với tâm sự vua Duy Tân thuở nọ: Chiều chiều trước bến Văn Lâu Ai ngồi ai câu, Ai sầu ai thảm, Ai thương ai cảm, Ai nhớ ai trông, Thuyền ai thấp thoáng bên sông, Đưa câu mái đẩy chạnh lòng nước non. Huế đầu 1985. P.T.A. (14/8-85) ------------ 1. Đại Nam thực lục, bản dịch của Viện sử học, tập IV, Hà Nội, 1963, trang 380. 2. Nguyễn Văn Hiền. Le Pavillon des Edits, Bulletin des Amis du Vieux Huế, 1915, trang 377. 3. Ba chữ Phu Văn Lâu trên tấm biển thời Thành Thái này là do Tham tri bộ công Phạm Văn Điền viết. Ông có tài viết chữ rất đẹp. Sau khi về hưu, ông được tặng hàm Thượng thư bộ lễ. 4. Đại Nam Nhất Thống Chí, Kinh sư, bản dịch của Nguyễn Tạo, Sài Gòn, 1960, trang 66. 5. Nguyễn Văn Hiền, nơi đã dẫn. 6. Nguyễn Bá Lăng, vấn đề bảo tồn cổ tích, Tạp chí khảo cổ, Bộ mới, số 1, Sài Gòn, 1967, trang 18. 7. Theo bản “báo cáo nguyệt đề” của chi nhánh Bảo tồn Cổ tích Huế (văn bản đánh máy) đề ngày 23-10-1974, số 471- BTBT gởi ông Giám đốc viện khảo cổ Sài Gòn. 8. Nguyễn Văn Hiền, bài đã dẫn, trang 379-381. 9. Đại Nam Thực lục, bản dịch, tập XXII, Hà Nội, 1969, trang 68. 10. Nguyễn Văn Hiền, bài đã dẫn, trang 379-381. 11. Hương Giang hiểu phiếm: đi chơi thuyền buổi sáng trên sông Hương. 12. Rất tiếc là ngày nay hai tấm bia và hai khẩu súng đều không còn nguyên tại chỗ. |
NGÔ MINHHuế trên 350 năm là thủ phủ Chúa Nguyễn Đằng Trong và Kinh Đô của Đại Việt đã tích tụ nhân tài, vật lực cả quốc gia tạo ra một hệ thống Di sản văn hóa phi vật thể đặc sắc và nổi tiếng như nhã nhạc, lễ hội dân gian, văn hóa ẩm thực... Trong Di sản văn hóa ẩm thực Huế, Văn hóa ẩm thực Cung đình là bộ phận tinh hoa nhất, giá trị nhất!
HÀ MINH ĐỨC Ký Sau chặng đường dài, vượt qua nhiều đồi núi của vùng Quảng Bình, Quảng Trị, khoảng 3 giờ chiều ngày 25/9/2003, đoàn chúng tôi về đến thành phố Huế. Xe chạy dọc bờ sông Hương và rẽ vào khu vực trường Đại học Sư phạm Huế. Anh Hồ Thế Hà, Phó Chủ nhiệm khoa Văn; chị Trần Huyền Sâm, giảng viên bộ môn Lý luận văn học cùng với các em sinh viên ra đón chúng tôi. Nữ sinh mặc áo dài trắng và tặng các thầy những bó hoa đẹp.
BĂNG SƠN Tuỳ bútDòng sông Hồng Hà Nội là nguồn sữa phù sa và là con đường cho tre nứa cùng lâm sản từ ngược về xuôi. Dòng sông Cấm Hải Phòng là sông cần lao lam lũ, hối hả nhịp tầu bè. Dòng sông Sài Gòn của thành phố Hồ Chí Minh là váng dầu ngũ sắc, là bóng cần cẩu nặng nề, là những chuyến vào ra tấp nập... Có lẽ chỉ có một dòng sông thơ và mộng, sông nghệ thuật và thi ca, sông cho thuyền bềnh bồng dào dạt, sông của trăng và gió, của hương thơm loài cỏ thạch xương bồ làm mê mệt khách trăm phương, đó là sông Hương xứ Huế, là dòng Hương Giang đất cố đô mấy trăm năm, nhưng tuổi sông thì không ai đếm được.
PHAN THUẬN THẢO Chiều chiều trước bến Vân Lâu Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm, Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông. Thuyền ai thấp thoáng bên sông, Đưa câu Mái đẩy chạnh lòng nước non. (Ưng Bình Thúc Giạ)
LÃNG HIỂN XUÂNChẳng hiểu sao, từ thuở còn thơ ấu, tôi đã có một cảm nhận thật mơ hồ nhưng cũng thật xác tín rằng: Chùa chính là nơi trú ngụ của những ông Bụt hay bà Tiên và khi nào gặp khó khăn hay đau khổ ta cứ đến đó thì thế nào cũng sẽ được giải toả hay cứu giúp!
BÙI MINH ĐỨCNói đến trang phục của các Cụ chúng ta ngày xưa là phải nhắc đến cái búi tó và cái khăn vấn bất di bất dịch trên đầu các Cụ. Các Cụ thường để tóc dài và vấn tóc thành một lọn nhỏ sau ót trông như cái củ kiệu nên đã được dân chúng đương thời gọi là “búi tó củ kiệu”. Ngoài cái áo lương dài, cái dù đen và đôi guốc gỗ, mỗi khi ra đường là các Cụ lại bối tóc hình củ kiệu và vấn dải khăn quanh trên đầu, một trang phục mà các cụ cho là đứng đắn nghiêm trang của một người đàn ông biết tôn trọng lễ nghĩa. Trang phục đó là hình ảnh đặc trưng của người đàn ông xứ ta mãi cho đến đầu thế kỷ thứ 20 mới bắt đầu có nhiều biến cải sâu đậm
MAO THUỶ THANH (*)Tiếng hát và du thuyền trên sông Hương là nét đẹp kỳ thú của xứ Huế. Trên sông Hương có hai chiếc cầu bắc ngang: cầu Phú Xuân và cầu Trường Tiền nhưng trước đây người dân Huế thường có thói quen đi đò ngang. Bến đò ở dưới gốc cây bồ đề cổ thụ, nằm đối diện với trường Đại học Sư phạm Huế. Một hôm, tôi và nữ giáo sư Trung Quốc thử ngồi đò sang ngang một chuyến. Trên đò đã có mấy người; thấy chúng tôi bước xuống cô lái đò áp đò sát bến, mời chúng tôi lên đò.
VÕ NGỌC LANBuổi chiều, ngồi trên bến đò Quảng Lợi chờ đò qua phá Tam Giang, tôi nghe trong hư vô chiều bao lời ru của gió. Lâu lắm rồi, tôi mới lại được chờ đò. Khác chăng, trong cảm nhận tôi lại thấy bờ cát bên kia phá giờ như có vẻ gần hơn, rõ ràng hơn.
HỒNG NHUTôi vẫn trộm nghĩ rằng: Tạo hóa sinh ra mọi thứ: đất, nước, cây cỏ chim muông... và con người. Con người có sau tất cả những thứ trên. Vì vậy cỏ cây, đất nước... là tiền bối của con người. Con người ngoài thờ kính tổ tiên ông bà cha mẹ, những anh hùng liệt sĩ đã mất... còn thờ kính Thần Đất, Thần Nước, Thần Đá, Thần Cây...là phải đạo làm người lắm, là không có gì mê tín cả, cho dù là con người hiện đại, con người theo chủ nghĩa vô thần đi nữa! Chừng nào trên trái đất còn con người, chừng đó còn có các vị thần. Các vị vô hình nhưng không vô ảnh và cái chắc là không vô tâm. Vì sao vậy? Vì các vị sống trong tâm linh của con người, mà con người thì rõ ràng không ai lại tự nhận mình là vô tâm cả.
MẠNH HÀTôi không sinh ra ở Huế nhưng đã có đôi lần đến Huế, khác với Hà Nội hay Thành phố Hồ Chí Minh, Huế có nét trầm lắng, nhẹ nhàng, mỗi lần khi đến Huế tôi thường đi dạo trên cầu Trường Tiền, ngắm dòng Hương Giang về đêm, nghe tiếng ca Huế văng vẳng trên những chiếc thuyền rồng du lịch thật ấn tượng. Cho đến nay đã có biết bao bài thơ, bài hát viết về Huế thật lạ kỳ càng nghe càng ngấm và càng say: Huế đẹp, Huế thơ luôn mời gọi du khách.
VÕ NGỌC LANNgười ta thường nói nhiều về phố cổ Hội An, ít ai biết rằng ở Huế cũng có một khu phố cổ, ngày xưa thương là một thương cảng sầm uất của kinh kỳ. Đó là phố cổ Bao Vinh. Khu phố này cách kinh thành Huế chừng vài ba cây số, nằm bên con sông chảy ra biển Thuận An. Đây là nơi ghe, thuyền trong Nam, ngoài Bắc thường tụ hội lại, từ cửa Thuận An lên, chở theo đủ thứ hàng hoá biến Bao Vinh thành một thương cảng sầm uất vì bạn hàng khắp các chợ trong tỉnh Thừa Thiên đều tập trung về đây mua bán rộn ràng.
NGUYỄN XUÂN HOATrước khi quần thể di tích cố đô Huế được công nhận là di sản văn hoá thế giới, thành phố Huế đã được nhiều người nhìn nhận là một mẫu mực về kiến trúc cảnh quan của Việt Nam, và cao hơn nữa - là “một kiệt tác bài thơ kiến trúc đô thị” như nhận định của ông Amadou Mahtar M”Bow - nguyên Tổng Giám đốc UNESCO trong lời kêu gọi tháng 11-1981.
DƯƠNG PHƯỚC THU Bút kýXứ Thuận Hóa nhìn xa ngoài hai ngàn năm trước, khi người Việt cổ từ đất Tổ Phong Châu tiến xuống phía Nam, hay cận lại gần hơn bảy trăm năm kể từ ngày vua Trần Anh Tông cho em gái là Huyền Trân Công chúa sang xứ Chàm làm dâu; cái buổi đầu ở cương vực Ô Châu ác địa này, người Việt dốc sức tận lực khai sông mở núi, đào giếng cày ruộng, trồng lúa tạo vườn, dựng nhà xây đình, cắm cây nêu trấn trị hung khí rồi thành lập làng xã.
TRƯƠNG THỊ CÚCSông Hương, một dòng sông đẹp, sôi nổi với những ghềnh thác đầu nguồn, mềm mại quàng lấy thành phố như một dải lụa, hài hoà tuyệt diệu với thiên nhiên xinh đẹp và hệ thống thành quách, cung điện, lăng tẩm, đền chùa; với hàng trăm điệu hò, điệu lý; với những ngày hội vật, hội đua trải, đua ghe; với mảnh vườn và con người xứ Huế, là nguồn cảm hứng vô tận của người nghệ sĩ, thu hút sự say mê của nhiều khách phương xa. Không những là một dòng sông lịch sử, sông Hương còn là không gian văn hoá làm nẩy sinh những loại hình nghệ thuật, những hội hè đình đám, là không gian của thi ca, nhạc hoạ, là dòng chảy để văn hoá Huế luân lưu không ngừng.
TÔN NỮ KHÁNH TRANG Khi bàn về văn hoá ẩm thực, người ta thường chú trọng đến ẩm thực cung đình, hay dân gian, và chủ yếu đề cập đến sinh hoạt, vai trò, địa vị xã hội... hơn là nghĩ đến hệ ẩm thực liên quan đến đời sống lễ nghi.
TRƯƠNG THỊ CÚC• Bắt nguồn từ những khe suối róc rách ở vùng núi đại ngàn A Lưới - Nam Đông giữa Trường Sơn hùng vỹ, ba nhánh sông Tả Trạch, Hữu Trạch và nguồn Bồ đã lần lượt hợp lưu tạo thành hệ thống sông Hương, chảy miên man từ vùng núi trung bình ở phía đông nam A Lưới, nam Nam Đông, băng qua những dãy núi đồi chập chùng ở Hương Thuỷ, Hương Trà, Phong Điền rồi xuôi về đồng bằng duyên hải, chảy vào phá Tam Giang để đổ nước ra biển Đông.
NGUYỄN KHẮC MAIỞ xứ Huế có những tên làng quê mà nghĩa của chúng vẫn còn là sự ám ảnh kiếm tìm giải thích, chắc chắn chúng phải có nghĩa cụ thể nào đó. Người xưa không bao giờ đặt tên một vùng đất mà chẳng có nghĩa gì cả cứ như là người Mã Lai họ đặt tên vùng đất kinh đô cũng lần ra cái nghĩa đó là “cửa sông bùn lầy” (Kua-la-lăm-pua). Những cái tên như Kim Long, An Hoà, Dương Xuân, Phú Tài, Phú Mậu thì những ai có chút hiểu biết chữ Hán đều có thể lần tìm ý nghĩa. Nhưng có những cái tên làng quê thật khó đoán được cái nghĩa của chúng.
BÙI MINH ĐỨC Ngày nay, hễ nói đến đường để nấu chè là ai ai ở Huế cũng nghĩ đến đường cát trắng, đến thứ đường bột trắng tinh đã được tinh lọc do các nhà máy đường tân tiến sản xuất. Có người cũng còn nhớ đến đường phèn để chưng với chanh ăn khi bị ho, hoặc đường tinh thể là thứ đường đặc biệt màu vàng dùng để uống với cà phê cho thêm phần đậm đà. Nhưng chẳng ai có thể nhắc đến chiếc bánh đường đen ở Huế của thuở nào.
NGUYỄN TIẾN VỞNKinh Dịch (Chu Dịch) là sách về sự biến đổi. Dịch, nói gọn lại là biến đổi. Tinh thần xuyên suốt của Kinh Dịch là quy luật chuyển dời, biến hoá của vạn vật trong cõi trời đất. Mọi vật, bất kể to lớn như vũ trụ, hay nhỏ nhoi như các nguyên tử, đều không bao giờ đứng yên. Mọi sự, từ chuyện người có thể biết đến chuyện chỉ trời đất biết, cũng vận động biến hoá khôn lường.
PHAN THUẬN AN Dạ thưa xứ Huế bây giờ,Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương. (Bùi Giáng)