Cuốn sách "Trăm năm trong cõi" của giáo sư Phong Lê viết về 23 tác giả khai mở và hoàn thiện diện mạo văn học hiện đại Việt Nam.
Công tác tại Viện Văn học và cộng tác với Hội Nhà văn Việt Nam nên trong 25 năm qua, giáo sư Phong Lê có dịp tham gia vào các sinh hoạt kỷ niệm 100 năm sinh của các nhà văn có tác phẩm nở rộ trong giai đoạn 1930 - 1945. Ông gọi đó là "thế hệ Vàng" bởi họ là những người có công đầu trong việc khai mở và hoàn thiện diện mạo hiện đại cho văn chương, học thuật dân tộc. Các bài viết trong cuốn Trăm năm trong cõi giới thiệu 23 tác giả, có năm sinh từ thập niên cuối thế kỷ XIX như Tản Đà, Ngô Tất Tố, Hoàng Ngọc Phách... tới những tên tuổi sinh vào năm thập niên 1920 như Tố Hữu, Chế Lan Viên, Tô Hoài...
Cuốn sách được giáo sư Phong Lê thực hiện với mong muốn "giúp các thế hệ sau biết được lịch sử hình thành và phát triển của văn chương Việt hiện đại; qua đó trước hết như một cách tri ân; tiếp đó là chia sẻ với những khổ công, nỗ lực, thử thách, và những rủi ro, bất hạnh của một lớp người đi trước".
Với mục đích ấy, các bài viết trong sách đánh giá cái hay cái đẹp trong tác phẩm cũng như sự nghiệp của nhiều nhà văn, nhà thơ, học giả. Giáo sư Phong Lê đánh giá Nguyễn Công Hoan có một đời văn lực lưỡng; Thạch Lam với những tác phẩm lãng mạn và hiện thực; Nguyễn Tuân là người đến được với cái đẹp và cái thật; Ngô Tất Tố lại mang nét hiện đại trong một nhà Nho...
Bên cạnh đó, Phong Lê cũng nhìn nhận công lao của các tác giả, từ đó toát lên lịch sử một giai đoạn văn chương Việt Nam. Viết về Tản Đà, ông nhấn mạnh vào đặc điểm thơ đi sâu vào "cái tôi", công cuộc giải phóng cá nhân của tác giả Thề non nước. Từ đó, Phong Lê đánh giá Tản Đà như một nhà cách mạng văn chương, một sứ giả tiên phong: "Tản Đà chỉ làm thơ, chứ không làm thơ cách mạng, càng chưa làm cách mạng, nhưng thơ ông đã là một nhu cầu của đời sống tinh thần và tình cảm quần chúng". Trong bài viết về Hoàng Ngọc Phách, giáo sư Phong Lê nhấn mạnh vào công lao của người khai mạc nền tiểu thuyết mới và trào lưu lãng mạn. Hay bài viết về "ông hoàng thơ tình" Xuân Diệu, ông đánh giá "Xuân Diệu hiển nhiên xứng đáng là người tiếp tục nối dài và làm giàu cho di sản, để trở thành di sản".
Trăm năm trong cõi thể hiện cái nhìn am tường, cặn kẽ về tác phẩm, tác giả lớn của văn chương hiện đại Việt Nam. Không những thế, cuốn sách còn giúp người đọc nhận diện về vai trò, tầm vóc của một thế hệ đã mang lại một mùa vàng cho văn chương Việt Nam.
Nguồn: Lam Thu - vnexpress
(Đọc tập thơ “Thế giới và tôi” của Ngô Tự Lập)Tôi kém Ngô Tự Lập hơn chục tuổi nhưng không “trẻ” hơn anh. Tuổi trẻ làm ta cao ngất lên, tuổi già đôi khi cũng vậy. Nhưng cao ngất lên ta thấy gì nào?
“Tết không vào nhà tôi”(*)nghĩa là tết không vào nhà Phùng QuánCâu thơ tâm trạngVấn nạn một đời
Nhà thơ Phùng Quán trọn cuộc đời (1932 - 1995) là một chiến sĩ Vệ Quốc Đoàn xông xáo và nhiệt huyết.
Đầu những năm 61, Phùng Quán về lao động tại nông trường Thắng Lợi, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hoá. Quán ở đội 6 khai hoang, tôi ở đội canh nông Ngọc Ách từ trước.
Chỉ trong vòng 63 năm từ 1930 đến 1993, văn học Mỹ đã vinh dự nhận được 11 giải Nobel. Đây là một thành tựu vượt bậc đáng tự hào mà không phải bất cứ một quốc gia nào có thể sánh kịp. Đóng góp vào ánh hào quang ấy có John Steinbeck - nhà văn lớn của văn học hiện thực Mỹ.
(Đọc “Thơ Trần Quốc Thực” – Nxb HNV 2007)Giữa rất nhiều giọng thơ khoa trương, khoe mẽ hôm nay, Trần Quốc Thực là một giọng thơ lặng lẽ đầy bản sắc. Sự ngại giao tiếp, sự âm thầm dâng hiến cho thơ của Trần Quốc Thực đã khiến cho nhiều người không biết đến thơ anh.
Văn học huyền ảo ra đời mang lại một thành tựu của phương pháp sáng tác. Một bước chuyển tiếp sau hàng thế kỉ từ cổ điển, lãng mạn, rồi hiện thực.
(Đọc lại "Chân dung và đối thoại" của Trần Đăng Khoa)Tôi đã viết vài dòng góp ý chân tình sau khi đọc lướt cuốn "Chân dung và đối thoại" của Trần Đăng Khoa. Nếu Khoa thực sự hiểu được vấn đề cũng như dư luận đánh giá đúng cuốn sách thì tôi không đọc lại và cũng không viết nữa làm gì.
Nếu ai đã được say, đã được bay cùng vầng trăng trong thơ Lý Bạch, thì sẽ không khỏi chạnh lòng khi đọc những vần thơ trăng của Đặng Huy Trứ. Đặng Huy Trứ có yêu trăng không ?Rất yêu. Yêu rất nhiều...
Phùng Quán ơi ! Bây giờ trước cái chòi ngóng sóng ở mé Hồ Tây nhà anh, quán nhậu mọc lên nghi ngút, che khuất những bầy sâm cầm đương hạ cánh xuống hoàng hôn. Cái nhìn của anh cũng đói, nhưng ở thế giới bên kia anh đâu có ngán :"Trong trăm nghìn nỗi đói/tôi nếm trải cả rồi/tôi chỉ kinh khiếp nhất/ là nỗi đói tình người
Những câu thơ này ở trong bài Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi. Lịch sử đất nước, qua con mắt thơ Lưu Quang Vũ, bao trùm là gió và tình yêu. Cũng có thể mượn câu này để nói về đời và thơ của chính anh. Điều anh ước đã làm những trang thơ anh có rất nhiều gió.
Đây là công trình nghiên cứu tổng kết có tính chất chiến lược Chương trình Khoa học Công nghệ cấp Nhà nước KXO6 "Văn hóa, văn minh vì sự phát triển và tiến bộ xã hội" do cố giáo sư Nguyễn Hồng Phong làm chủ nhiệm. Văn hóa chính trị truyền thống Việt là một đề tài quan trọng của công trình.
NGUYỄN THỤY KHA(Đọc “Gửi VB” thơ của Phan Thị Vàng Anh, Nhà xuất bản Hội Nhà văn - 2006)Có một thời, người ta giấu kín nỗi cô đơn như một khuyết tật của mình để được hoà nhập vào đám đông ồn ào, hơn hớn lên đường, để được hy sinh và dâng hiến vô danh. Nhưng đã là khuyết tật thì có giấu mãi cũng đến lúc phải lộ ra, nữa là nỗi cô đơn không thể thiếu ở mỗi kiếp người. Mãi đến thời thanh bình, nỗi cô đơn của thân phận dần dà mới được nói ra.
Hoạ sỹ Đỗ Kỳ Hoàng nguyên ủy viên thường vụ Hội LH.VHNT TT.Huế, nguyên chủ tịch Hội Mỹ thuật TT.Huế, nguyên giảng viên Đại học Nghệ thuật Huế v.v... đã từ trần ngày 26 tháng 10 năm 2006, hưởng thọ 75 tuổi.Thương tiếc người hoạ sỹ tài danh xứ Huế, Sông Hương xin đăng bài viết của nhà thơ Võ Quê và xin được coi đây như một nén hương tưởng niệm
Ai cũng biết, anh là tác giả của các tập thơ và trường ca Bến đợi, Hát rong, Hoa tường vi trong mưa, Ngựa trắng bay về, Gõ chiều vào bàn phím...với những thao thiết của dã quỳ vàng, của thông xanh, xoan tím, phượng hồng, những gió và nắng, những bùn lầy và cát bụi, những cần rượu và cồng chiêng