Phố cổ Bao Vinh

10:30 13/04/2009
VÕ NGỌC LANNgười ta thường nói nhiều về phố cổ Hội An, ít ai biết rằng ở Huế cũng có một khu phố cổ, ngày xưa thương là một thương cảng sầm uất của kinh kỳ. Đó là phố cổ Bao Vinh. Khu phố này cách kinh thành Huế chừng vài ba cây số, nằm bên con sông chảy ra biển Thuận An. Đây là nơi ghe, thuyền trong Nam, ngoài Bắc thường tụ hội lại, từ cửa Thuận An lên, chở theo đủ thứ hàng hoá biến Bao Vinh thành một thương cảng sầm uất vì bạn hàng khắp các chợ trong tỉnh Thừa Thiên đều tập trung về đây mua bán rộn ràng.

Bên những chiếc ghe bầu chòng chành trong Quảng ra còn thấy những chiếc thuyền mành, những chiếc “gọ” của Nghệ An, Hà Tĩnh vào. Ghe Quảng Nam cung cấp đường xe, đường đọi, đường muỗng; ghe Bình Định chở theo dừa tươi, dừa kho, dây dừa... ghe Quảng Ngãi thì rao bán mạch nha, đường phèn, đường phổi; ghe Phan Thiết chở nước mắm và cá mòi. Các chiếc “gọ” của Nghệ An, Hà Tĩnh thì đầy ắp những lu vại nước mắm gọi là “nước mắm gọ” để phân biệt nước mắm Nam Ô của Quảng Nam. Thỉnh thoảng có vài chiếc thuyền mành lớn đến từ Trà Cổ, Mống Cái bán toàn đồ sành sứ... Trên bến Bao Vinh, bạn có thể nghe đủ thứ giọng nói: giọng Nghệ An, giọng Huế, giọng Quảng xen nhau; thỉnh thoảng lại nổi lên những tràng tiếng líu lo của những người dân tộc thiểu số, mình trần, đóng khố gùi những lâm hải sản từ các vùng đồi núi về họp chợ. Họ bán mật ong, nấm mèo, ớt khô, dầu trong, dầu rái, lá nón, lá tơi giang và sợi mây... Đổi lại họ mua chuối, đường và cồng chiêng bằng đồng. Xét như thế, thương cảng Bao Vinh chẳng thiếu mặt hàng nào, nông phẩm, thuỷ sản, hải sản, lâm sản đều có đủ. Nếu bạn ở tận bến An Cựu hay Vĩ Dạ mà cần mua một vài ống giang để chẻ lạt hay một ít dầu rái để trét xuồng đương nhiên là bạn phải tìm về Bao Vinh, khu phố này xưa có tên là Cảng Thanh Hà gồm một dãy nhà gạch nên cao nhưng mái thấp, lợp ngói âm dương hay ngói liệt, quay mặt ra sông, đối diện với một hàng ghe thuyền chen chúc xôn xao ngoài bến.

Bao Vinh cao bợt hẳn bờ
Ghe mành lui tới, mẹ nhờ duyên con”

Trong buôn bán, thời nào, nơi nào, cũng cần phải tiếp thị mà hiệu quả của tiếp thị tốt vẫn phải do các cô hàng xinh đẹp, duyên dáng. Các bà mẹ ở đây đã nhờ vào “duyên con” để thu hút các thương lái bốn phương có hàng tốt thì ưu tiên dành cho họ, đôi khi quen biết trở nên thân tình, cứ đổ hàng xuống mùa sau lấy tiền cũng được không muộn. Đó là kiểu bán gối đầu nhờ thế họ làm ăn lâu dài, có thể cũng có vài ba mối tình nảy nở. Có không thì không chắc lắm nhưng các anh thương lái trẻ vất vả giong buồm vượt biển từ Sông Cầu, Tam Quang, Qui Nhơn, Bình Định ra Huế hẳn sẽ tìm thấy niềm an ủi trước những nụ cười của các o ở phố cổ này mà quên đi nỗi vất vả của cuộc hải hành dài.

Bao Vinh không chỉ là đất buôn bán. Ở đó còn nhiều nhà nho, nhiều quan lớn trong triều, nhiều văn nhân nghệ sĩ và những chiến sĩ cách mạng. Cụ thể Võ Bá Hạp là một nhà cách mạng lão thành, đồng chí của cụ Phan Bội Châu; những ngày cuối đời đã quay về ẩn dật trong một ngôi nhà vườn gần bên cầu Bao Vinh. Người ta quen thấy một ông già rất đẹp lão, đầu búi tó củ hành, mặc bộ áo lụa trắng thường lui tới thấp thoáng dưới tàn cây bóng lá của khu vườn như là một hưu quan. Bao Vinh cũng từng in dấu ngựa xe của quan Phu chánh đại thần Trần Tiến Thành (1813 - 1883).

Sau cái chết của vua Tự Đức, vì bất đồng chính kiến Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường nên Trần Tiến Thành bị hai ông này sai người đang đêm đến nhà giết chết.

Tư thất của ông nằm quá cống Bao Vinh một đổi, thuộc địa phận làng Minh Hương. Ngay tại phố cổ Bao Vinh vào những năm 40 còn thấy có hai ông  quan làm việc cho Nam Triều thường ngồi trên xe nhà có người hằng ngày kéo vào Đại Nội. Sau này, dưới trào Ngô Đình Diệm, nhiều người ở Bao Vinh đã giữ những chức vụ quan trọng cao cấp trong bộ máy hành chánh lẫn quân sự của chế độ cũ. Trước đây Bao Vinh có một rạp hát nằm sau chợ, tuy rạp dùng bằng tranh tre nhưng các gánh cải lương trong Nam ra, ngoài Bắc vào đều ghé đó trình diễn. Đó cũng là nơi trình diễn thường xuyên của gánh Hát Bội trong tỉnh. Riêng Bao Vinh cũng tự mình thành lập nên một ban ca kịch Huế mà các nhạc sĩ là thanh niên trong làng gồm đủ các nhạc công tranh, tỳ, nhị, nguyệt, bầu sáo... và đã nhiều lần trình diễn như một đoàn chuyên nghiệp. Đó là các ông Ích, ông Miễn, ông Khánh, ông Nhạc, ông Đại... hầu hết giờ đây đã qua đời, ai còn sống sót cũng đạt tới tuổi 80.

Lớp trẻ của Bao Vinh theo tân học, nhiều người đã thành đạt, tốt nghiệp bác sĩ như bác sĩ Thu, ra Bắc theo  cách mạng, nay đã về hưu hiện ở TP.HCM; Bác sĩ Trương Thìn hiện là Viện Trưởng Viện Y - học dân tộc, vừa vẽ tranh vừa làm nhạc; bác sĩ Ngô Viết Phúc, nguyên chánh văn phòng Hội Nhà Báo Thành phố; bác sỹ Trương Quý Lâm, dưới bút hiệu Lan Giao đã xuất bản tập truyện ngắn Bút Thu. Hiện tại, có họa sĩ Đỗ Kỳ Hoàng chuyên vẽ tranh sơn mài, đang dạy Mỹ thuật Huế cũng là người Bao Vinh. Bao Vinh còn sản xuất ra nhiều nghệ nhân điêu khắc rất giỏi về nghệ thuật chạm gỗ và khảm xà cừ. Đây là nghề cố hữu của Bao Vinh mới trở lại phát đạt khoảng chục năm gần đây. Có điều thú vị là phố cổ Bao Vinh còn có một gánh xiếc lớn, đó là gánh xiếc Long Tiên. Không hiểu ông chủ gánh - vốn là người Bắc - yêu mến phố cổ ra sao mà đến Bao Vinh mua nhà, mua đất tọa lạc ngay tại đó. Gánh Long Tiên này đã cung cấp cho người yêu nhạc hai nhạc sĩ: anh em Xuân Tiên, Xuân Lội. Xuân Tiên chơi Saxo, tác giả Chờ một kiếp mai; Về dưới mái nhà... Xuân Lội thì thổi Clarinette, tác giả bài Nhạc nắng mang hơi nhạc Sông Hương...

Từ thập niên 40 trở đi, vì giao thông khó khăn, mất an ninh do chiến tranh nên các ghe thuyền trong Nam, ngoài Bắc không vào Huế nữa, thương cảng Bao Vinh trở nên vắng vẻ. Trên bến Bao Vinh người ta xây nhiều nhà tứ giác cách quãng nhau. Về sau, người đông mà đất hẹp nên có chỗ nào trống là thiên hạ tranh chiếm để dựng nhà, thét rồi, Phố cổ Bao Vinh trước kia chỉ có một dãy phố nay biến thành hai dãy nhà đối diện nhau, ôm lấy một con đường hẹp. Bây giờ, Đào Hoa Nữ có muốn chụp hình phố cổ Bao Vinh từ ngoài sông vào thì chỉ chụp được dãy phố san sát, thực ra không “cổ lắm”. Cổ là dãy ở phía sau bên kia, mà cũng chẳng còn cổ bao nhiêu vì trừ một đôi nhà đã xây xệ, tường long mái lở còn in dấu tích cũ, các nhà khác đều “lên đời” thành nhà cao tầng hai ba tấm khiến người xa phố cổ lâu ngày, có dịp trở lại, ngắm nhìn Bao Vinh không khỏi vừa vui mừng vừa pha lẫn chút ngậm ngùi.

V.N.L

(200/10-05)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LTS: Đại Học Huế đang ở tuổi 50, một tuổi đời còn ngắn ngủi so với các Đại học lớn của thế giới. Nhưng so với các Đại học trong nước, Đại Học Huế lại có tuổi sánh vai với các Đại học lớn của Việt như ở Hà Nội và TP Hồ Chí Minh. Trên hành trình phát triển của mình, Đại Học Huế đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế, giáo dục, văn hoá ở miền Trung, Tây Nguyên, đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao cho khu vực và cả nước. Nhân dịp kỷ niệm này, TCSH phân công ông Bửu Nam, biên tập viên tạp chí, trao đổi và trò chuyện với PGS.TS. Nguyễn Văn Toàn, Giám đốc Đại Học Huế. Trân trọng giới thiệu với bạn đọc cuộc trò chuyện này.

  • VÕ ĐẮC KHÔICó một thời người Huế loay hoay đi vỡ núi, phá rừng trồng khoai sắn. Có một thời người Huế tìm cách mở cảng nước sâu để vươn ra biển lớn, hay đón những con tàu viễn xứ xa xôi. Cả nước, các tỉnh thành láng giềng như Quảng Bình, Quảng Trị, Đà Nẵng cũng đều ra sức làm như thế, sao ta có thể ngồi yên?

  • TRẦN ĐÌNH SƠNĐất Việt là cái nôi sinh trưởng của cây trà và người Việt biết dùng trà làm thức uống thông thường, lễ phẩm cúng tế, dâng tặng, ban thưởng từ hàng ngàn năm nay.

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNGTừng là đất Kẻ Chợ – kinh đô triều Nguyễn xưa, ẩm thực Huế dựa trên nền tảng triết lý của cái đẹp, món ăn món uống phải ngon nhưng nhất thiết phải đẹp, vị phải đi với mỹ, thiếu mỹ thì không còn vị nữa.

  • TRƯƠNG THỊ CÚCTrong vô vàn những bài thơ viết về Huế, hai câu thơ của Phan Huyền Thư dễ làm chúng ta giật mình:Muốn thì thầm vuốt ve Huế thật khẽLại sợ chạm vào nơi nhạy cảm của cơ thể Việt Nam                                                                    (Huế)

  • FRED MARCHANT(*)                                                                                      Trong chuyến viếng thăm Huế lần thứ hai vào năm 1997, tôi làm một bài thơ đã đăng trong tập thứ hai của tôi, Thuyền đầy trăng (Full Moon Boat). Bối cảnh bài thơ là một địa điểm khảo cổ nổi danh ở Huế. Có thể nói là bài thơ này thực sự ra đời (dù lúc đó tôi không biết) khi nhà thơ Võ Quê đề nghị với tôi và các bạn trong đoàn ghé thăm Đàn Nam Giao trước khi đi ăn tối ở một quán ăn sau Hoàng Thành bên kia sông Hương.

  • TRẦN KIÊM ĐOÀNDu khách là người trong mắt nhìn và qua cảm nhận của chính người đó.

  • TRƯƠNG THỊ CÚCTừ buổi hồng hoang của lịch sử, hình ảnh ban đầu của xứ Huế chỉ thấp thoáng ẩn hiện qua mấy trang huyền sử của đất nước Trung Hoa cổ đại. Tài liệu thư tịch cổ của Trung Quốc đã kể lại từ năm Mậu Thân đời vua Đường Nghiêu (2353 năm trước Công nguyên), xứ Việt Thường ở phương Nam đã đến hiến tặng vua Nghiêu con rùa thần từng sống qua ngàn năm tuổi.

  • HỒ ĐĂNG THANH NGỌCCó một hiện tượng lịch sử lý thú, ở những nơi khác vốn dĩ bình thường  nhưng ở Huế theo tôi là rất đặc biệt, đó là tại mảnh đất này sau hơn ba mươi năm ngày đất nước thống nhất, đã hình thành một thế hệ nữ doanh nhân thành đạt giữa chốn thương trường.

  • MINH TÂMTôi nghe bà con bán tôm ở chợ Bến Ngự kháo nhau: Dân nuôi tôm phá Tam Giang đã xây miếu thờ “Ông tổ nghề” của mình gần chục năm rồi. Nghe nói miếu thờ thiêng lắm, nên bà con suốt ngày hương khói, cả những người nuôi tôm ở tận Phú Lộc, dân buôn tôm ở Huế cũng lặn lội vượt Phá Tam Giang lễ bái tổ nghề.

  • PHẠM THỊ ANH NGA"Hiểu biết những người khác không chỉ đơn giản là một con đường có thể dẫn đến hiểu biết bản thân: nó là con đường duy nhất" (Tzvetan Todorov)

  • TRẦN ĐỨC ANH SƠNSau hơn 1,5 thế kỷ được các chúa Nguyễn chọn làm thủ phủ của Đàng Trong, đến cuối thế kỷ XVIII, Huế trở thành kinh đô vương triều Tây Sơn (1788 - 1801) và sau đó là kinh đô của vương triều Nguyễn (1802 - 1945).

  • TRƯƠNG THỊ CÚC Sông Hương là một trong những nét đẹp tiêu biểu của thiên nhiên xứ Huế. Sông là hợp lưu của hai nguồn Hữu Trạch, Tả Trạch, chảy qua vùng đá hoa cương cuồn cuộn ghềnh thác, đổ dốc từ độ cao 900 mét đầu nguồn Hữu trạch, 600 mét đầu nguồn Tả trạch, vượt 55 ghềnh thác của nguồn hữu, 14 ghềnh thác của nguồn tả, chảy qua nhiều vùng địa chất, uốn mình theo núi đồi trùng điệp của Trường Sơn để gặp nhau ở ngã ba Bàng Lãng, êm ả đi vào thành phố, hợp lưu với sông Bồ ở Ngã Ba Sình và dồn nước về phá Tam Giang, đổ ra cửa biển Thuận An.

  • Chúng ta biết rằng trong thời đại ngày nay, khi đầu tư xây dựng những cơ sở nhằm đáp ứng nhu cầu cao của người đi du lịch, văn hóa ẩm thực được xem như là cánh cửa đầu tiên được mở ra để thu hút du khách.

  • Chúng tôi đi thăm đầm chim Quảng Thái, theo ông Trần Giải, Phó chủ tịch huyện Quảng Điền.

  • I. Chúng tôi xin tạm hiểu như sau về văn hóa Huế. Đó là văn hóa Đại Việt vững bền ở Thăng Long và Đàng Ngoài chuyển vào Thuận Hóa - Phú Xuân.

  • Thúng mủng Bao La đem ra đựng bột. Chiếu Bình Định tốt lắm ai ơi. Tạm tiền mua lấy vài đôi. Dành khi hiếu sự trải côi giường Lào.

  • LTS: Tiến sĩ Nguyễn Thuyết Phong hiện đang dạy tại trường đại học Kent State thuộc tiểu bang Ohio, . Đây là một trong những bài trích ra từ cuốn Hồi ký âm nhạc, gồm những bài viết về kinh nghiệm bản thân cùng cảm tưởng trong suốt quá trình đi đó đây, lên núi xuống biển, từ Bắc chí Nam của ông để sưu tầm về nhạc dân tộc. Được sự đồng ý của tác giả, TCSH xin trân trọng giới thiệu cùng độc giả.

  • Từ sau ngày giải phóng đến nay, tôi chưa một lần gặp lại Anh hùng Vai và Anh hùng Kan Lịch. Về Huế hoài nhưng lên A Lưới lại không đủ giờ và không dễ dàng gì. Những năm trước, đường về A Lưới còn chật hẹp, lổm chổm đất đá, lại hay sạt lở... đi về rất khó khăn và phải mất vài ngày. Đến Huế vào mùa khô thì lại ít thời giờ. Về Huế dịp mùa mưa thì đường về A Lưới luôn tắc nghẽn.

  • Tế lễ, giỗ chạp, cúng kỵ gắn với người Huế rất sâu. Hình như nhạc lễ cổ truyền xứ Huế cũng hình thành từ đó. Món ăn Huế được chăm chút, gọt tỉa để trở thành một thứ nghệ thuật ẩm thực cũng từ đó. Màu sắc, mẫu mã của nhiều loại trang phục Huế cũng từ đó mà được hoàn chỉnh, nâng cao. Cả những phong cách sinh hoạt nói năng, thưa gởi, đứng ngồi, mời trà, rót rượu... đầy ý tứ của vùng đất nầy cũng đi từ những buổi cúng giỗ đượm mùi hương trầm.