HOÀNG HƯƠNG TRANG
Chữ Quốc Ngữ (Q.N) viết theo dạng 24 chữ cái ABC xuất xứ từ các Thầy Dòng truyền giáo Tây Phương mang vào nước ta, cho đến nay gọi là được phổ biến trên dưới trăm năm, gói gọn vào thế kỷ 20.
Hai trong số những trang sách của Philipphê Bỉnh
Trước đó nữa, phổ biến vẫn chỉ là chữ Hán, chữ Nôm, tiếp đến là chữ Pháp rồi mới đến Q.N. Các cụ xưa, chẳng mấy ai đưa ngôn ngữ bình dân đại chúng vào tác phẩm, vì thế ngày nay, những nhà ngôn ngữ học, hay nghiên cứu về văn hóa dân gian, gặp không ít khó khăn. Đa số sách chữ Nôm là khá gần ta nhất, thì cũng toàn văn vần, thơ, phũ, biền ngẫu, thoát thai từ Hán văn, văn Hán và Nôm đều quá sơ lược, đơn gọn, không phản ảnh được đúng ngôn ngữ bình dân, mà qua thời gian, dòng ngôn ngữ ấy đã biến thiên rất nhiều.
Thuở ấy, chưa phải là xưa lắm, đến cái chữ Nôm còn bị dè bỉu là “mách qué”, đã học là phải học chữ Hán mới đúng “cửa Khổng sân Trình”, huống hồ cái chữ Q.N, bị coi là thứ chữ “Bò ngang như cua” của Tây Dương đem lại. Do đó, chữ Q.N đã được khai sinh và hoàn chỉnhkhá lâu, từ thời Trịnh Nguyễn, nhưng chỉ dùng cho các vị Cố Đạo, thương nhân nước ngoài, mặc dầu đã có tự vị hẳn hoi, mà vẫn còn xa lạ với người đi học. Nề nếp và ổn định thì chỉ trên dưới trăm năm thôi, giai đoạn đầu cũng chỉ học thuần chữ Pháp, mãi mới chuyển Q.N được. Nhưng từ khi phổ biến bộ chữ Q.N là ta gặp ngay mọi sự dễ dàng, trong khi đó, những nước dùng chữ tượng hình như Tàu, Nhật, Hàn, và các nước theo chữ Á Rập rất khó hội nhập với các nước có bộ chữ cái La Tinh. Ta rất may mắn, tuy rằng mấy nghìn năm lệ thuộc Phương Bắc, thế mà khi có chữ Q.N, ta nhanh chóng, dễ dàng vượt thoát ra khỏi cái vòng đai khổ ải của thứ chữ tượng hình như vẽ bùa ấy.
Trước giờ các nhà nghiên cứu hầu như đồng ý với lập luận rằng, chữ Q.N được khai sinh bởi cha đẻ A. De Rhodes, Béhaine hoặc một vài vị cố đạo đồng thời, và cũng chỉ nghĩ rằng, chỉ có các vị cố đạo nước ngoài như thế thôi, thật là thiếu sót và oan uổng! Thật ra ta đã có một vị Thầy Cả thuần chất, sinh năm 1759 đến 17 tuổi vào tu ở nhà Dòng, rồi đi chu du nhiều nước, ông viết nhiều sách, soạn và san định nhiều bộ tự điển đầu tiên cho người Việt dùng. Bằng chữ Q.N chính hiệu, mà ngày nay đọc nó vẫn còn trôi chảy, vẫn hiểu như ngôn ngữ ta dùng hiện nay. Ông viết bằng thứ văn xuôi như nói chuyện, nói sao viết vậy. Chuyện ông viết vừa nhật ký, ghi chép biên niên, hoạt động của Dòng Chúa, của nhà thờ, của Giáo Hội trong và ngoài nước, sinh hoạt ngày thường của xã hội ta, xã hội Tây Phương, các nước ông đã đến, các nghề nghiệp lúc bấy giờ, cách ăn uống, ăn mặc, tế lễ, tang ma, ông quan sát rồi vẽ ra những vật dụng ta chưa làm được, như cái bàn in để in tranh tượng thờ, cái bàn nghiền bột thô sơ để lấy bột làm bánh thánh, cái máy dệt cổ sơ của tây phương, ông ghi chép, vẽ lại tỉ mỉ mọi sinhhoạt xã hội, so sánh cách sống văn minh hơn, có khoa học hơn, vệ sinh hơn của xã hội tây phương với cách sống còn lạc hậu, thiếu vệ sinh, thiếu khoa học của dân ta. Từ cách nhà thoáng mát, sơn quét đẹp mắt, giường nệm trắng tinh, phòng ngủ phòng ăn tươm tất, bữa ăn nhiều chất đạm, nuôi con sạch sẽ không mớm cơm nhai như các bà mẹ ta thời ấy... tất cả được viết lại bằng một thứ chữ Q.N, văn nói bình dân, đầy đủ, lưu loát, dễ hiểu.
Toàn bộ sách của ông, có cuốn đã in, có cuốn viết tay, kể cả những bộ tự vị mà ta biết của các vị cố đạo, những bộ được đánh giá là “Tối cổ”.
Ông, một người Việt thuần chất, viết cho người Việt đọc, chúng ta không ai biết ông, hầu như chưa ai nhắc tới ông bao giờ, ông đã bị lãng quên!
May thay, một số sách của ông còn lưu giữ kỹ càng ở thư viện Tòa thánh Vatican, được cầm trên tay những trang sách viết nắn nót của ông, thật bồi hồi xúc động, trên 200 năm trước đã có một con người Việt Nam như thế. Ông là Thầy Cả Philipphê Bỉnh, ông không để lại cho chúng ta một hình vẽ, một pho tượng nào cả, nhưng chân dung ông thì rất rõ nét. Ông là người Việt Nam viết văn Q.N đầu tiên, khác hẳn với tính cách những nhà truyền giáo nước ngoài đồng thời với ông. Tiếc là ông đã không ghi họ gì, chỉ ghi tên Thánh trước tên thật, ông người xứ Hải Dương, phủ Hạ Hoàng, huyện Vĩnh Lại, xã Ngãi An, thôn Địa Linh, sinh năm 1759, 17 tuổi vào Dòng tu, rồi đi chu du nhiều nước theo các Dòng thánh, ông đã sống ở nhiều nước tây phương và Á Châu, ông không nhắc gì đến quãng đời thơ ấu, cha mẹ, anh em, do đâu mà ông đi tu, chỉ nói sơ lược đến quê quán. Ông đi tu và học ở trường Kẻ Vĩnh lúc 17 tuổi (1775), đến 1793 ông được thụ phong linh mục, cuộc đời học vấn và tu tập gần ngót 20 năm ông ghi đầy đủ những ngày ông được thụ chức trong giáo hội. Có lẽ ông là người có học vấn và học đạo xuất sắc hơn người, nên vừa thụ phong linhmục xong, nhận vật kỷ niệm, khao vọng anh em nhà dòng, là được trao phó ngay chức vụ đảm nhiệm rất quan trọng, chức giữ việc trong giáo hội, tức quản lý tài sản tiền bạc của giáo hội, công việc ấy rất nặng nề, trách nhiệm, phải rất xuất sắc, uy tín mới được giao. Ông tự ví: “Thầy cả giữ việc Vít vồ thì chẳng khác gì như quan Tọa triều” (Vít vồ tức quản lý, ngày nay không còn thấy trong chữ Q.N nữa). Với chức vụ ấy, ông có cơ hội đi lại nhiều lần giữa Việt Nam - Macao - Goa (một xứ ở Ấn Độ) rồi sang Trung Hoa (ông ghi là nước Đại Minh) và nhiều nước khác, để lo việc đạo, uy tín ông ngày càng tăng.
Lúc bấy giờ, phát sinh ra việc tranh chấp cực kỳ nặng nề giữa hai phe truyền giáo là dòng Đa Minh và dòng Tên, có áp lực chính trị quốc tế xen vào, tòa thánh La Mã lại dường như nghiêng về phía dòng Đa Minh mà bỏ rơi dòng Tên, ông đã cùng một phái đoàn thầy giảng Việt Nam sang tận Bồ Đào Nha yết kiến nhà vua, nhờ can thiệp với Tòa Thánh, nhưng không được giúp đỡ mà còn bị lưu vong ở Lisbone hơn 30 năm rồi chết ở đấy. Trong hơn 30 năm này ông dùng để trước tác, biên soạn tự vị, sao chép sách vở, viết nhật ký với ý đồ gởi về quê hương toàn bộ tác phẩm của mình, ông viết công phu, tỉ mỉ, không có ý làm văn chương, nhưng là biên soạn, ghi chép những việc thật, người thật ở xứ người, tả đầy đủ, rõ ràng xã hội Tây phương bấy giờ, và so sánh với xã hội ta, mong muôn lúc trở về sẽ truyền bá, cải tiến cho bằng người. Tiếc thay, ông đã không làm được vì đã chết ở đất nước người sau hơn 30 năm lưu vong vì sự phân chia hai dòng truyền giáo mà ông đã bất lực không kết hợp lại được.
Những sách của ông, theo di chúc, được gởi về quê hương song khi ấy dòng Đa Minh và dòng Tên còn đang kháng nhau kịch liệt, đốt cả nhà thờ của nhau, bắt giáo sĩ của nhau nhốt cả vào chuồng trâu bò, kể cả việc đổ máu, việc chia rẽ diễn ra khắp các nước có giáo hội của hai dòng. Riêng nước ta cũng nhằm vào thời các vua Nguyễn bài đạo Ki Tô ráo riết, nên những sách ông gởi về không biết lưu lạc phương nào? Chút may mắn còn lại là thư viện Tòa thánh Vatican còn lưu của ông một số ít, không tới một phần hai mươi số sách của ông (so với bản kê khai sách trong thư viện riêng ông, chính tay ông viết), may thay, trong đó còn lại cuốn quan trọng hơn cả, cuốn viết tay, nhan đề “Sách sổ sang chép các việc” là cuốn có cái nhìn tổng quan, bao quát, của sự nghiệp trước tác và cả thời đại ông sống. Cũng từ cuốn này ta có thể so sánh chữ Q.N buổi bình minh ấy với hiện tại, cách nhau ngoài 200 năm đã có những biến thiên gì?
Xuyên suốt cuộc đời ông đã sống, làm việc, đọc ông dù còn lại không nhiều, chân dung ông như hiển hiện trước mắt, một vị thầy cả trầm tư, đạo mạo, thông thái, cần cù nhẫn nại.
Chỉ riêng một cuốn sách ít ỏi mà nay ta còn lại trong tay, dày trên 600 trang, do chính ông viết tay nắn nót cẩn thận, nếu có được tất cả sách của ông đã viết thì chúng ta đã có thể có cả một kho báu văn học Q.N buổi đầu đồ sộ đến nhường nào?
Sự nghiệp của Philipphê Bỉnh rất lớn lao, ông là một tài năng đa dạng, về ngôn ngữ học, xã hội học, nhà văn và họa sĩ. Riêng trên lĩnh vực từ điển, ta sẽ tìm thấy những gút mắc về những bộ từ điển được gọi là “tối cổ” mà lâu nay coi như đã thất lạc không còn tìm ra manh mối, thì nay những mấu chốt ấy có thể thấy được trong sách của Philipphê Bỉnh, những cuốn từ điển “Tôi tối cổ”, cổ hơn cả những cuốn của A.de Rhodes in năm 1651, của Pigneau de Béhaine đã bị cháy ởCà Mau đầu thế kỷ 19, hay cuốn của Tarberd tu bổ lại cuốn bị cháy. Hai cuốn “Tôi tối cổ” là hai cuốn đã được nhắc đến trong bài tựa của cuốn tự vị cổ nhất in 1651 của de Rhodes, đó là hai cuốn của Gaspas D’amaral, và Antonio Barbosa mà tưởng chừng không bao giờ còn cơ hội thấy bóng dáng. Việc vô cùng quan trọng này, trong phạm vi một bài viết ngắn không thể nói hết được, phải chờ những nhà nghiên cứu văn học, ngôn ngữ, của ta sẽ làm việc đầy đủ hơn, để đưa ra ánh sáng, vì đó là những bộ sách quý giá hiếm hoi của chữ Q.N trong buổi đầu và là cái mốc của lịch sử văn học Quốc Ngữ. Có thể nói Philipphê Bỉnh là nhà văn viết bằng Q.N hoàn chỉnh nhất và đầu tiên của nước ta. Ông biết nhiều thứ tiếng, nhất là Pháp và La Tinh, nhưng không viết tiếng nước ngoài mà người chỉ chăm chú viết tiếng Việt cho người Việt đọc, lòng yêu dân tộc của ông rất cao. Ở cách chúng ta ngoài 200 năm đã có một tấm lòng, một khối óc, một tài năng như thế, đã đóng góp trí tuệ mình vào gia tài văn hóa dân tộc, thật đáng cho chúng ta tôn vinh, ngưỡng mộ và tri ân.
Cũng từ cuốn sách này mà ta có thể so sánh chữ Quốc Ngữ buổi đầu với hiện tại, cách nhau trên 200 năm mà đã có những biến thiên gì? Ví dụ:
Nay ta viết và đọc: Đức Chúa Trời, Cũng như, Cùng nhau, Quản lý, Hạ Hoàng, Huyện, Thôn, Dòng Chúa, Thầy Dòng, Song le, Trước khi,...
Thì lúc bấy giờ, Philipphê Bỉnh viết: Đức Chúa Blời, Cŭ~ như, Cŭ` nhau, Vít vồ, Hạ Hàǒù, Huện, Tôn, Dàõ Chúa, Thầy Dàõ, Saǒ le, Trc' khi...
Ông lại còn dùng rất nhiều chữ viết tắt như: Rg` (rằng) Ng` (người) Chg’ (chẳng)... riêng chữ Vít Vồ (tổng quản, quản lý) cho đến nay không còn dấu vết trong chữ viết và ngôn ngữ của ta, chỉ phỏng đoán theo ý của toàn câu thì nó có nghĩa là một chức vụ quan trọng như tổng quản, quản lý, trông coi tiền bạc, tài sản của giáo hội, chứ không thể tìm đâu ra chữ “Vít vồ” tương đương với chữ gì hiện nay.
Cũng cần cảm ơn người đã có công khám phá ra kho tàng sách vở của Philipphê Bỉnh là linh mục Thanh Lãng, một nhà giáo, nhà nghiên cứu văn học, Chủ tịch Trung tâm Văn Bút VN trước 1975, ông đã bỏ ra nhiều công sức và tiền bạc chụp lại phim toàn bộ bộ sách của Thầy Cả Bỉnh còn lưu lại ở thư viện Tòa thánh Vatican, mục “Tài liệu Bắc Kỳ”, mang số Borghese Tonchino 3, kho tàng ấy đã chìm vào lãng quên hơn 200 năm, chúng ta không thể lại để tiếp tục lãng quên, sẽ có tội với tiền nhân và nền văn hiến nước nhà.
Bài viết ngắn này, chúng tôi tha thiết mong liên Bộ Giáo dục - Đào tạo và Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc nghiên cứu, truy tầm, những tác phẩm vô giá về văn học Quốc Ngữ này, hiện còn lưu giữ ở thư viện Tòa thánh Vatican, nước Ý.
H.H.T
(SDB8/3-13)
MINH QUANG Trời tròn lưng bánh tét Đất vuông lòng bánh chưng Dân nghèo thương ngày Tết Gói đất trời rưng rưng...
NGUYỄN THỊ THÁITôi không đi trong mưa gió để mưu sinh, để mà kể chuyện. Ngày ngày tôi ngồi bên chiếc máy may, may bao chiếc áo cho người. Tôi chưa hề may, mà cũng không biết cách may một chiếc Yêng như thế nào.
Nhà thơ Hải Bằng tên thật là Vĩnh Tôn, sinh ngày 3 tháng 2 năm 1930, quê ở thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông mất ngày 7 tháng 7 năm 1998.
NGUYỄN VĂN HOACuốn sách: "Nhớ Phùng Quán" của Nhà xuất bản Trẻ, do Ngô Minh sưu tầm, tuyển chọn và biên soạn với nhiều tác giả phát hành vào quý IV năm 2003. Cuốn sách có 526 trang khổ 13x19cm. Bìa cứng, in 1000 cuốn. Rất nhiều ảnh đẹp của Nguyễn Đình Toán - nhà nhiếp ảnh chân dung nổi tiếng của Việt nam. Đơn vị liên doanh là Công ty Văn hoá Phương Nam.
ĐÀ LINHĐể có trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, trước đó quân đội Nhân dân Việt Nam đã có những trận đánh để đời mở ra những khả năng to lớn về thế và lực cho chúng ta. Trong đó Trận chiến trên đường (thuộc địa) số 4 - biên giới Cao Bắc Lạng 1950 là một trận chiến như vậy.
HOÀNG VĂN HÂNLướt qua 30 bài thơ của Ngô Đức Tiến trong “Giọng Nghệ”, hãy dừng lại ở những bài đề tài tình bạn. Với đặc điểm nhất quán, bạn của anh luôn gắn liền với những hoài niệm, với những địa chỉ cụ thể, về một khoảng thời gian xác định. Người bạn ấy hiện lên khi anh “nghĩ về trường” “Thăm trường cũ”, hoặc là lúc nhớ quá phải “Gửi bạn Trường Dùng” “ Nhớ bạn Thanh Hoá”. Bạn của anh gắn với tên sông, tên núi: sông Bùng, sông Rộ, Lạt, Truông Dong, Đồng Tháp.
FAN ANHTrên thế gian này tồn tại biết bao nhiêu báu vật, hoặc những huyền thoại về báu vật, thì cũng gần như hiện hữu bấy nhiêu nỗi đau và bi kịch của con người vốn dành cả cuộc đời để kiếm tìm, bảo vệ, chiếm đoạt hay đơn giản hơn, đặt niềm tin vào những báu vật ấy. Nhẫn thạch (Syngué sabour - Pierre de patience) của Atiq Rahimi trước tiên là một báu vật trong đời sống văn học đương đại thế giới, với giải thưởng Goncourt năm 2008, sau đó là một câu chuyện về một huyền thoại báu vật của những người theo thánh Allad.
KIM QUYÊNSinh năm 1953 tại Thừa Thiên (Huế), tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế năm 1976, sau đó về dạy học ở Khánh Hoà (Nha Trang) hơn 10 năm. Từ năm 1988 đến nay, nhà thơ xứ Huế này lại lưu lạc ở thành phố Hồ Chí Minh, tiếp tục làm thơ và viết báo. Chị là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hiện nay là biên tập viên Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật của Sở Thông tin Văn hoá thành phố Hồ Chí Minh.
VÕ QUANG YẾN Tôi yêu tiếng nước tôi Từ khi mới ra đời làm người Phạm Duy
PHẠM NGUYÊN TƯỜNGKhao khát, đinh ninh một vẻ đẹp trường tồn giữa "cuộc sống có nhiều hư ảo", Vú Đá, phải chăng đó chính là điều mà kẻ lãng du trắng tóc Nhất Lâm muốn gửi gắm qua tập thơ mới nhất của mình? Bài thơ nhỏ, nằm nép ở bìa sau, tưởng chỉ đùa chơi nhưng thực sự mang một thông điệp sâu xa: bất kỳ một khoảnh khắc tuyệt cảm nào của đời sống cũng có thể tan biến nếu mỗi người trong chúng ta không kịp nắm bắt và gìn giữ, để rồi "mai sau mang tiếng dại khờ", không biết sống. Cũng chính từ nhận thức đó, Nhất Lâm luôn là một người đi nhiều, viết nhiều và cảm nghiệm liên tục qua từng vùng đất, từng trang viết. Câu chữ của ông, vì thế, bao giờ cũng là những chuyển động nhiệt thành nhất của đời sống và của chính bản thân ông.
MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHTôi nghe rằng,Rạch ròi, đa biện, phân minh, khúc chiết... là ngôn ngữ khôn ngoan của lý trí nhị nguyên.Chan hoà, đa tình, niềm nỗi... là ngôn ngữ ướt át của trái tim mẫn cảm.Cô liêu, thuỷ mặc, bàng bạc mù sương, lấp ló trăng sao... là ngôn ngữ của non xanh tiểu ẩn.Quán trọ, chân cầu, khách trạm, phong trần lịch trải... là ngôn ngữ của lãng tử giang hồ.Điềm đạm, nhân văn, trung chính... là ngôn ngữ của đạo gia, hiền sĩ.
MAI VĂN HOANTập I hồi ký “Âm vang thời chưa xa” của nhà thơ Xuân Hoàng ra mắt bạn đọc vào năm 1995. Đã bao năm trôi qua “Âm vang thời chưa xa” vẫn còn âm vang trong tâm hồn tôi. Với tôi, anh Xuân Hoàng là người bạn vong niên. Tôi là một trong những người được anh trao đổi, trò chuyện, đọc cho nghe những chương anh tâm đắc khi anh đang viết tập hồi ký để đời này.
NGUYỄN KHẮC PHÊ giới thiệuNhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà phê bình Hoài Thanh (1909-2009)Chúng ta từng biết cố đô “Huế Đẹp và Thơ” một thời là nơi hội tụ các văn nhân, trong đó có những tên tuổi kiệt xuất của làng “Thơ Mới” Việt Nam như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên…; nhưng nhà phê bình Hoài Thanh lại đến với Huế trong một hoàn cảnh đặc biệt và có thể nói là rất tình cờ.
LÊ TRỌNG SÂM giới thiệuBà sinh ra và lớn lên ở Painpol và Saint-Malo, một đô thị cổ vùng Bretagne, miền đông bắc nước Pháp. Học trung cấp và tốt nghiệp cử nhân văn chương ở thành phố Nice, vùng xanh da trời miền nam nước Pháp. Là hội viên Hội nhà văn Pháp từ năm 1982, nay bà đã trở thành một trong số ít nhà văn Châu Âu đã tiếp thu và thâm nhập sâu sắc vào rất nhiều khía cạnh của văn hoá Việt Nam.
MAI VĂN HOAN giới thiệu Vĩnh Nguyên tên thật là Nguyễn Quang Vinh. Anh sinh năm 1942 (tuổi Nhâm Ngọ) ở Vĩnh Tuy, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Bố anh từng tu nghiệp ở Huế, ông vừa làm thầy trụ trì ở chùa vừa bốc thuốc chữa bệnh cho người nghèo. Thuở thiếu thời anh đã ảnh hưởng cái tính ngay thẳng và trung thực của ông cụ. Anh lại cầm tinh con ngựa nên suốt đời rong ruổi và “thẳng như ruột ngựa”.
LGT: Vài năm lại đây, sau độ lùi thời gian hơn 30 năm, giới nghiên cứu văn học cả nước đang xem xét, nhận thức, và đánh giá lại nền “Văn học miền Nam” (1954 - 1975) dưới chế độ cũ, như một bộ phận khăng khít của văn học Việt Nam nửa sau thế kỷ XX với các mặt hạn chế và thành tựu của nó về nghệ thuật và tính nhân bản. Văn học của một giai đoạn, một thời kỳ nếu có giá trị thẩm mỹ nhân văn nhất định sẽ tồn tại lâu hơn bối cảnh xã hội và thời đại mà nó phản ánh, gắn bó, sản sinh. Trên tinh thần đó, chúng tôi trân trọng giới thiệu bài viết vừa có tính chất hồi ức, vừa có tính chất nghiên cứu, một dạng của thể loại bút ký, hoặc tản văn về văn học của tác giả Nguyễn Đức Tùng, được gửi về từ Canada. Bài viết dưới đây đậm chất chủ quan trong cảm nghiệm văn chương; nó phô bày cảm nghĩ, trải nghiệm, hồi ức của người viết, nhưng chính những điều đó làm nên sự thu hút của các trang viết và cả một quá khứ văn học như sống động dưới sự thể hiện của chính người trong cuộc. Những nhận định, liên hệ, so sánh, đánh giá trong bài viết này phản ánh lăng kính rất riêng của tác giả, dưới một góc nhìn tinh tế, cởi mở, mang tính đối thoại của anh. Đăng tải bài viết này chúng tôi mong muốn góp phần đa dạng hóa, đa chiều hóa các cách tiếp cận về văn học miền Nam. Rất mong nhận được các ý kiến phản hồi của bạn đọc. TCSH
MAI VĂN HOAN giới thiệuNăm 55 tuổi, Hồng Nhu từng nhiều đêm trăn trở, băn khoăn lựa chọn việc trở về quê hay ở lại thành phố Vinh - nơi anh gắn bó trọn hai mươi lăm năm với bao kỷ niệm vui buồn. Và cuối cùng anh đã quyết tâm trở về dù đã lường hết mọi khó khăn đang chờ phía trước. Nếu không có cái quyết định táo bạo đó, anh vẫn là nhà văn của những thiên truyện ngắn Thuyền đi trong mưa ngâu, Gió thổi chéo mặt hồ... từng được nhiều người mến mộ nhưng có lẽ sẽ không có một nhà văn đầm phá, một nhà thơ “ngẫu hứng” như bây giờ.
LÊ HỒNG SÂMTìm trong nỗi nhớ là câu chuyện của một thiếu phụ ba mươi tám tuổi, nhìn lại hai mươi năm đời mình, bắt đầu từ một ngày hè những năm tám mươi thế kỷ trước, rời sân bay Nội Bài để sang Matxcơva du học, cho đến một chiều đông đầu thế kỷ này, cũng tại sân bay ấy, sau mấy tuần về thăm quê hương, cô cùng các con trở lại Pháp, nơi gia đình nhỏ của mình định cư.
NGUYỄN KHẮC PHÊ (Đọc “Cạn chén tình” - Tuyển tập truyện ngắn Mường Mán, NXB Trẻ, 2003)Với gần 40 năm cầm bút, với hơn hai chục tác phẩm văn xuôi, thơ và kịch bản phim, nhà văn Mường Mán là một tên tuổi đã quen thuộc với bạn đọc, nhất là bạn đọc trẻ. Có lẽ vì ấn tượng của một loạt truyện dài mà ngay từ tên sách (Lá tương tư, Một chút mưa thơm, Bâng khuâng như bướm, Tuần trăng mê hoặc, Khóc nữa đi sớm mai v...v...) khiến nhiều người gọi ông là nhà văn của tuổi học trò, trên trang sách của ông chỉ là những “Mùa thu tóc rối, Chiều vàng hoa cúc...”.
NGUYỄN VĂN HOATranh luận Văn Nghệ thế kỷ 20, do Nhà xuất bản lao động ấn hành. Nó có 2 tập: tập 1 có 1045 trang và tập 2 có 1195 trang, tổng cộng 2 tập có 2240 trang khổ 14,4 x 20,5cm. bìa cứng, bìa trang trí bằng tên các tờ báo, tạp chí có tư liệu tuyển trong bộ sách này.