HOÀNG THỤY ANH
Là nhà văn, bạn mang trong mình “căn bệnh viết”, gánh vác sứ mệnh kể chuyện. Nghiệp vận như thế, buộc bạn lao vào đời sống, tiệm cận đủ các góc độ, kể chuyện mình, chuyện người, chuyện thế cuộc.
Ảnh: internet
Bạn có trong tay căn cước tự do riêng biệt của miền sáng tạo, nhưng lựa chọn phương pháp nào để kích hoạt tính ẩn mật của ngôn ngữ, sức hấp dẫn của câu chuyện, vẫy gọi bạn đọc, luôn là bài toán khó, bởi sự “phì đại” của hiện thực bao giờ cũng đòi hỏi sự “phì đại” của kỹ thuật viết.
1. Hiệu ứng của sự “phì đại”
Sự tác động, chi phối của cuộc cách mạng 4.0, kinh tế, văn hóa, tôn giáo, sắc tộc, ô nhiễm môi trường, bệnh tật,… khiến đời sống xã hội nói chung và lối sống nói riêng đều bị biến dạng, phồn tạp, kéo theo đó là sự soán ngôi của các hệ giá trị mới, trong khi, bản thân các hệ giá trị mới chưa được kiểm chứng, còn nhiều hoài nghi, bất tín nhận thức. Bạn đừng lo ngại, hãy chủ động sống chung với nó, “yêu” nó, “chơi” với nó theo cách của bạn. Đó là lúc bạn thu về lợi thế cho mình. Văn chương vốn dĩ đã cho bạn quyền lực mở rộng hiện thực. Ở đây, sự trương nở của hiện thực lại càng cho bạn thêm nhiều chất liệu sáng tác, nguồn tư liệu, đề tài, cảm hứng để viết. Làn sóng toàn cầu hóa đã phá vỡ những rào cản, giới hạn, biến thế giới thành một sân chơi bình đẳng, sống động, nhưng nó cũng liên tục tạo ra những thách thức. Nó bắt buộc bạn luôn ở trong tâm thế dấn thân, hội nhập để bắt nhịp với thời đại và nỗ lực duy trì cảm hứng sáng tác, “cao tay ấn” về kỹ thuật, đổi mới lối viết, đa dạng đề tài. Vì thế, cuộc sống “phì đại” vừa là chất liệu tuyệt vời cho bạn nhưng cũng vừa là thước đo bản lĩnh, thái độ của bạn.
Nhà văn Milan Kundera nhấn mạnh trong Đời nhẹ khôn kham: “Khi hệ lụy càng nặng thì đời sống càng bị kéo gần đến mặt đất và chúng ta càng sống thật hơn”. Hệ lụy đời sống cho bạn cách sống thật. Sống thật mới viết thật. Những cảm xúc, cảm hứng xuất phát từ trái tim nóng hổi, tha thiết với người, rung động với đời mới đạt đến hiệu lực của nghệ thuật quyến rũ, nghệ thuật cấp cao. Vì chỉ có bạn mới biết ràng buộc mình trong cuộc đày ải vô cùng của trí tuệ, biết thiết tạo vân gỗ riêng, kích thích sự đọc, năng lực tưởng tượng của độc giả. Bạn đứng trong/ ngoài/ trên/ dưới hiện thực hay lùi sâu vào miền tâm linh, huyền ảo,… hẳn trong lòng bạn luôn tràn ngập niềm ham muốn tạo ra những không gian đối thoại tương tác đa chiều. Văn chương không phải là phương thuốc diệu kì để giải quyết hay chấm dứt những xô bồ, hỗn độn của thế giới, nhưng văn chương sẽ mải miết cuốn bạn vào hành trình kiếm tìm giá trị cuộc đời.
Tại sao Nguyễn Bình Phương được đánh giá là một trong số ít cây bút văn xuôi xuất sắc hiện nay và là nhà văn “ngồi riêng một cõi”? Đọc tiểu thuyết của nhà văn Nguyễn Bình Phương, bạn sẽ thấy ông thường viết trong tâm thế vừa kéo hệ lụy của đời sống sát mặt đất vừa xoay vần trong cõi đời lẩn quẩn bằng phong cách mới mẻ, độc đáo, vừa kì bí, huyền ảo vừa sinh động, hiện thực, khiến cuộc tranh biện giữa cái tốt với cái xấu, cái thiện với cái ác diễn ra liên tục, không có điểm dừng. Lối viết của Trần Nhã Thụy lại khác với Nguyễn Bình Phương. Anh hình dung cuộc đời như cái hộp diêm 6 mặt kín bưng, khi mở hộp diêm ra, ta lại có thêm mặt đáy, đó chính là bề sâu của bóng tối và của bản ngã. Nếu không nhìn thấy mặt đáy ấy, con người khó có thể nhận ra cái tôi nguyên gốc, một cái tôi không sao chép, không lặp lại chính mình. Nghệ thuật viết truyện của anh là giải mã cảm giác, phản tư bằng yếu tố ngạc nhiên. Các nhân vật trong truyện thường là “những kẻ câu đêm”, họ thả mình trong bóng tối của cuộc đời, rồi từ bóng tối mã hóa những khả thể đầy phi lý, tính phức hợp/đa trị của ánh sáng, nhận ra những hoen rỉ, những oái ăm đang ăn mòn chính họ và đời sống. Kiểu ứng xử văn chương của Nguyễn Bình Phương và Trần Nhã Thụy đã cho thấy ý thức phát huy cá tính sáng tạo của hai nhà văn trước hiện thực đa phương đa tầng, phi lí, xô bồ, chông chênh.
Hiện thực cuộc sống là chất liệu sáng tạo, là khởi nguồn của cảm hứng. Nhưng hiện thực khi băng qua trái tim của thi sĩ, hiện thực ấy đã bị hệ luỵ, quy chiếu, ảnh hưởng bởi những rung chấn phức tạp, bí ẩn của thế giới nội cảm của anh ta. Lúc này, thi sĩ không chỉ là người mở rộng hiện thực mà còn phủ lên hiện thực những mảng khối, sắc màu đa dạng. Trong thơ Nguyễn Quang Thiều, ông thường dùng hiện thực của tinh thần để soi chiếu hiện thực đời sống. Quán chiếu hiện thực của tinh thần trong nhiều thái cực như dòng hồi tưởng, ký ức ấu thơ, giấc mơ, cõi âm,... ông dựng nên “hiện thực thậm phồn”: một thế giới phức tạp, mâu thuẫn, xung đột gay gắt, một thế giới bao gồm cả thực và ảo. Đó là cách ông “chống lại sự giống người khác”, chống trả những oái ăm, tàn khốc của hiện thực và giúp con người vươn đến những điều tốt đẹp. Đúng như Nguyễn Việt Chiến đã nhận xét, ông là thi sĩ có “một giọng thơ lực lưỡng trên cánh đồng chữ nghĩa”.
Trong tất cả lĩnh vực, không lĩnh vực nào có thể thay thế sứ mệnh của văn chương. Thế giới có xoay vần, biến đổi ra sao thì văn chương vẫn mãi là nguồn sống, là giá trị tinh thần to lớn của nhân loại. Văn chương không thể toàn quyền hủy diệt cái xấu, cái ác, nhưng văn chương có quyền dự phần làm thanh sạch cuộc sống, giúp con người biết khước từ cái ác, cái xấu, sống với lòng bác ái, nhân văn. Do đó, việc bồi đắp sự tỉnh giác, niềm tin và lòng can đảm cho con người trước mặt nạ của đời sống, đó là trách nhiệm và sứ mệnh của bạn. Bạn viết về cái xấu, cái ác không có nghĩa văn bạn đen tối, mà đó là cách bạn dũng cảm phản ứng sự bất toàn của đời sống và truy tìm căn nguyên của nó. Chúng ta thường thấy sự hiện hữu của cái ác, nỗi khổ đau, chết chóc trong tác phẩm của nhà văn Diêm Liên Khoa, nhưng đọc các tác phẩm của ông, chúng ta hoàn toàn bị mê hoặc, bởi chúng ta như đang đối diện với ám ảnh bản thể, nỗi đau của con người và những vấn đề nhức nhối, khủng khiếp của nhân loại. Ông khước từ hiện thực bề nổi, chọn miền sâu thẳm của tâm linh, của tưởng tượng để phản tư/tỉnh hiện thực, tạo nên “hiện thực thậm phồn” và trưng ra những góc khuất, bóng tối của xã hội Trung Quốc đương đại. Tạ Duy Anh cũng là nhà văn viết nhiều viết hay về cái ác, cái xấu, thông qua cái ác, cái xấu, ông đụng chạm đến những vấn đề gai góc, nổi cộm của con người và xã hội để khai thác kiệt cùng bản chất của con người và vấn đề của xã hội, từ đó, thức tỉnh con người trước cõi thế nhá nhem, để “trở về Nguyên Bản, trở về là Một”.
Như vậy, viết trong bầu không khí toàn cầu hóa, trong sự bùng nổ, thống trị của khoa học công nghệ, trong sự đổi thay đầy phức tạp của thế giới, bạn phải đối diện, đối đầu để tìm ra mối liên đới giữa hiện thực và sáng tạo. Vì sự “phì đại”, đổi thay của hiện thực luôn luôn là cú hích để bạn chuyển biến, “phì đại” tư duy nghệ thuật, “phiêu lưu” với sự viết của chính mình.
2. Sức mạnh của sáng tạo
Đối diện với văn bản, nhà văn được nhìn ngắm bản ngã, đối thoại với cái tôi ở bên kia chiếc gương ở mức độ cao nhất, viết trong sự mở lòng, trào sôi và kết nối. Đối diện với tác phẩm, bạn đọc như được lắng nghe tiếng nói của chính mình, cảm nhận rõ hơn về tình yêu, thân phận và cuộc sống. Hiệu ứng liên kết này tự thân đã mặc định sứ mệnh của nhà văn: người mang vác cây-thánh-giá-tình-yêu, ươm mầm cho những điều tốt đẹp. Do vậy, bạn phải viết bằng cả trái tim, bằng cả cuộc đời của mình, kể cả viết trong sự khắc nghiệt, chật hẹp, vì hồi-chuông-lòng của bạn luôn là món quà cao quý, vô giá đối với người đọc. Sự hi sinh của bạn sẽ bù đắp bằng sự trồi lên của tác phẩm. “Căn bệnh viết” buộc bạn lao động nghiêm túc, lao tâm khổ tứ để có tác phẩm chất lượng, nhưng nó cũng lắm lúc đẩy bạn vào tình thế tréo ngoe, oái oăm, thử thách niềm đam mê và nhiệt huyết sáng tạo của bạn. Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, sau một năm xuất bản, mặc dù đoạt giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 1991, khen chê có cả và số lượng in hơn 5.000 bản, nhưng hầu như không có dư luận gì về cuốn tiểu thuyết này. Ở nước ngoài thì ngược lại, nóng rẫy, được dịch gần 20 thứ tiếng. Mãi đến đầu thế kỉ XXI, cụ thể là năm 2003, cuốn tiểu thuyết mới được tái bản và bắt đầu xôm trò. Cánh đồng bất tận của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư bị phê phán kiểm điểm. Sau đó, Cánh đồng bất tận được dịch sang nhiều thứ tiếng và đoạt nhiều giải thưởng ở nước ngoài. Hoặc như Vụ án của Franz Kafka, Đi tìm thời gian đã mất của Marcel Proust, Hồi ức về những cô gái điếm buồn của tôi của Gabriel Garcia Márquez, Lolita của Vladimir Nabokov, đều có số phận đặc biệt, lận đận. Tác gia Proust đã từng nói: “Rồi người đời sẽ đọc tôi. Nhân loại sẽ đọc tôi [...] Stendhal phải mất 100 năm mới được người đời biết đến. Marcel Proust chỉ cần 50 năm thôi”. Dẫn chứng trên cho thấy, những rào cản, áp lực không hề làm suy giảm bản lĩnh của nhà văn trên hành trình sáng tạo dằng dặc. Càng áp lực, sức sáng tạo càng mãnh liệt. Bạn hãy lấy chông gai làm liều thuốc hoàn thiện, trau chuốt ngòi bút, viết như con tằm rút ruột nhả tơ, vì chỉ có sự viết mới giúp bạn vượt lên mọi trở ngại, cho bạn những trang viết chất lượng, tình cảm đẹp và nghệ thuật sống. Trải qua nghiệt ngã thời gian, bạn sẽ nhận được bù đắp xứng đáng, tác phẩm của bạn được người đọc ghi nhận và tỏa sáng.
Nhà văn Wolfgang Kubin đã từng phát biểu, là một nhà văn chân chính, anh đừng bao giờ quan tâm đến thị trường. Dưới sự tác động của đời sống công nghiệp, văn chương trở thành một thứ hàng hóa. Nếu sáng tác vì cơm áo gạo tiền, ồ ạt chạy theo thị trường, hẳn ngòi bút của bạn sẽ bị thao túng, chẳng còn là chính mình, chẳng có tiếng nói, chính kiến. Những toan tính, so đo sẽ kiềm chế thăng hoa của cảm xúc và con đường đi của bạn. Và đó cũng là lúc bạn đã và đang dự phần trì níu tương lai của một nền văn học. Thị hiếu tức thời của công chúng, của thị trường không phải là tiền đề cho tác phẩm tinh hoa ra đời, ngược lại, nó mang đến một gương mặt khô cằn, hời hợt, oặt ẹo. Những tác phẩm tinh hoa ở bất kì hoàn cảnh, thời điểm nào cũng mãi là cái nền vững chắc, là cái lõi, là chất trụ của văn học. Trong sự mờ nhạt, thưa vắng tình cảm, khủng hoảng niềm tin, độc giả đọc văn học tinh hoa cảm giác như được chạm vào vi mạch của đời sống, được thấu suốt những bí ẩn của bản thể, từ đó, tự điều chỉnh và ý thức hơn về lòng bao dung, vị tha và nhân ái. Nên, bạn đừng bao giờ đặt mình trong tâm thế viết phải đạt đến “best seller”, viết phải đoạt danh hiệu hay giải thưởng gì đó. Đừng bị những ý nghĩ ấy mê hoặc, thâu tóm tâm hồn bạn. Bạn hãy viết thật nhất, sâu nhất, lắng đọng nhất bằng chính sự vang động tự do, thoải mái trong tâm hồn, bằng sự đầu tư công phu của trí tuệ, kinh nghiệm. Sự tự kiêu trước những ma mị của vật chất, danh tiếng đã thể hiện bản lĩnh, chiến lược/thuật tạo dựng và vun đắp tính chuyên nghiệp của bạn. Nếu bạn được giải thưởng, vinh danh thì hãy lấy đó làm động lực để tiếp tục viết, chứ đừng “tự ngắm”, tự mãn, bởi văn chương cũng như dòng sông chảy mãi theo năm tháng.
Viết là hành trình. Nhất là trong thời kì bạn có nhiều cơ hội giao lưu, học hỏi, thẩm thấu giá trị của nhân loại, đòi hỏi bạn kiên định, cẩn trọng với ngòi bút của mình, làm sao để con đường sáng tạo không bị tụt hậu, đứt đoạn. Vì văn chương vốn dĩ là cuộc chơi đầy khó khăn, thử thách và không bao giờ có đích cuối cùng. Tác phẩm để đời không thuộc về bạn, nếu bạn không tự khắt khe, ý thức về sự “tự vượt” trong tư duy sáng tạo. Và thứ nữa, nếu bạn “ăn mày dĩ vãng”, nhai lại chính mình, thỏa mãn với những gì mà bạn đang có, nghĩa là bạn đang tự đào mồ chôn mình. Bạn hãy bước ra khỏi vùng an toàn, bước ra những giới hạn của bản thân, chấp nhận một hoặc nhiều cú trật bánh để chuyển hướng sáng tạo. Bởi, “phá hủy là sáng tạo” (Inrasara). Phá hủy sẽ cho bạn cái nhìn đa diện và sự tươi mới trong phong cách diễn ngôn. Mọi thử thách luôn được đền đáp. Mỗi lần bạn viết lại hoặc chối từ, vứt bỏ là mỗi lần bạn lớn lên. Các nhà văn lớn như Honoré de Balzac, V.Hugo, Gustave Flaubert, James Joyce, Franz Kafka,… đều nổi tiếng với sự tỉ mỉ, chỉn chu, thận trọng với những gì họ viết ra. Sự nghiêm khắc với sáng tạo là ý thức và trách nhiệm của bất kì người viết nào. Sức mạnh của sự chối từ, đả phá cái quen thuộc, lặp lại sáo mòn sẽ mang đến cho bạn những trạng thái hân hoan, vui sướng. Khoái cảm trải nghiệm cái mới từ đó tiếp tục nảy sinh những ngả hướng sáng tạo, dựng nên miền đa dạng của cái tôi, tính đa thanh của văn bản. Khó tính với ngòi bút của mình là con đường dẫn đến thành công.
Trước nhịp sống công nghiệp, sự cạnh tranh khốc liệt của nền kinh tế thị trường, trái tim nhạy cảm của người nghệ sĩ trong bạn sẽ tìm đến miền dịu dàng bí ẩn, thanh tịnh của tâm hồn, thoát khỏi những ma lực bên ngoài đang không ngừng xâm nhập, ràng buộc bạn. Lúc này bạn có nhiều hơn một nỗi cô đơn: nỗi cô đơn trước cuộc sống bất toàn và nỗi cô đơn trước trang viết. Nỗi cô đơn trước cuộc sống bất toàn dồn nén, vun đắp ý tưởng cho bạn, và bạn giải tỏa nó bằng sự viết. Còn nỗi cô đơn trước trang viết, đó là thứ men mà người bình thường không có được. Cho nên, cuộc sống càng “phì đại” càng giúp bạn lùi sâu vào bên trong để suy ngẫm, chiêm nghiệm và thúc đẩy sáng tạo. Tuy nhiên, bạn đã “đủ cô đơn cho sáng tạo chưa?” (Inrasara). Hay nói cách khác, nỗi cô đơn của bạn đã “đủ lớn, đủ mạnh” chưa? Nỗi cô đơn của nhà văn được hiểu là nguồn năng lượng tích cực, biểu hiện cao nhất của tâm trí tĩnh lặng, là nỗi cô đơn nở hoa, kết trái. Bạn phải biết trân trọng, chăm chút nỗi cô đơn của chính mình. Nếu bạn không có nó, bạn cần tạo ra nỗi cô đơn, chứ đừng ngồi chờ nỗi cô đơn đến. Marguerite Duras đã khẳng định: “Nỗi cô đơn của người viết là nỗi cô đơn mà không có nó sẽ không có tác phẩm…”*. Chính bà đã nhiều lần tự trói buộc, giam cầm trong ngôi nhà, ngắt mọi kết nối với bên ngoài và kể cả ngắt tiếng nói của mình để được viết. Những kiềm tỏa, áp đặt của bà trở nên có ý nghĩa: đổi sự mất tự do bên ngoài để có được sự tự do bên trong tâm hồn, đổi sự náo động bên ngoài để có được sự nổi loạn bên trong. Bạn chăm chỉ lao động, “nuôi” nỗi cô đơn, tạo những cuộc phiêu lưu trong mình, là bạn đang chăm sóc nguồn cảm hứng và tái tạo sự viết. Nói gì thì nói, muốn đi đường dài, bạn phải năng động, sáng tạo, bứt phá, sống mái với con chữ và kích hoạt tính “dậy thì” vĩnh hằng của cái tôi và không ngừng “quấy” nó, “vọc” nó. Bởi, hành trình cô đơn của nhà văn chính là hành trình thúc đẩy sự viết và sáng tạo.
Viết trong những thay đổi của thế giới nghĩa là bạn đang làm đẹp giá trị chính mình, không ngừng vươn đến giá trị văn hóa.
H.T.A
(TCSH407/01-2023)
------------------------
* Marguerite Duras, Viết (Trần Văn Công dịch), Nxb. Văn học & Nhã Nam, 2010, tr.13.
ĐỖ LAI THÚY Văn là người (Buffon)Cuốn sách thứ hai của phê bình văn học Việt Nam, sau Phê bình và cảo luận (1933) của Thiếu Sơn, thuộc về Trần Thanh Mại (1911 - 1965): Trông dòng sông Vị (1936). Và, mặc dù đứng thứ hai, nhưng cuốn sách lại mở đầu cho một phương pháp phê bình văn học mới: phê bình tiểu sử học.
ĐẶNG TIẾNThuật ngữ Thi Học dùng ở đây để biểu đạt những kiến thức, suy nghĩ về Thơ, qua nhiều dạng thức và trong quá trình của nó. Chữ Pháp là Poétique, hiểu theo nghĩa hẹp và cổ điển, áp dụng chủ yếu vào văn vần. Dùng theo nghĩa rộng và hiện đại, theo quan điểm của Valéry, được Jakobson phát triển về sau, từ Poétique được dịch là Thi Pháp, chỉ chức năng thẩm mỹ của ngôn từ, và nới rộng ra những hệ thống ký hiệu khác, là lý thuyết về tính nghệ thuật nói chung. Thi Học, giới hạn trong phạm vi thi ca, là một bộ phận nhỏ của Thi Pháp.
TRẦN CAO SƠNTriều Nguyễn tồn tại gần 150 năm, kể từ khi Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế với niên hiệu Gia Long - năm1802, tạo dựng một đế chế tập quyền trên toàn bộ lãnh thổ mà trước đó chưa hề có. Trải qua một thế kỷ rưỡi tồn tại, vinh hoa và tủi nhục, Triều đại Nguyễn là một thực thể cấu thành trong lịch sử Đại Việt. Những cái do triều đình Nhà Nguyễn mang lại cũng rất có ý nghĩa, đó là chấm dứt cuộc nội chiến, tranh giành quyền lực, xương trắng máu đào liên miên mấy thế kỷ, kiến tạo bộ máy quản lý hành chính trung ương tập quyền thống nhất mà Quang Trung - Nguyễn Huệ đã dày công vun đắp gây dựng trước đó. Dân tộc đã phải trải qua những năm tháng bi hùng với nhiều điều nuối tiếc, đáng bàn đáng nói ngay ở chính hôm nay. Song lịch sử là lịch sử, đó là một hiện thực khách quan.
TRẦN HUYỀN SÂMNếu nghệ thuật là một sự ngạc nhiên thì chính tiểu thuyết Thập giá giữa rừng sâu là sự minh định rõ nhất cho điều này. Tôi bàng hoàng nhận ra rằng, luận thuyết: con người cao quý và có tình hơn động vật đã không hoàn toàn đúng như lâu nay chúng ta vẫn tin tưởng một cách hồn nhiên. Con người có nguy cơ sa xuống hàng thú vật, thậm chí không bằng thú vật, nếu không ý thức được giá trị đích thực của Con Người với cái tên viết hoa của nó. Phải chăng, đây chính là lời nói tối hậu với con người, về con người của tác phẩm này?
HOÀNG NGỌC HIẾN ...Từ những nguồn khác nhau: đạo đức học, mỹ học, triết học xã hội-chính trị, triết học xã hội-văn hoá... cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình văn học là nỗ lực vượt lên trên những thành kiến và định kiến hẹp hòi trong sinh hoạt cũng như trong học thuật. Những thành kiến, định kiến này có khi lại được xem như những điều hiển nhiên. Mà đã là “hiển nhiên” thì khỏi phải bàn. Đây cũng là một thói quen khá phổ biến trong nhân loại. Cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình có khi bắt nguồn từ suy nghĩ về chính những điều “hiển nhiên” như vậy...
THÁI DOÃN HIỂUVào đời, Lưu Quang Vũ bắt đầu làm thơ, viết truyện, rồi dừng lại nơi kịch. Ở thể loại nào, tài năng của Vũ cũng in dấu ấn đậm đà làm cho bạn đọc cả nước đi từ ngạc nhiên đến sửng sốt. Thơ Lưu Quang Vũ một thời được lớp trẻ say sưa chép và thuộc. Kịch Lưu Quang Vũ một thời gần như thống trị sân khấu cả nước.
TRẦN THANH ĐẠMTrong lịch sử nước ta cũng như nhiều nước khác, thời cổ - trung đại cũng như thời cận - hiện đại, mỗi khi một quốc gia, dân tộc bị xâm lược và chinh phục bởi các thế lực bên ngoài thì trong nước bao giờ cũng phát sinh hai lực lượng: một lực lượng tìm cách kháng cự lại nạn ngoại xâm và một lực lượng khác đứng ra hợp tác với kẻ ngoại xâm.
ĐỖ LAI THUÝLTS: Trong số tháng 5-2003, Sông Hương đã dành một số trang để anh em văn nghệ sĩ Huế "tưởng niệm" nhà văn Nguyễn Đình Thi vừa qua đời. Song, đấy chỉ mới là việc nghĩa.Là một cây đại thụ của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam, Nguyễn Đình Thi toả bóng trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật. Bằng chứng qua các bài viết về ông sau đây, Sông Hương xin trân trọng dành thêm trang để giới thiệu sâu hơn, có hệ thống hơn về Nguyễn Đình Thi cùng bạn đọc.
ĐẶNG TIẾN…Nguyễn Đình Thi quê quán Hà Nội, nhưng sinh tại Luang Prabang, Lào, ngày 20/12/1924. Từ 1931 theo gia đình về nước, học tại Hải Phòng, Hà Nội. Năm 1941 tham gia Thanh Niên cưú quốc, 1943 tham gia Văn hóa cứu quốc, bị Pháp bắt nhiều lần. Năm 1945, tham dự Quốc Dân Đại hội Tân Trào, vào Ủy ban Giải phóng Dân tộc. Năm 1946, là đại biểu Quốc hội trẻ nhất, làm Ủy viên Thường trực Quốc hội, khóa I…
HỒ THẾ HÀ Hai mươi lăm năm thơ Huế (1975 - 2000) là một chặng đường không dài, nhưng nó diễn ra trong một bối cảnh lịch sử - thi ca đầy phức tạp. Cuộc sống hàng ngày đặt ra cho thể loại những yêu cầu mới, mà thơ ca phải làm tròn sứ mệnh cao cả với tư cách là một hoạt động nhận thức nhạy bén nhất. Những khó khăn là chuyện đương nhiên, nhưng cũng phải thấy rằng bí quyết sinh tồn của chính thể loại cũng không chịu bó tay. Hơn nữa, đã đặt ra yêu cầu thì chính cuộc sống cũng đã chuẩn bị những tiền đề để thực hiện. Nếu không, mối quan hệ này bị phá vỡ.
JAMES REEVESGần như điều mà tôi hoặc bất kỳ nhà văn nào khác có thể nói về một bài thơ đều giống nhau khi nêu ra ấn tượng về điều gì đấy được in trên giấy. Tôi muốn nhấn mạnh rằng đây không phải là toàn bộ sự thật. Việc in trên giấy thực ra là một bài thơ gián tiếp. Sẽ dễ dàng thấy điều này nếu chúng ta đang nói về hội hoạ hoặc điêu khắc.
NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP...Nguyễn Huy Thiệp không phải là người duy nhất đổi mới phương thức trần thuật. Trước ông đã có Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng... tích cực mở đường. Nhưng phải đến Nguyễn Huy Thiệp thì sự khai phóng về tư tưởng nghệ thuật mới được thể hiện một cách đậm nét. Tất cả được Nguyễn Huy Thiệp kiến tạo qua một trò chơi đầy tính bất ngờ. Giống như người nghệ sĩ ba lê tài năng, Nguyễn Huy Thiệp trình diễn một thế giới đa sắc trên đầu những đầu mũi ngón chân. Những ngón chân ấy bám trụ vào hiện thực một cách tinh diệu, xoay chuyển một cách nhịp nhàng với những vòng quay, những vũ điệu ngôn từ...
PHAN NGỌC THUTrong nền văn học Việt Nam thế kỷ XX, Xuân Diệu (1916-1985) là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất, đồng thời cũng là nhà phê bình văn học kiệt xuất. Từ những bài tranh luận văn học sôi nổi thời Thơ Mới (1932-1945) đến Tiếng thơ (1951), Những bước đường tư tưởng của tôi (1958); từ Phê bình giới thiệu thơ (1960) đến Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ (1961), Dao có mài mới sắc (1963), Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy (1978), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập I (1981), tập II (1982) và Công việc làm thơ (1984)... "chỉ tính riêng các tác phẩm lý luận phê bình, đã có thể gọi Xuân Diệu là một đại gia"(1)
BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng đáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v..v...
HÀ KHÁNH CHINgày 20 - 3 - 2003, siêu cường lớn nhất mọi thời đại là đế quốc Hoa Kỳ đã mở đầu cuộc chiến tranh kỳ quái nhất trong lịch sử bằng cách tấn công Iraq sau khi đã bắt quốc gia này phải tự phá huỷ vũ khí tự vệ của chính họ. Đó là bài học chưa hề thấy về chút hy vọng cuối cùng mà lương tri nhân loại có thể đòi hỏi. Để có thể hiểu rõ hơn những gì đang xảy ra hôm nay - có lẽ cũng rất cần ôn lại một trong những vấn đề lớn nhất mà loài người có thể nghĩ tới: cuộc chiến tranh Việt Nam đã kết thúc cách đây gần 30 năm.
HOÀNG ĐĂNG KHOA Văn học Việt từ sau 1975, nhất là từ thời kỳ đổi mới, là một quá trình văn học rất phong phú, đa dạng và không ít phức tạp, lại còn đang tiếp diễn. Cuốn sách Văn học Việt Nam sau 1975 - Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy ra đời đáp ứng nhu cầu mang tính thời sự: nhu cầu nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, toàn diện về tiến trình văn học ba mươi năm qua, chuẩn bị cho sự ra đời của những công trình văn học sử và những chuyên khảo về giai đoạn văn học này.
NGUYỄN QUANG HÀTrong đời có những bài thơ người ta quên, mà chỉ nhớ một câu nằm lòng. Bởi đó là những câu thơ thực sự, những câu thơ thi sĩ. Từ xưa đến nay, đã có rất nhiều định nghĩa về thơ: Thơ là tiếng hát của trái tim; Thơ là hạt muối kết tinh của tình cảm; Thơ là phút giây rung động của tâm hồn... Nói chung, những định nghĩa ấy cho ta hiểu rằng ở đâu có được sự rung động của trái tim thì ở đó có thơ.
ĐỖ LAI THUÝPhê bình văn học Việt Nam, sau sự khởi nguồn của Thiếu Sơn với Phê bình và Cảo luận (1933) chia thành hai ngả. Một xuất phát từ Phê bình để trở thành lối phê bình chủ quan ấn tượng với Hoài Thanh và Thi nhân Việt Nam (1942). Lối kia bắt nguồn từ Cảo luận tạo nên phê bình khách quan khoa học với Vũ Ngọc Phan của Nhà văn hiện đại (1942), Trần Thanh Mai của Hàn Mặc Tử (1941), Trương Tửu của Nguyễn Du và Truyện Kiều (1942), Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ (1945). Sự phân chia này, dĩ nhiên, không phải là hành chính, mà là khoa học, tức sự phân giới dựa trên những yếu tố chủ đạo, nên không phải là không thể vượt biên. Bởi, mọi biên giới đều mơ hồ hơn ta tưởng, nhất là ở khoa học văn chương.
LTS: Marcel Reich-Ranicki, sinh năm 1920, người ở Đức được mệnh danh là "Giáo hoàng văn học", là nhà phê bình văn học đương đại quan trọng nhất của CHLB Đức. "Một lời biện hộ cho thơ" là bài thuyết trình đọc vào ngày 30.11.1980 nhân dịp ra mắt Tập 5 của "Tuyển thơ Frankfurt" trong khuôn khổ chuyên mục thơ của nhật báo "Frankfurter Allgemeine Zeitung" (FAZ) mà tác giả là chủ biên phần văn học từ 1973 đến 1988.Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài "Một lời biện hộ cho thơ" của ông sau đây do dịch giả Trương Hồng Quang thực hiện.
TRẦN HUYỀN SÂMGeorge Sand (1804-1876) là một gương mặt độc đáo trên văn đàn Pháp thế kỷ XIX. Cùng thời với những cây bút nổi tiếng như: A.Lamartine, V.Hugo, A.Vigny, A.Musset... nữ sĩ vẫn tạo cho mình một tầm vóc riêng không chìm khuất. George Sand bước vào thế giới nghệ thuật bằng một thái độ tự tin và một khát vọng sáng tạo mãnh liệt. Với hơn hai mươi cuốn tiểu thuyết đồ sộ, G.Sand đã trở thành một tên tuổi lừng danh ngay từ đương thời. Dĩ nhiên, bà lừng danh còn bởi nhiều mối tình bất tử, trong đó có nhà thơ Pháp nổi tiếng A.Musset và nhạc sĩ thiên tài Chopin người Ba Lan.