Phía sau khuynh hướng tiểu thuyết nội tâm

10:13 09/01/2009
NGUYỄN ĐỨC TÙNGPhân tâm học ra đời trong ánh bình minh của thế kỷ hai mươi. Ảnh hưởng của nó đối với sáng tạo và phê bình văn học khởi đi từ cuốn “Diễn dịch các giấc mơ” của Freud và được nối dài sau đó bởi nhiều công trình của các tác giả khác nhau.

Freud cũng trực tiếp viết về văn học, như trong các tác phẩm “Đóng góp cho tâm lý học tình yêu”, “Mối quan hệ giữa nhà thơ và giấc mơ”… Các tác phẩm này có thể chia làm hai loại là các bài viết về nghệ thuật, văn học nói chung và các công trình đặt nền tảng cho phương pháp phê bình phân tâm học (psycho-analytic literary criticism). Đặc biệt thú vị là Freud cũng bàn nhiều đến Dostoyevsky, nhà văn Nga lỗi lạc với các tác phẩm thơ mộng và bí hiểm của ông.
Tuy nhiên ảnh hưởng của phân tâm học đối với văn học về căn bản là từ các quan điểm của nó đối với tâm lý con người. Freud tin rằng các quá trình tâm lý mang tính vô thức sau đây chi phối các hoạt động tinh thần, đặc biệt là đối với sáng tạo của tác giả và hành vi ứng xử của nhân vật. Xin điểm qua một số cơ chế tự vệ (defense mechanism).

- Chối không nhận (denial): Điều gì không thích hợp thì không được cảm nhận. Điều gì không được cảm nhận thì không hiện hữu trên đời. Một người mẹ nuông chiều đứa con duy nhất của mình có thể hoàn toàn tin rằng con mình vô tội ngay cả khi có những bằng chứng ngược lại.
- Quên vô thức (repression): Được Freud cho là quá trình vô thức phổ biến nhất trong các quá trình tâm lý. Đây là sự quên lãng hoàn toàn không có chủ ý. Những kỉ niệm âm tính đối với một người có thể bị quên đi mau chóng vì chúng không mang lại những giá trị tích cực. Ngược lại, nếu người đó cho rằng chúng là những bài học cho tương lai thì họ sẽ ghi nhớ kĩ.
- Phản ứng ngược lại (reaction formation): Một nhân vật nữ thù ghét đàn ông vì những kinh nghiệm trong thời thơ ấu, có thể trở thành một người yêu mến cuồng nhiệt những người phụ nữ khác, hoặc là trẻ con, hoặc là súc vật.

- Tự biện hộ (rationalization): Cơ chế vô thức phổ biến, nhưng thường gặp hơn trong một số xã hội cổ truyền hoặc thiếu tự do. Chẳng hạn khi chứng kiến những cảnh bất công, người trí thức thường phân vân giữa hai lựa chọn: hoặc lên tiếng một cách dũng cảm để bảo vệ những nạn nhân bị áp bức, hoặc tìm cách thỏa hiệp để mưu cầu những lợi ích cho bản thân, gia đình hay an toàn cá nhân. Nhưng người trí thức, theo định nghĩa, là kẻ có những hiểu biết đặc biệt hơn người bình thường: vì vậy đến lượt chúng, những hiểu biết này trở thành sức ép về tâm lý. Anh ta buộc phải tìm cách giải thích sự vật theo khuynh hướng vừa có lợi cho mình vừa có lợi cho… lương tâm. Và anh ta tin vào sự giải thích của mình một cách thành thật, vì đó là quá trình vô thức vượt khỏi sự kiểm soát chủ ý.
- Tự đồng hoá mình với người khác (identification): Một trong những hành vi quan trọng của con người là lấy người khác làm mẫu mực. Những người trẻ tuổi hâm mộ các ngôi sao màn bạc, các anh hùng trong truyện kiếm hiệp, những nhân vật chính trong các tiểu thuyết nổi tiếng.

Phân tâm học để lại dấu ấn mạnh mẽ đối với các công trình nghiên cứu phê bình và sáng tác trong thế kỷ hai mươi. Có lẽ tiểu thuyết chịu ảnh hưởng nhiều nhất, ít nhất là ở phương Tây.
Mười ba năm sau tác phẩm “Diễn dịch các giấc mơ” của Freud, ở nước Pháp ra đời bộ tiểu thuyết lừng danh “Đi tìm thời gian đã mất” của Marcel Proust (1913). Gần như cùng lúc hoặc sau đó khoảng một năm, bên kia eo biển, James Joyce hoàn thành tiểu thuyết “Chân dung chàng nghệ sỹ trẻ tuổi”. Trong khoảng thời gian của hai cuốn sách này là “Hành Hương” của Dorothy Miller Richardson, một tác phẩm độc đáo của nhà văn nữ người Anh có xu hướng nữ quyền.

Tiểu thuyết của Proust, Richardson , Joyce về sau được mệnh danh là các tiểu thuyết độc thoại, tiểu thuyết nội tâm, hay là tiểu thuyết dòng ý thức.
Điều ngạc nhiên thú vị là ba nhà tiểu thuyết nói trên không biết đến nhau, không đọc nhau, và họ viết bằng những phong cách hoàn toàn khác biệt. Sự trùng hợp lịch sử này có thể được giải thích như là kết quả của sự phát triển đến mức cao nhất của nền tiểu thuyết lấy hiện thực xã hội, tức là hiện thực bên ngoài, làm trung tâm và, như càng ngày càng được chứng tỏ, dưới tác động của phê bình phân tâm học. Xuyên suốt thế kỷ hai mươi, khuynh hướng này như một dòng sông càng chảy càng nhận vào nó nước của những con sông khác. Đọc các nhà văn đương đại như Coetze hay Pamuk, giải Nobel, ta thấy được dấu ấn rất rõ của khuynh hướng tiểu thuyết nội tâm.

Tiểu thuyết nội tâm có những đặc điểm sau. Chúng có tính tự truyện, kể lại những điều dường như có thật xảy ra trong cuộc đời của tác giả, có tính tiểu sử. Trong cuốn tiểu thuyết “Đi tìm thời gian đã mất”, tác giả kể lại những chi tiết của cuộc sống hàng ngày trong một gia đình trưởng giả ở thôn quê.
Về mặt ngôn ngữ, tiểu thuyết nội tâm sử dụng nhiều các thủ pháp nghệ thuật của thơ ca. Đặc điểm thứ ba là sự phân tích sâu xa về tâm lý của nhân vật. Tác giả có nhu cầu biểu hiện những suy nghĩ và cảm xúc thầm kín, thám hiểm cõi vô thức sâu thẳm mà trước đó không có tiểu thuyết gia nào khai phá. Đặc điểm thứ tư là cấu trúc không sắp xếp theo trật tự thường gặp, chúng tản mạn, rời rạc, cố tình chống lại một tuyến tính chặt chẽ. Đặc điểm này chịu ảnh hưởng của lý thuyết phân tâm học đối với các quá trình vô thức mà tôi vừa đề cập đến ở trên.

Đọc một chương của tiểu thuyết cổ điển, ta có thể thấy tác giả miêu tả cẩn thận các chi tiết như khu vườn, ngôi nhà, đồ đạc, các nhân vật đi đi lại lại, mặt mũi, giọng điệu ra sao. Đọc James Joyce hay Coetze, ta chỉ biết họ suy nghĩ và cảm xúc thế nào chứ không biết mặt mũi họ thế nào, đẹp xấu ra sao.
Bằng cách tự giam mình giữa bốn bức tường ngăn cách với thế giới bên ngoài, trong những ngày đau yếu bệnh tật, Marcel Proust đã có khả năng hồi tưởng lại một cách sâu sắc mãnh liệt cuộc đời trong quá khứ. Quá khứ đối với ông đẹp đẽ và thanh bình, đã trở thành một phần của hiện tại.
Nếu Proust đi tìm quá khứ thì James Joyce lại sống trong hiện tại, đi tìm những giây phút sung sướng mà ông gọi là sự khoái cảm. Thế giới của Joyce đầy âm thanh có lẽ vì ông bị mù từ thuở nhỏ. Trong ba tiểu thuyết gia nhắc ở trên, James Joyce sử dụng bút pháp thơ mộng nhất. Một mặt giọng văn của ông lại đậm chất hiện tại. Đó là những quan sát trực tiếp đối với đời sống, để lộ rất ít các yếu tố của cốt truyện. Chân dung của chàng nghệ sĩ trẻ chính là chân dung của đời sống nội tâm, dệt bằng cảm nhận và hoài bão, những ý tưởng và những ước mơ. Theo tôi đó là cuốn sách dễ đọc nhất của ông mà các nhà văn Việt người nào cũng nên đọc.

Các tiểu thuyết cổ điển không phải là không ghi lại tâm trạng chủ quan, nhưng ở đó các tâm trạng chỉ được ghi nhận mà không phát lộ quyền năng của nó như một động lực chính. Nếu nhà tiểu thuyết cổ điển tạo ra một ảo giác rằng chúng ta đang đứng trong một ngôi nhà có thật, thì nhà tiểu thuyết đương đại cũng có khả năng mang lại ảo tưởng là chúng ta đang bước đi trên sàn nhà tâm hồn của một nhân vật.
Tôi mạnh dạn cho rằng lý thuyết phân tâm học cũng có ảnh hưởng đến phong trào thơ tượng trưng. Bài thơ tượng trưng có thể ví như một thứ độc thoại nội tâm, một thứ khí quyển tâm trạng (atmosphere of mind) của nhân vật hay của tác giả.
Người ta thường nhắc đến một đặc tính của kịch Bertolt Brecht, trong đó khán giả cảm thấy mình tham dự vào vở kịch. Mặc dù không có một bằng chứng rõ rệt nào, tôi tin là về phương diện này, nhà viết kịch tài ba cũng phần nào chia sẻ, thậm chí chịu ảnh hưởng, một số quan điểm của Freud: độc giả được mời gọi tham gia tích cực vào cuộc phiêu lưu của nhân vật. Anh ta trở thành một phần của cuốn tiểu thuyết hay vở kịch của đời sống đang xảy ra trước mắt.

Tôi muốn nói thêm: các lý thuyết tâm lý học khác, không phải là phân tâm học, cũng tạo nhiều ảnh hưởng lên kỹ thuật tiểu thuyết. Chủ nghĩa hành vi, Gestalt, tâm lý thần kinh học, khía cạnh tâm lý của hiện tượng học, y học tâm thần… rọi nhiều ánh sáng lên các trang viết của các nhà văn.
Sự thành công của phân tâm học trong việc giải thích các vấn đề sáng tạo và đưa ra những gợi ý hấp dẫn đối với các nhà văn khi xây dựng nhân vật và cốt truyện không che giấu được các khuyết điểm của nó như một phương pháp khoa học. Phân tâm học cần từ bỏ bóng ma của mặc cảm OEdipus, các lý thuyết có tính quả quyết một cách quá đáng về căn bệnh thần kinh của nghệ sỹ, sự diễn dịch các giấc mơ có phần nhảm nhí, và di chuyển trọng tâm của nó về hướng giải thích làm thế nào để một công trình nghệ thuật, một tác phẩm văn học, một bài thơ hay một cuốn tiểu thuyết, đã làm người đọc rung động sâu xa, bất kể anh ta hay chị ta là một người bình thường hay một người bị bệnh hysteria. Và làm thế nào để lập lại một điều tốt đẹp ở một nơi khác và vào một thời điểm khác. 
N.Đ.T

(nguồn: TCSH số 238 - 12 - 2008)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN NHẬT THƯTrong tiến trình nghệ thuật nhân loại, bên cạnh một thế giới hết sức “quan phương”, “hoàn kết” bao giờ cũng là một “thế giới lộn trái” đầy mê hoặc.

  • NGUYỄN XỚNXét trên quy mô toàn cầu, vào những năm cuối của thế kỷ XX, trước sự phát triển phi mã của công nghệ và ý thức máy tính, văn học đã biểu hiện nhiều vấn đề rất đáng quan tâm. Thực tế này được mang vào thế kỷ mới một cách dễ dàng, không hề gặp một sự kiểm soát nào.

  • BÙI MINH ĐỨCLGT: Công trình khảo cứu dưới đây, phần lớn đã được công bố trong Hội thảo khoa học “Tây Sơn - Thuận Hóa và Anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ - Quang Trung”. Một số báo, tạp chí đã lược trích đăng một phần bài viết. Mới đây, tác giả-bác sỹ Bùi Minh Đức (Hội viên Hội Tai Mũi Họng và Đầu Cổ Hoa Kỳ (Fellow), Hội viên Hội Mũi Học Hoa Kỳ (Fellow), Hội viên Hội Tai Mũi Họng và Đầu Cổ Đức Quốc (FachArzt HNO), nguyên Chủ nhiệm Bộ Môn Tai Mũi Họng, Đại học Y Khoa Huế trước 1975) đã gửi cho SÔNG HƯƠNG công trình khảo cứu này (có sửa chữa và bổ sung) để độc giả tạp chí có đầy đủ tư liệu. Trân trọng những lý giải khoa học hết sức mới mẻ của tác giả, SÔNG HƯƠNG xin giới thiệu toàn văn công trình này.

  • BỬU NAM Gặp Trần Đình Sử trong một hội thảo lớn toàn quốc, hội thảo "Tự sự học" do anh đồng khởi xướng và đồng tổ chức, tôi xin anh một cuộc trò chuyện về tình hình lý luận và phê bình văn học hiện nay. Anh vui vẻ gật đầu và nói: "Gì thì gì không biết, chứ với Tạp chí Sông Hương, tôi không thể khước từ. Trước hết, đây là một tạp chí văn học đứng đắn, có sắc thái riêng, vả lại còn là tình cố hương, bởi dù gì thì gì tôi vẫn là người con của xứ Huế cố đô."

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO(Nhân đọc 2 bài viết của Nguyễn Thanh Sơn và Nguyễn Hòa)*

  • PHẠM PHÚ PHONGNguyễn Huy Thiệp là một trong những hiện tương văn học hiếm hoi. Ngay từ những truyện ngắn đầu tay như Huyền thoại phố phường, Muối của rừng, Tướng về hưu... tên tuổi của anh đã nổi bật trong và ngoài nước.

  • PHONG LÊ(Nhìn từ bình diện ngôn ngữ)Dân tộc là một phạm trù lịch sử. Văn học dân tộc do vậy cũng là một phạm trù lịch sử, hình thành và phát triển theo lịch sử.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN“…Tất cả những sự cách tân này cần thiết cho sau đó một chủ nghĩa cổ điển mới có thể xuất hiện…”            Paul Valéry

  • TRẦN HUYỀN SÂMNgười ta nói “Phê bình là bà đỡ cho tác phẩm”, nhưng người ta cũng nói: “Nhà phê bình là con chó ăn theo nhà văn”.

  • NHỤY  NGUYÊN thực hiện

     

    Thi nhân Việt Nam hiện đại  - bộ bản thảo trường thiên hoành tráng về nền thi ca Việt hiện đại dự tính 4.000 trang khổ 15,5 x 20,5 cm, bao gồm 2.200 trang tiểu luận và 1.800 trang tuyển thơ của nhà phê bình văn học Thái Doãn Hiểu.

  • NGUYỄN VĂN THUẤNLTS: Nhóm nghiên cứu, lý luận phê bình trẻ” bao gồm sinh viên và cán bộ giảng dạy trẻ đến từ các trường đại học ở Huế (chủ yếu là Khoa Ngữ văn - ĐHSP Huế), với sự chủ trì của Ts. Trần Huyền Sâm. Nhóm hình thành trong tháng 6 - 2008 vừa qua với sự giúp đỡ của Tạp chí Sông Hương và Nhà sách Cảo Thơm.

  • Trong hoạt động văn học, cùng với mối quan hệ giữa tác phẩm với hiện thực, tác phẩm với nhà văn, mối quan hệ giữa tác phẩm và bạn đọc cũng đóng một vai trò rất quan trọng trong quy trình vận hành từ hiện thực - nhà văn - tác phẩm đến bạn đọc.

  • LTS: Ngày 19/12/2007, Ban Bí thư Trung ương Đảng quyết định thành lập Hội đồng lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật. Sau một thời gian chuẩn bị chu đáo, Hội đã có buổi ra mắt nhân dịp gặp mặt thân mật đại biểu cơ quan báo chí toàn quốc vào ngày 20/5/2008.Chúng tôi xin lược trích bài phát biểu của đồng chí Phùng Hữu Phú - Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ tịch Hội đồng lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương.

  • Thuyết phân tâm học của S.Freud và về sau là C.G.Jung và các người kế nghiệp đã có ảnh hưởng sâu rộng đến tư tưởng của con người hiện đại, bao gồm cả nhiều lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực văn học nghệ thuật. Tuy vậy, ở ta, do nhiều lý do chủ quan và khách quan, chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu về sự ảnh hưởng của phân tâm học trong văn học - nhất là văn học hiện đại Việt .

  • Trong thập niên 1970 danh từ thi pháp (poétique) trở thành thông dụng, thi pháp học dần dần trở thành một khoa học phổ biến, dính liền với ngành ngữ học, trong một khung cảnh học thuật rộng lớn hơn, là khoa ký hiệu học.

  • Bản chất nhận thức của văn học đã được biết đến từ lâu. Hễ nói đến văn học là người ta không quên nói tới các chức năng nhận thức, giáo dục, thẩm mĩ.

  • Mới đây, trong khi tìm tài liệu ở Thư viện quốc gia, tôi tình cờ đọc bài báo thuộc thể loại văn hóa - giáo dục: “Giáo sư Vũ Khiêu - Học chữ để làm người” trên chuyên mục Trò chuyện cuối tháng báo An ninh Thế giới số tháng 9/2005, do Hồng Thanh Quang thực hiện.

  • (Muốn khẳng định cuộc đời của mình không ai không thêm vào đó chút ít huyền thoại)                                 - M. Jourhandeau -

  • Văn học, từ xưa đến nay là sự khám phá không ngừng nghỉ về con người, đặc biệt về tâm hồn con người. Khám phá đó giúp cho con người hiểu rõ về bản thân mình hơn, cũng có nghĩa là con người sẽ biết sống tốt đẹp hơn, chất lượng sống do đó sẽ được nâng cao.

  • Một phương diện giúp khẳng định phong cách của bất cứ nhà văn nào, mà chúng ta không thể bỏ qua, đó là nghiên cứu yếu tố ngôn từ - chất liệu cơ bản để sáng tạo nên tác phẩm văn chương mà nhà văn đã vận dụng một cách nghệ thuật.