Phê bình văn học: hội chứng rên rỉ và đổ thừa

09:55 21/05/2012

INRASARA

(Phê bình phê bình phê bình)

Nhà phê bình Inrasara - Ảnh: laodong

1.

Thời gian qua, các nhà phê bình đã ra công bắt mạch để chỉ ra căn bệnh của phê bình văn học Việt Nam. Họ cũng đã kịp ban cho chúng tên khai sinh:

Phê bình bình và tán, không trên nền tảng mĩ học nào, chỉ bình tán đầy tính may rủi. Phê bình độn giai thoại, ở đó trong một bài viết, nhà phê bình tùy tiện độn vào cơ man giai thoại cũ và mới, rất nhảm. Phê bình chung chung, tránh né, vô thưởng vô phạt, là loại phê bình có thể áp dụng cho mọi nhà thơ, mọi tập thơ mà không sợ bị trật. Phê bình hũ nút, lấy mình làm thước đo văn chương người thiên hạ; cho dù văn chương thiên hạ rộng và cao tới đâu, cứ lấy chuẩn mình ra đo. Phê bình núp bóng, núp bóng và nhân danh. Nhân danh chân lí vĩnh cửu, nhân danh tên tuổi lớn trong lịch sử văn học, lấy cả “phương Đông” ra mà nhân danh. Phê bình bè phái, thể hiện mình cả ở thái độ khen chê, bênh vực hay cáo giác. “Phê bình du kích”, để thỏa mãn tính thù vặt, nhân vụ này đá sang vụ khác, đối tượng muốn đối thoại cũng không thể. Phê bình quan phương, là thứ phê bình hãnh tiến của kẻ đang nắm chặt chân lí trong tay, bao giờ và ở đâu cũng ăn nói ở thế đúng, thế thắng. Phê bình hàng hai, nói theo vì đang kì ăn theo, nói theo để còn ăn theo lâu dài hơn. “Phê bình liếc nhìn” vượt mặt phê bình hàng hai, nó còn biết đi rất nhiều hàng, nhưng chung quy nó thể hiện thói nịnh bợ, uốn ngòi bút để kiếm chác.

Sinh hoạt phê bình của ta ngập tràn các căn bệnh như thế với nhiều biến thái và biến tướng. Lạ, sản phẩm hạ sinh từ bệnh viện kia cuối cùng được tập hợp lại trong tập sách vài trăm trang, rồi ta tự tin kêu đó là “tập lí luận - phê bình”: Cảm nhận, Cảm luận, Tản mạn... gì gì đó. Đọc suốt tác phẩm, độc giả không thấy đâu là tư tưởng nền tảng của nhà phê bình, mà chỉ nghe bao nhiêu giai thoại vui vui, trích đoạn tùy tiện, cùng vô số ý kiến nói theo, nói dựa từng xuất hiện nhan nhản trên đủ loại báo phổ thông.

2.

Đó là phê bình tác phẩm, còn phê bình phê bình thì sao? Vẫn mấy căn bệnh từ hình thức phê bình trước truyền nhiễm sang, lây lan từ người này qua người khác. Phê bình tác phẩm, chỉ cần sở hữu ít khiếu thẩm mĩ, thêm cách diễn đạt có duyên, là đủ để người đọc dừng lại với bài phê bình, ít ra - không dị ứng với nó; thì phê bình phê bình đòi hỏi cao đến thao tác đầy lí tính của người viết. Đằng này, ta muôn năm mơ hồ.

Tôi nói điều này có thể buồn một chút, nhưng từ lâu tôi có cảm giác nền phê bình chân chính đã chết rồi (…) Bây giờ thì chúng ta thấy đấy, niềm tin với các bài phê bình trên báo chí giảm xuống, thậm chí, bạn đọc không còn quan tâm nhiều nữa Làm thế nào để hạn chế bớt những bài điểm sách sơ sài, những bài PR vì mục đích lợi nhuận của nhà sách?(1)

Cảm giác” với “niềm tin” “bạn đọc không còn quan tâm nhiều nữa” thì trên cả… mơ hồ! Còn những “bài điểm sách sơ sài, những bài PR vì mục đích lợi nhuận” của các nhà sách liên can gì đến phê bình? Tất cả chúng tồn tại có lí do chính đáng. Thời nào ở đất nước nào cũng thế, chúng có mặt để bán… sách. Chúng cần thiết trong thị trường chữ nghĩa đòi hỏi tính cạnh tranh cao. Vài trăm tác phẩm văn học ra đời mỗi tháng, ai trách nhiệm quảng bá chúng? - Các bài điểm sách. Cộng đồng than phiền văn hóa đọc xuống cấp; nhà văn ném “đứa con tinh thần” ra thị trường chữ nghĩa, đâu là nơi có thể đưa tin tác phẩm kia đến với công chúng? - Báo chí. Vậy mà ta lại than vãn sự PR này, với lối hiểu từ PR đầy hàm hồ và sai lạc.

Vấn đề là, sách của tác giả nào? Nhà xuất bản kia uy tín tới đâu (nếu nhà xuất bản làm ăn nghiêm túc)? Nhà phê bình nào dám đánh cược tên tuổi mình để giới thiệu nó? Và, tờ báo nào đã đăng nó? Không biện biệt để rạch ròi các hoạt động ngoại vi này với phê bình văn học, thì mọi than vãn của ta đều rất trật… mục tiêu. Than thở mơ hồ trật mục tiêu kia lan truyền để trở thành thứ hội chứng, hội chứng than thở. Bởi nhìn đâu ta cũng thấy thủ phạm, nó ở tất cả mọi nơi mà không ở đâu cụ thể.

Chỉ khi phân ranh như thế, ta mới xác định được thủ phạm là “các bài điểm sách sơ sài và các bài PR vì mục đích bán sách” cùng những con tương cận. Xác định và loại trừ, để còn lại là những bài phê bình đích thực. Đâu là bài phê bình như là phê bình?

3.

Cả ở đây nữa, ta cũng bị hội chứng than thở ám. Hết than khóc phê bình nghiệp dư lấn sân phê bình nhà nghề, phê bình chuyên nghiệp tàn tạ hay phê bình chân chính đã chết, ta quay sang rên rỉ về sự “thiếu chuẩn, loạn chuẩn trong phê bình văn học”(2). Loạn chuẩn, ta bắt được tay ngay kẻ để đổ thừa. Thủ phạm không ai khác, đích danh tên “ai cũng có thể làm phê bình được”!

Sự nhiễu loạn, sự đánh tráo giá trị đã trở thành một thực trạng rộng khắp và không dễ gì thay đổi được(1).Theo chúng tôi, dù là phê bình truyền thông thì cũng cần đòi hỏi những tiêu chuẩn về một thứ “chất lượng phê bình” chứ không thể tùy tiện, kiểu ai muốn nói gì thì nói(3).

Chính “ai ai cũng có thể làm phê bình” đã làm cho phê bình nhiễu loạn, mất chuẩn, loạn chuẩn. Vậy “ai ai” kia là ai cần phải bị loại trừ, để ai đó được quyền phê bình? Ai đó là những ai? - Các tên tuổi trong biên chế Viện Văn học? Các vị khoa bảng? Các nhà phê bình lận lưng thẻ Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam? Ta, chắc chắn rồi. Và ai nữa? Thế các cây bút tập sự mới nhập làng thì sao? Lại rất mơ hồ.

Toàn cầu hóa, đâu là “chuẩn” để quy chiếu từ đó đánh giá tác phẩm văn chương? Trong triết học, Nietzsche cuồng nộ đập nát bảng giá trị cũ [đang lưu hành] để dựng lên bảng giá trị mới, qua đó tác động rộng lớn đến nền triết học thế giới thế kỉ XX. Bên thơ ca, thần đồng [đích thực] thơ ca Pháp Rimbaud dũng mãnh phá tan mọi chuẩn tắc thơ đương thời để lập nên chuẩn mới, ảnh hưởng cả nền thơ nhân loại sau đó. Sau đổi mới, văn chương tiếng Việt phát triển đa khuynh hướng, đa giọng điệu, đa phong cách, chúng cần đến nhiều chuẩn khác nhau để đánh giá. Khác nhau, thậm chí đối chọi, phản bác nhau.

Thế giới mở, ai dám và ai có thể độc quyền chân lí nghệ thuật? Một tác phẩm vừa đưa ra thị trường, nếu phê bình truyền thống phải chờ đến ngày hôm sau, tuần sau, tháng sau mới thấy xuất hiện bài viết, thì hôm nay đã khác. Chúng nhận được ý kiến khen chê hoặc bị bỏ quên ngay khi vừa ló đầu ra đời. Kịp thời và nhanh nhạy. Nó mang ở tự thân đặc tính của báo chí. Còn hơn cả báo chí, bởi điều mà báo giấy không kham nổi thì báo mạng, website, facebook, blog đảm đương oanh liệt. Có cả không gian mênh mông cho người quan tâm vào cuộc.

Tác phẩm văn chương là một thế giới mở tồn tại vô vàn khoảng trống và những điểm trơn trợt bất định, mời gọi các diễn ngôn khác nhau, từ nhiều điểm nhìn khác nhau. Các diễn ngôn phát ra qua kinh nghiệm, cảm xúc, tri thức rất khác nhau của bộ phận độc giả khác nhau. Vô danh hay nổi tiếng, chuyên hay không chuyên, mới tập tò hay thâm niên công tác. Trình độ độc giả hôm nay đã được nâng cao, nên thái độ của họ đối với vấn đề văn học đã khác. Họ hết còn thưởng thức tác phẩm thụ động, mà tự tin nói lên cảm nghĩ và phát hiện của riêng mình, sẵn sàng nhảy vào dự phần nhận định và tranh luận.

4.

Thở than phê bình xuống cấp, sa sút, ta luôn đòi hỏi chất lượng tiêu chuẩn ISO cho các bài phê bình.

Trước đây, chúng ta hay nói đùa kiểu “nhà nhà làm thơ, người người làm thơ”, thì bây giờ phê bình trên báo chí cũng nằm trong tình trạng đó”(4).

Sa sút với xuống cấp, lại cũng là nguyên do từ “ai ai” trên. Qua đó hội chứng đổ thừa cho “người người làm phê bình, nhà nhà làm phê bình” giành thêm mảnh đất mầu mỡ để nhân giống! Tại sao cứ chính nó mà không là thủ phạm nào khác? Cớ sao “người người làm phê bình, nhà nhà làm phê bình” không phải là cơ hội lớn cho nền văn học phát triển, mà lại làm trở ngại? Nữa, nếu ở đó, ta không phải đồng thanh một kiểu phê bình, mà hãy “kiểu ai nấy nói”, tại sao nỗi đó không phải là cơ may cho nền phê bình, mà lại kéo nó tụt hậu? Nhiều người làm phê bình với nhiều “kiểu” phê bình khác nhau, nhiều cách “phán” khác nhau là điều cần thiết cho đa dạng hóa một nền văn học. Dĩ nhiên, khi các “kiểu” phê bình ấy được đặt trên nền tảng lí luận vững chắc mà không tùy hứng đến tùy tiện.

Ta kêu “thiếu chuẩn”, “loạn chuẩn” vân vân, vậy đâu là “chuẩn” hay “kiểu” phê bình của ta? Nó được đặt trên nền tảng mĩ học nào? Đâu là tang chứng vật chứng để chứng thực cho chuẩn kia? Hay lần nữa ta huy động đâu Hoài Thanh từ thời xa lơ xa lắc? Hoặc lục lại các chuẩn truyền thống còn quá ư mơ hồ, ít nhiều đã lạc thời? Cả ở đây nữa, không phải bản thân ta đang tiếp tục chương trình cảm tính với chung chung, để đóng góp phần mình vào nỗi “loạn chuẩn” kia, sao?

5.

Cuối cùng, quen rên rỉ ỉ ôi người thiên hạ, trong khi chính ta lạc hậu từ đời nảo đời nao mà không tự biết.

Lâu nay, tôi thường có thói quen đọc các bài “phê bình điểm sách” thơ bằng cách đọc dăm bảy câu thơ dẫn chứng. Nếu thấy các dẫn chứng không thuyết phục thì không đọc nữa. Tôi tin không có “bột” thì dù có tán hươu, tán vượn thế nào, cũng không thể “gột” nên “hồ” được. Dần dần, tôi loại bỏ bằng cách không đọc những bài viết kiểu này. Tôi tin nhiều độc giả cũng cách phản ứng giống tôi”(5).

Nhiều độc giả cũng cách phản ứng giống” như thế, không sai. Đó là độc giả của sách giáo khoa cấp Trung học Phổ thông. Viết giáo khoa thư THPT, nhà phê bình buộc phải trích bình những đoạn thơ hay, đẹp theo quy chuẩn đã được thừa nhận rộng rãi. Ở đó, “bình” là chính. Trong khi phê bình ngoài trần gian muôn màu thì khác, hoàn toàn khác.

Tại đây, thứ nhất, có khi nhà phê bình chỉ lôi các câu/ đoạn thơ dở để phê, không mục đích nào khác là bảo vệ luận điểm của mình. Thứ hai, họ có thể dẫn ra các đoạn thơ [họ cho là] hay để luận. Chính điểm này đáng quan tâm hơn cả, vì đoạn trích mà theo quán tính ta cho là “không có bột” nhưng với cách nhìn khác, họ đã “gột nên hồ”, mới đáng giá. Đọc bài phê bình là đọc luận điểm độc đáo cùng lập luận thuyết phục kia của nhà phê bình; các trích đoạn có mặt là cần thiết, nhưng nó chỉ đóng vai phụ.

Lưu trì quán tính lâu đời hay “thói quen đọc các bài “phê bình điểm sách” thơ bằng cách đọc dăm bảy câu thơ dẫn chứng… không thuyết phục” rồi bỏ qua một bài phê bình, là thói tật xấu. Xấu, và lỗi thời. Lỗi thời, bởi - dấn thêm một bước - thứ ba, mỗi hệ mĩ học có cái “hay” khác nhau, chúng bổ sung cho nhau hoặc vượt qua nhau. Nếu đoạn thơ trích dẫn thuộc hệ mĩ học hậu hiện đại, mà ta mãi đứng ở lãnh địa hiện đại dòm qua thấy “không có bột” rồi quay lưng bỏ đi, là vô hình trung ta đóng cửa với chính mình trước cái mới, cái xa lạ. Ta tự thôi học rồi còn gì!

*

Vậy đó, tiếp nhận thành quả người đi trước bắt mạch căn bệnh phê bình từng tàn phá cơ thể văn học Việt Nam, thay vì mổ xẻ mấy ung nhọt kia và cương quyết rũ bỏ chúng, ta đã làm điều vô bổ: than thở với đổ thừa. Than thở và đổ thừa đầy mơ hồ, vừa lầm lạc vừa lỗi thời. Lỗi thời nên, càng lầm lạc. Lầm lạc kéo dài và lây lan đến thành một thứ hội chứng khó chữa trị.

Đối mặt với hiện trạng phê bình kia, nhà phê bình tự trang bị tinh thần và cả thái độ mới. Đòi hỏi trước tiên là nhà phê bình tự thức toàn diện và sâu thẳm về sự yếu kém của bản thân nền phê bình, nhận mặt căn bệnh và cương quyết rũ bỏ chúng.

Tư thế tự do, tự do khỏi mọi ràng buộc định kiến nghệ thuật, ý thức hệ tôn giáo hay chính trị, quyền lợi phe nhóm, quen biết anh chị em bằng hữu. Có cái nhìn toàn cảnh văn học Việt Nam hiện đại: trước và sau 75, trong nước và hải ngoại, chính thống và ngoại biên, dân tộc đa số và dân tộc thiểu số, trung tâm văn hóa lớn và địa phương,… Phê bình học biết chấp nhận các quan điểm, các tác phẩm không cùng hệ mĩ học mình yêu thích. Hướng về phía tương lai và phía mới - phê bình học biết suy tư trong chiều hướng đưa nền văn học phát triển ở ngày mai, chứ không phải ngược lại, một phê bình sẵn sàng cho thế hệ hôm nay sáng tạo cái mới trong tâm thế mở của thời đại toàn cầu hóa.

Sài Gòn, 31-3-2012
I.R.S.R
(SH279/5-12)



---------------------------------
Các trích dẫn từ báo Văn nghệ trẻ, tháng 2&3-2012: Thiên Sơn (1), Trần Thị Thục (3), Hoàng Thụy Anh (4), Đặng Huy Giang (5), và báo Văn nghệ, ghi chép Tọa đàm tại Viện văn học: “Phê bình văn học - bản chất và đối tượng”, tháng 5-2004 (2).









 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • INRASARATham luận tại Hội thảo “Nhà văn với sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước”, Hội Nhà văn Việt Nam, Đồng Nai, 8-1-2009.

  • HOÀNG NGỌC HIẾNWallace Stevens ví hành trình của những nghệ sĩ Tiên phong (hoặc Tiền vệ) của chủ nghĩa hiện đại những thập kỷ đầu thế kỷ XX như những cuộc phiêu lưu của những nhà thám hiểm núi lửa, họ đã đến núi lửa, “đã gửi về tấm bưu ảnh cuối cùng” và lúc này không có ước vọng gì hơn là trở về nhà.

  • TRẦN HOÀI ANH1. Nhà thơ - Người đọc: Niềm khắc khoải tri âmKhi nói về mối quan hệ giữa nhà thơ và độc giả, Edward Hirsch đã viết: “Nhiều nhà thơ đã nắm lấy ý Kinh Thánh Tân Ước “Khởi thuỷ là lời”, nhưng tôi thích ý kiến của Martin Buber trong “Tôi và bạn” hơn rằng: “Khởi thuỷ là những mối quan hệ” (1).

  • VIỆT HÙNGCông tác lý luận phê bình văn học nghệ thuật đang là mối quan tâm lo lắng của giới chuyên môn, cũng như của đại đa số công chúng, những người yêu văn học nghệ thuật. Tình trạng phê bình chưa theo kịp sáng tạo, chưa gây được kích thích cho sáng tạo vẫn còn là phổ biến; thậm chí nhiều khi hoặc làm nhụt ý chí của người sáng tạo, hoặc đề cao thái quá những tác phẩm nghệ thuật rất ư bình thường, gây sự hiểu nhầm cho công chúng.

  • HẢI TRUNGVũ Duy Thanh (1811 - 1863) quê ở xã Kim Bồng, huyện An Khánh, tỉnh Ninh Bình là bảng nhãn đỗ đầu trong khoa thi Chế khoa Bác học Hoành tài năm Tự Đức thứ tư (1851). Người đương thời thường gọi ông là Bảng Bồng, hay là Trạng Bồng.

  • NGUYỄN SƠNTrên tuần báo Người Hà Nội số 35, ra ngày 01-9-2001, bạn viết Lê Quý Kỳ tỏ ý khiêm nhường khi lạm bàn một vấn đề lý luận cực khó Thử bàn về cái tôi trong văn học. Anh mới chỉ "thử bàn" thôi chứ chưa bàn thật, thảo nào!... Sau khi suy đi tính lại, anh chỉnh lý tí tẹo tiêu đề bài báo thành Bàn về "cái tôi"trong văn học và thêm phần "lạc khoản": Vinh 12-2001, rồi chuyển in trên Tạp chí Văn (Hội Nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh), số 4 (Bộ mới, tháng 3-4)-2002. Trong bài trao đổi này chúng tôi trích dẫn căn cứ theo nguyên văn bài báo đã in lần đầu (và về cơ bản không khác với khi đưa in lại).

  • TRƯƠNG ĐĂNG DUNGCùng với sự phát triển của một thế kỉ văn học dân tộc, lí luận văn học ở Việt Nam cũng đã có những thành tựu, khẳng định sự trưởng thành của tư duy lí luận văn học hiện đại.

  • NGUYỄN NGỌC THIỆNTrong vài ba thập niên đầu thế kỷ XX, trung xu thế tìm đường hiện đại hóa văn xuôi chữ quốc ngữ, các thể tài tiểu thuyết, phóng sự được một số nhà văn dụng bút thể nghiệm.

  • L.T.S: Trong ba ngày từ 03 đến 05 tháng 5 năm 2005, tại thành phố Huế đã diễn ra hoạt động khoa học quốc tế có ý nghĩa: Hội thảo khoa học Tác phẩm của F. Jullien với độc giả Việt Nam do Đại học Huế và Đại học Chales- de-Gaulle, Lille 3 tổ chức, cùng sự phối hợp của Đại sứ quán Pháp ở Việt Nam và Agence Universitaire  francophone (AUF). Hội thảo có 30 tham luận của nhiều giáo sư, học giả, nhà nghiên cứu Việt Nam, Pháp, Nhật Bản, Hàn Quốc.

  • NGUYÊN NGỌC1- Trong các tác phẩm của F. Jullien đã được giới thiệu ở Việt , tới nay đã được đến mười quyển, tôi chỉ dịch có một cuốn “Một bậc minh triết thì vô ý” (Un sage est sans idée). Tôi dịch cuốn này là theo gợi ý của anh Hoàng Ngọc Hiến. Khi in, cũng theo đề nghị của anh Hiến và của nhà xuất bản, cuốn sách đã được đổi tên ở ngoài bìa là “Minh triết phương Đông và triết học phương Tây”, các anh bảo như vậy “sẽ dễ bán hơn” (!).

  • ĐÀO HÙNGTrước khi dịch cuốn Bàn về chữ Thời (Du temps-éléments d′une philosophie du vivre),  tôi đã có dịp gặp François Jullien, được nghe ông trình bày những vấn đề nghiên cứu triết học Trung Hoa của ông và trao đổi về việc ứng dụng của triết học trong công việc thực tế. Nhưng lúc bấy giờ thời gian không cho phép tìm hiểu kỹ hơn, nên có nhiều điều chưa cảm thụ được hết.

  • NGUYỄN VĂN DÂNTheo định nghĩa chung, xã hội học là khoa học nghiên cứu về các sự việc mang tính chất xã hội. Mặc dù cội nguồn của nó phải kể từ thời Aristote của Hy Lạp, nhưng với tư cách là một ngành khoa học, thì xã hội học vẫn là một bộ môn khoa học khá mới mẻ. Ngay cả tên gọi của nó cũng phải đến năm 1836 mới được nhà triết học người Pháp Auguste Comte đặt ra.

  • MAI VĂN HOANƯớc lệ được xem là một đặc điểm thi pháp của văn học Trung đại. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du sử dụng khá nhiều bút pháp ước lệ. Có điều nhà thơ sử dụng một cách hết sức linh hoạt, sáng tạo nên tránh được sự sáo mòn, nhàm chán. Không những thế bút pháp ước lệ của Nguyễn Du còn góp phần diễn tả một cách tinh tế, sâu sắc tâm trạng nhân vật. Điều đó thể hiện rất rõ qua cảnh Thuý Kiều đưa tiễn Thúc Sinh về tự thú với Hoạn Thư.

  • HÀ VĂN LƯỠNG  Thơ haiku Nhật bản là một sản phẩm tinh thần quý giá của đời sống văn hoá đất nước Phù Tang. Nó là một thể thơ đặc biệt trong thơ cổ truyền của Nhật bản. Phần lớn các nhà thơ haiku đều là các thiền sư. Chính những nhà thơ thiền sư này đã đưa thiền vào thơ. Vì thế, họ nhìn đời với con mắt nhà sư nhưng bằng tâm hồn của người nghệ sĩ.

  • TRẦN THANH HÀVăn học bao giờ cũng gắn bó với thời đại và con người. Đặc biệt trong tiến trình đổi mới hôm nay, xu thế hoà nhập với văn hoá phương Tây đã ảnh hưởng không nhỏ đến văn học Việt . Bởi nó đang tác động tới "ý thức chủ thể" của nhà văn.

  • HOÀNG TẤT THẮNG                1. Chủ tịch Hồ Chí Minh không phải chỉ là một vị lãnh tụ, một người thầy kiệt xuất của phong trào cách mạng Việt mà còn là một nhà thơ, nhà văn xuất sắc trong nền văn học Việt hiện đại. Bác Hồ chưa bao giờ có ý định trở thành nhà thơ, nhà văn, song các tác phẩm thơ văn ngôn ngữ của Người đã trở thành một mẫu mực, một phong cách đặc biệt cho các thế hệ người Việt tiếp tục nghiên cứu và học tập.

  • NGUYỄN DƯƠNG CÔNĐề tài và chủ đề là hai trạng thái cơ bản nhất, bao dung hết thảy làm nên cấu trúc tổng thể tác phẩm tiểu thuyết. Hai trạng thái đó trong liên kết tương tác gây dẫn nên tất cả những yếu tố ý nghĩa nội hàm tiểu thuyết. Chúng còn đồng thời gây dẫn nên những yếu tố ý nghĩa liên quan nảy sinh trong tư duy tiếp nhận ngoài ý nghĩa nội hàm tiểu thuyết. Nhưng dẫu có như thế, chỉ có thể hình dung cho đúng đắn được đề tài, chủ đề theo định hướng duy nhất thấy chúng trong cấu trúc nội bộ tổng thể tác phẩm tiểu thuyết.

  • NGUYỄN HỒNG DŨNGQuá trình “hiện đại hoá” văn học Việt Nam giai đoạn 1932 - 1945 diễn ra dưới sự tác động trực tiếp của văn học phương Tây. Gần một thế kỷ nay, khi nghiên cứu những tác động từ bên ngoài vào Việt Nam giai đoạn này các nhà ngữ văn chỉ chủ yếu nhấn mạnh đến ảnh hưởng của văn học Pháp. Trong bài viết này, chúng tôi đề cập đến ảnh hưởng của nhà thơ Mỹ Edgar Poe đối với Hàn Mặc Tử, một đỉnh cao của phong trào “thơ mới”.

  • PHẠM PHÚ PHONG            Tiểu thuyết, đó là một trong những sáng tạo kỳ diệu của con người, đó là một đồ dùng, một vũ khí của con người để tìm hiểu, chinh phục dần thế giới và để tìm hiểu nhau và sống với nhau.                                                                                       Nguyễn Đình Thi

  • PHONG LÊ(Trích - Nhìn từ các mục tiêu của công việc “viết”)