Phê bình sinh thái - khuynh hướng nghiên cứu văn học mang tính cách tân

10:22 26/11/2012

ĐỖ VĂN HIỂU

Tóm tắt
Trước tình trạng môi trường toàn cầu đang ngày một xấu đi, giữa thập niên 90 của thế kỷ 20 Phê bình sinh thái đã ra đời với sứ mệnh cao cả là phân tích chỉ ra căn nguyên văn hóa tư tưởng dẫn đến nguy cơ sinh thái, nghiên cứu quan hệ giữa con người và môi trường tự nhiên.


Với tư tưởng nòng cốt mới, nguyên tắc mỹ học riêng và đối tượng nghiên cứu riêng, Phê bình sinh thái thực sự trở thành một khuynh hướng nghiên cứu văn học mới mẻ, thúc đẩy mạnh mẽ xu hướng gắn văn chương với vấn đề nhức nhối của toàn cầu.

Dẫn luận

Manh nha vào những năm 70 của thế kỷ 20, đến giữa thập niên 90, Phê bình sinh thái đã thực sự trở thành một khuynh hướng nghiên cứu văn học ở Mĩ và lan ra nhiều nước khác trên thế giới. Ở Việt Nam, một điều lạ lùng là sau đổi mới, giới nghiên cứu văn học khá cởi mở trong việc tiếp thu, giới thiệu các lí thuyết văn học phương Tây hiện đương đại, nhưng lại rất thận trọng đối với Phê bình sinh thái. Ngay cả các lí thuyết mới mẻ như Chủ nghĩa lịch sử mới, Chủ nghĩa duy vật văn hóa hay lí thuyết tương đối nhạy cảm như Diễn ngôn quyền lực của Foucault cũng đã được nhắc đến ở Việt Nam, nhưng riêng Phê bình sinh thái lại vắng bóng. Dẫn đến hiện tượng trên, có lẽ, một phần rất lớn bắt nguồn từ chính sự mới mẻ một cách đặc thù của khuynh hướng nghiên cứu này. Thông thường, cách tân rất dễ thu hút sự chú ý, nhưng sự cách tân của Phê bình sinh thái lại có những đặc điểm riêng khiến cho sự phát triển, mở rộng nó gặp không ít trở ngại.

Trong bài viết này, người viết sẽ làm sáng tỏ một số cách tân bản chất của phê bình sinh thái trên phương diện tư tưởng nòng cốt, sứ mệnh, nguyên tắc thẩm mĩ, đối tượng, phạm vi nghiên cứu; bên cạnh đó cũng lưu tâm đến hạn chế, khó khăn trong việc mở rộng, phát triển của khuynh hướng nghiên cứu này.

Cách tân về tư tưởng nòng cốt

Lịch sử nghiên cứu văn học gắn liền với sự liên tục ra đời, phát triển và thay thế lẫn nhau của các loại lí thuyết, lí thuyết ra đời sau bao giờ cũng đem đến những cách tân, bổ khuyết cho những gì còn hạn chế của lí thuyết trước, đề xuất nguyên tắc, đối tượng, phương pháp, mục đích nghiên cứu riêng, thế nhưng, dù là Chủ nghĩa hình thức, Chủ nghĩa cấu trúc, Mỹ học tiếp nhận, Phê bình nữ quyền, Chủ nghĩa lịch sử mới, hay Chủ nghĩa duy vật văn hóa… thì chúng vẫn nằm trong ảnh hưởng của tư tưởng “nhân loại trung tâm luận”, vì thế, việc tiếp nhận chúng trở nên thuận lợi hơn. Trong khi đó, Phê bình sinh thái ra đời lại mang theo một tư tưởng nòng cốt khác so với nền tảng tư tưởng đã ngự trị trong lịch sử nhân loại nhiều thế kỷ: đó là lấy “sinh thái trung tâm luận” làm nền tảng. Nhiều thế kỷ qua, nhân loại kiêu hãnh với quan niệm “con người là trung tâm của thế giới”, “con người là tinh hoa của muôn loài”, và coi việc chinh phục tự nhiên như một trong những mục đích vĩ đại, một phương thức khẳng định sức mạnh của mình, khẳng định địa vị của con người trong vũ trụ. Sách vở cổ kim đông tây không ít những dẫn chứng thể hiện tư tưởng đó. Chính vì thế, Phê bình sinh thái đề xuất lấy “sinh thái trung tâm luận” làm nền tảng tư tưởng đã tạo ra một cực tư tưởng khác mà muốn tiếp nhận nó, buộc chúng ta phải thay đổi rất nhiều thứ đã ăn sâu trong tiềm thức mình. Tư tưởng hạt nhân của phê bình sinh thái là Chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái (ecological holism), có nguồn gốc từ quan niệm hài hòa, tương hỗ, hệ thống của sinh thái học, từ tư tưởng sinh thái của Engels, Darwin, từ triết học sinh thái của Heidegger, từ triết học sinh thái chỉnh thể luận đương đại… “Tư tưởng hạt nhân của chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái là coi lợi ích chỉnh thể của hệ thống sinh thái là giá trị cao nhất; lấy sự có ích hay không có ích đối với việc bảo vệ, duy trì hoàn chỉnh, hài hòa, ổn định, cân bằng sinh hệ thống sinh thái làm thước đo, tiêu chuẩn cao nhất để đánh giá sự phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế và tiến bộ khoa học kĩ thuật cũng như phương thức sống của nhân loại”. Để tư tưởng này được phổ cập, cũng có nghĩa là để có một nền tảng tư tưởng cho Phê bình sinh thái lan rộng hơn và phát triển hơn không phải chuyện một sớm một chiều. Tất nhiên, nói như thế không có nghĩa là các nhà Phê bình sinh thái phản đối vấn đề lợi ích của con người. Họ vẫn tán thành, ủng hộ chủ nghĩa nhân bản khi xử lí các vấn đề xã hội, tôn trọng con người, bảo hộ quyền con người, công bằng, chính nghĩa, họ chỉ phản đối tư tưởng cao ngạo, mù quáng khi nhìn nhận quan hệ giữa con người và tự nhiên, coi con người là linh hồn của vạn vật và từ đó tùy ý bóc lột tự nhiên, coi việc chiếm đoạt, chà đạp tự nhiên làm phương thức khuếch trương bản thân.

Mang một sứ mệnh mới

Có lẽ trong lịch sử nghiên cứu văn học chưa từng có một trào lưu nghiên cứu nào mang một sứ mệnh đặc thù như Phê bình sinh thái. Sứ mệnh của Phê bình sinh thái là nhìn nhận lại văn hóa nhân loại, tiến hành phê phán văn hóa, chỉ ra căn nguyên văn hóa tư tưởng dẫn đến nguy cơ sinh thái. Vấn đề sinh thái là vấn đề toàn cầu, đồng bộ ở các nước, không phân chia biên giới, thể chế chính trị, giai tầng xã hội. Mặc dù căn nguyên tư tưởng ở mỗi quốc gia có thể khác nhau, nhưng nguy cơ sinh thái hiện nay cũng như giải quyết nó là vấn đề chung đòi hỏi cộng đồng các quốc gia cùng góp sức. Nghiên cứu văn học thế giới đã trải qua nhiều lần chuyển trung tâm, như chuyển từ tác giả sang văn bản, người đọc, văn hóa và đến Phê bình sinh thái, mặc dù vẫn tiếp tục xu hướng ngoại hóa trong nghiên cứu văn học nhưng đã mang một sứ mệnh hoàn toàn mới. Mang một sứ mệnh cao cả này, một phần rất lớn là Phê bình sinh thái ra đời không phải từ khát vọng sáng lập lí thuyết mới của các nhà phê bình, cũng không phải xuất phát từ nội bộ nghiên cứu văn học, mà là từ sự thúc đẩy của nguy cơ sinh thái. Không ít người đã dự đoán rằng, hiện nay, nguy cơ lớn nhất mà loài người phải đối mặt là nguy cơ sinh thái, thế kỷ 21 sẽ là thế kỷ của trào lưu sinh thái, là thời đại của việc sáng lập văn minh sinh thái. Các nhà phê bình sinh thái ý thức được rằng, văn học nhân loại cần phải có trách nhiệm với nguy cơ này, bởi bản thân văn học cũng là một trong những nguyên nhân văn hóa sâu xa tạo nên nguy cơ đó. Greg Garrad cho rằng: “Vấn đề môi trường không chỉ cần phân tích từ góc độ khoa học, mà còn cần phân tích từ góc độ văn hóa”. Văn học phản sinh thái tiếp tục phát triển cũng sẽ góp phần kéo theo sự tiếp diễn của nguy cơ sinh thái. Bởi vì “chúng ta làm gì đối với sinh thái phụ thuộc vào quan niệm của chúng ta về quan hệ giữa con người và tự nhiên”. Nhà văn, nhà phê bình phải thông qua cải tạo văn học, cải tạo quan niệm văn học để hạn chế mắc lỗi với tự nhiên và thậm chí chuộc lỗi với tự nhiên. W.E.B.Du Bois từng dự đoán: Vấn đề chung rộng lớn của thế kỷ 20 là vấn đề chủng tộc. Đến đầu thế kỷ mới, dấu tích của vấn đề này vẫn không hề phai mờ. Nhưng, còn một vấn đề có lẽ là bức thiết hơn, đó là đối với tuyệt đại đa số cư dân trên địa cầu, nếu như không tiến hành cải cách mạnh mẽ phương thức sống hiện nay, thì trái đất liệu có còn sức sống nữa hay không?.

Như vậy, sứ mệnh của phê bình sinh thái là nghiên cứu tư tưởng, văn hóa, khoa học, phương thức sống và phương thức sản xuất, mô hình phát triển xã hội của con người đã ảnh hưởng như thế nào đến hiện tượng xấu đi của môi trường tự nhiên, đã dẫn đến nguy cơ sinh thái như thế nào. Từ đây có thể thấy, Phê bình sinh thái là một khuynh hướng nghiên cứu mang đậm tinh thần phê phán văn hóa. Phê bình sinh thái muốn hướng đến cải cách văn hóa tư tưởng, thúc đẩy cách mạng phương thức sống, phương thức sản xuất, mô hình phát triển, xây dựng văn minh sinh thái.

Xây dựng trên nguyên tắc mỹ học riêng

Phê bình sinh thái không chỉ lấy chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái làm tư tưởng triết học nền tảng mà còn lấy thẩm mỹ sinh thái làm nguyên tắc chỉ đạo. Nếu không xác định được nguyên tắc mỹ học riêng, Phê bình sinh thái sẽ không khác gì các hoạt động nghiên cứu môi trường thông thường. Phê bình sinh thái phải “một chân đặt ở địa cầu, một chân đặt ở văn học”. Lý Khánh Bản cho rằng: “Trên cơ sở sinh thái chỉnh thể luận, chủ trương của mĩ học sinh thái là thống nhất hài hòa giữa con người và tự nhiên, con người và xã hội, con người và bản thân chứ không phải là con người chiếm hữu, chinh phục và cải tạo tự nhiên, không chủ trương quan điểm lao động sáng tạo ra cái đẹp”.

Trước tiên, thẩm mỹ sinh thái là thẩm mỹ mang tính tự nhiên, nó không phải là sự trừu tượng hóa trên cơ sở kinh nghiệm thẩm mỹ cụ thể, cũng không phải là thông qua đối tượng cụ thể thể hiện tư tưởng tình cảm, nhân cách của chủ thể thẩm mỹ. Trong thẩm mỹ sinh thái không tồn tại quan hệ chủ thể - khách thể, con người cảm nhận tự nhiên, thiết lập quan hệ chủ thể tương giao với đối tượng thẩm mỹ. Mặc dù trong lịch sử mỹ học, cái đẹp tự nhiên vẫn được bàn đến, nhưng phần lớn các nhà tư tưởng đều coi cái đẹp nghệ thuật, cái đẹp trong cuộc sống đẹp hơn cái đẹp tự nhiên. Nếu có thừa nhận, coi trọng cái đẹp tự nhiên thì thường cho nó là sự ngoại hóa của sức mạnh hoặc thế giới tinh thần của con người. Hegel từng cho rằng chỉ có cái đẹp nghệ thuật mới là cái đẹp chân chính. Trong truyền thống, trên cơ sở nền tảng của Chủ nghĩa nhân loại trung tâm, đối tượng thẩm mỹ tự nhiên chỉ được coi là phương tiện, biện pháp, kí hiệu, vật đối ứng, công cụ biểu hiện, ám thị, tượng trưng cho thế giới nội tâm, đặc trưng nhân cách của con người. Các nhà Phê bình sinh thái lại chủ trương, không thể dùng con mắt công cụ, công lợi để đối đãi đối tượng thẩm mỹ tự nhiên. Bài trừ thẩm mỹ công cụ hóa cũng trở thành ranh giới phân chia thẩm mỹ sinh thái và thẩm mỹ phi sinh thái. Bên cạnh đó, thẩm mỹ sinh thái đề cao tính chỉnh thể, không chỉ quan tâm đến đối tượng thẩm mỹ đơn nhất, mà còn đặt nó vào trong hệ thống tự nhiên, từ đó khảo sát ảnh hưởng của nó đối với chỉnh thể sinh thái. Tiêu chuẩn đánh giá cái đẹp của thẩm mỹ sinh thái cũng khác so với truyền thống. Đối với thẩm mỹ sinh thái, cái gì có lợi cho sự ổn định, hài hòa của hệ thống sinh thái mới là Đẹp; phá hoại chỉnh thể, phá hoại sự ổn định sinh thái sẽ bị coi là Xấu. Trong mỹ học truyền thống, con người trở thành tiêu chuẩn, thành thước đo, còn đến Phê bình sinh thái, thước đo lại là chỉnh thể sinh thái. Ngoài ra, thẩm mỹ sinh thái còn đề cao nguyên tắc dung nhập. Thẩm mỹ sinh thái yêu cầu tinh thần và thể xác thấu nhập vào tự nhiên, có lúc, thậm chí còn phải quên đi bản ngã, hòa với tự nhiên làm một. Muốn thực sự dung nhập vào tự nhiên, đặc biệt là muốn trong sự dung nhập đó cảm nhận sâu sắc vẻ đẹp của tự nhiên thì trước hết phải quên đi bản ngã của mình. Quên đi bản ngã để cảm nhận tự nhiên chính là một phương thức của thẩm mỹ sinh thái. Con người không thể phát hiện ra hết cái kì diệu của tự nhiên chính vì quá tự cao tự đại, coi tự nhiên chỉ là công cụ nhằm đối tượng hóa bản ngã, chỉ có cảm thụ một cách vô tư, không mục đích mới có thể cảm nhận được càng nhiều cái đẹp, cái kì thú của tự nhiên.

Xác lập đối tượng, phạm vi nghiên cứu riêng

Để hình thành một lí thuyết phê bình văn học, một điều không kém phần quan trọng chính là xác định được đối tượng, phạm vi nghiên cứu đặc thù. “Phê bình sinh thái là phê bình bàn về quan hệ giữa văn học và môi trường tự nhiên” (Cheryll Cglotfelty). Đối tượng của phê bình sinh thái không phải chỉ là văn học sinh thái, không phải chỉ là những tác phẩm miêu tả phong cảnh tự nhiên. Có miêu tả tự nhiên hay không không phải là điều kiện tất yếu để triển khai phê bình sinh thái. Chỉ cần có căn nguyên văn hóa tư tưởng dẫn đến nguy cơ sinh thái, chỉ cần có ảnh hưởng đến quan hệ giữa con người và tự nhiên, thậm chí, tác phẩm văn học cho dù hoàn toàn không đả động gì đến cảnh vật tự nhiên, mà chỉ bàn đến chính sách phá hoại sinh thái, bàn đến một phương thức sống của xã hội tiêu dùng, một sự kiện ô nhiễm môi trường… đều có thể trở thành đối tượng quan tâm của phê bình sinh thái. Cho nên, dùng góc nhìn sinh thái, có thể khảo sát văn học đông tây kim cổ, đặc biệt là những tác phẩm kinh điển có ảnh hưởng lớn đến văn minh nhân loại cũng như biến động xã hội; có thể tiến hành đọc lại các tác phẩm trong quá khứ, tìm ra ý nghĩa sinh thái tiềm ẩn trong đó, tất nhiên, cũng bao hàm việc chỉ ra những hạn chế của nó trong tương quan với chỉnh thể sinh thái. Như vậy, sẽ góp phần bổ sung cho những khuyết thiếu trong lịch sử nghiên cứu văn học nhân loại. Chẳng hạn, ngay trong thần thoại, suốt bao nhiêu năm, giảng dạy và nghiên cứu luôn đề cao khát vọng khám phá, chinh phục tự nhiên, nhưng nếu nhìn từ góc độ sinh thái, vấn đề đã trở nên khác biệt.

Cách tân nhưng không phải là vạn năng

Không thể phủ nhận, Phê bình sinh thái ra đời đã mang đến cho nghiên cứu văn học, mỹ học một góc nhìn mới, khai mở một không gian mới, mang đến một động lực phát triển mới, bổ sung cho những khoảng trống trong nghiên cứu văn học từ trước đến nay. Lí luận phê bình văn học đã trải qua nhiều lần chuyển trung tâm nghiên cứu, nhưng quan hệ giữa văn học và tự nhiên vẫn chưa thực sự được quan tâm đúng mức, điều này ít nhiều tạo nên sự mất cân bằng trong hệ thống tri thức nghiên cứu văn học. Phê bình sinh thái ra đời đã bổ sung cho những khuyết thiếu trong nghiên cứu văn học trước kia, đồng thời góp phần điều chỉnh cho những thiên lệch trong nghiên cứu văn học đương đại. Nó nhấn thêm một bước trong chuyển động vượt ra ngoài phạm vi nghiên cứu bản thể luận, chuyển sang xã hội, văn hóa, đồng thời cũng hóa giải khuynh hướng kinh viện, thoát li hiện thực, thúc đẩy nghiên cứu văn học “nhập thế” - nhà nghiên cứu không chỉ đơn thuần quan tâm đến học thuật, mà còn cần phải gánh vác trọng trách phê phán văn hóa tư tưởng xã hội, phổ cập ý thức sinh thái, góp phần xây dựng văn minh sinh thái.

Những cách tân, đóng góp của Phê bình sinh thái là không thể phủ nhận, mặc dù có những đột phá nhưng cũng như tất cả các lí thuyết văn học khác, Phê bình sinh thái không phải là vạn năng, không thể bao hàm tất cả nghiên cứu văn học, nó chỉ là một nhánh của nghiên cứu văn học mà thôi. Sự ra đời của nó không có nghĩa là phủ nhận, thay thế và cũng không thể phủ nhận, thay thế các khuynh hướng nghiên cứu khác. Phê bình sinh thái chỉ muốn chứng minh rằng: nguy cơ sinh thái đang là vấn đề vô cùng hệ trọng liên quan đến sự tồn vong của toàn nhân loại; nhà văn, nhà phê bình cũng nên đóng góp tiếng nói của mình vào việc giải trừ nguy cơ sinh thái.

Kết luận

Với việc hướng tới quan hệ giữa văn học và tự nhiên dưới sự chỉ đạo của chủ nghĩa sinh thái, đặc biệt là tư tưởng chỉnh thể sinh thái; làm rõ căn nguyên văn hóa tư tưởng dẫn đến nguy cơ sinh thái, đồng thời chú ý đến thẩm mỹ sinh thái và các biểu hiện nghệ thuật khác của văn học, Phê bình sinh thái đã tự tạo cho mình một diện mạo mới. Nhưng do sự phổ cập tư tưởng sinh thái cũng như xây dựng văn minh sinh thái vẫn còn dừng lại ở mức độ nhất định; yêu cầu cân đối giữa “nhân loại trung tâm luận” và “sinh thái trung tâm luận” vẫn còn nhiều vấn đề; hơn nữa văn học hàng nghìn năm hầu hết là sản phẩm được sáng tạo trên nền tảng tư tưởng “nhân loại trung tâm luận”, cho nên, sự mở rộng, phát triển của Phê bình sinh thái cũng gặp không ít trở ngại.

Phát triển Phê bình sinh thái ở Việt Nam, bên cạnh những khó khăn chung, còn gặp những khó khăn riêng do hoàn cảnh đặc thù, vì Phê bình sinh thái là một bước tiến dài trong hành trình “ngoại hóa” của nghiên cứu văn học phương Tây, nó ít nhiều có nền tảng trong chuyển hướng văn hóa của nghiên cứu văn học, trong khi đó, thành tựu của sự chuyển hướng này ở Việt Nam chưa thực sự rõ rệt. Tuy nhiên, nguy cơ sinh thái đang là vấn đề của toàn cầu, trong truyền thống văn học Việt Nam cũng có không ít nhân tố sinh thái… Cho nên, việc phát triển Phê bình sinh thái ở Việt Nam trong thời điểm hiện nay là cần thiết và có cơ sở.

Đ.V.H
(SH285/11-12)







 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN THÁI HỌCCó lẽ chưa bao giờ các vấn đề cơ bản của lý luận văn nghệ lại được đưa lên diễn đàn một cách công khai và dân chủ như khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới. Vấn đề tuyên truyền trong nghệ thuật tuy chưa nêu thành một mục riêng để thảo luận, nhưng ở nhiều bài viết và hội nghị, chúng ta thấy vẫn thường được nhắc tới.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO...Một câu ngạn ngữ Pháp nói rằng: “Khen đúng là bạn, chê đúng là thầy”. Câu ngạn ngữ này đúng trong mọi trường hợp, và riêng với văn học, Hoài Thanh còn vận thêm rằng: “Khen đúng là bạn của nhà văn, chê đúng là thầy của nhà văn”...

  • BẢO CHI                 (lược thuật)Từ chiều 13 đến chiều 15-8-2003, Hội nghị Lý luận – Phê bình văn học (LL-PBVH) toàn quốc do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức đã diễn ra tại khu nghỉ mát Tam Đảo có độ cao 1.000 mét và nhiệt độ lý tưởng 23oc. Đây là hội nghị nhìn lại công tác LL-PBVH 28 năm qua kể từ ngày đất nước thống nhất và sau 54 năm Hội nghị tranh luận Văn nghệ tại Việt Bắc (1949). Gần 200 nhà LL-PB, nhà văn, nhà thơ, nhà báo và khách mời họp mặt ở đây đã làm nóng lên chút đỉnh không khí ôn hoà của xứ lạnh triền miên...

  • ĐỖ LAI THÚY                Văn là người                                  (Buffon)Cuốn sách thứ hai của phê bình văn học Việt Nam, sau Phê bình và cảo luận (1933) của Thiếu Sơn, thuộc về Trần Thanh Mại (1911 - 1965): Trông dòng sông Vị (1936). Và, mặc dù đứng thứ hai, nhưng cuốn sách lại mở đầu cho một phương pháp phê bình văn học mới: phê bình tiểu sử học.

  • ĐẶNG TIẾNThuật ngữ Thi Học dùng ở đây để biểu đạt những kiến thức, suy nghĩ về Thơ, qua nhiều dạng thức và trong quá trình của nó. Chữ Pháp là Poétique, hiểu theo nghĩa hẹp và cổ điển, áp dụng chủ yếu vào văn vần. Dùng theo nghĩa rộng và hiện đại, theo quan điểm của Valéry, được Jakobson phát triển về sau, từ Poétique được dịch là Thi Pháp, chỉ chức năng thẩm mỹ của ngôn từ, và nới rộng ra những hệ thống ký hiệu khác, là lý thuyết về tính nghệ thuật nói chung. Thi Học, giới hạn trong phạm vi thi ca, là một bộ phận nhỏ của Thi Pháp.

  • TRẦN CAO SƠNTriều Nguyễn tồn tại gần 150 năm, kể từ khi Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế với niên hiệu Gia Long - năm1802, tạo dựng một đế chế tập quyền trên toàn bộ lãnh thổ mà trước đó chưa hề có. Trải qua một thế kỷ rưỡi tồn tại, vinh hoa và tủi nhục, Triều đại Nguyễn là một thực thể cấu thành trong lịch sử Đại Việt. Những cái do triều đình Nhà Nguyễn mang lại cũng rất có ý nghĩa, đó là chấm dứt cuộc nội chiến, tranh giành quyền lực, xương trắng máu đào liên miên mấy thế kỷ, kiến tạo bộ máy quản lý hành chính trung ương tập quyền thống nhất mà Quang Trung - Nguyễn Huệ đã dày công vun đắp gây dựng trước đó. Dân tộc đã phải trải qua những năm tháng bi hùng với nhiều điều nuối tiếc, đáng bàn đáng nói ngay ở chính hôm nay. Song lịch sử là lịch sử, đó là một hiện thực khách quan.

  • TRẦN HUYỀN SÂMNếu nghệ thuật là một sự ngạc nhiên thì chính tiểu thuyết Thập giá giữa rừng sâu là sự minh định rõ nhất cho điều này. Tôi bàng hoàng nhận ra rằng, luận thuyết: con người cao quý và có tình hơn động vật đã không hoàn toàn đúng như lâu nay chúng ta vẫn tin tưởng một cách hồn nhiên. Con người có nguy cơ sa xuống hàng thú vật, thậm chí không bằng thú vật, nếu không ý thức được giá trị đích thực của Con Người với cái tên viết hoa của nó. Phải chăng, đây chính là lời nói tối hậu với con người, về con người của tác phẩm này?

  • HOÀNG NGỌC HIẾN           ...Từ những nguồn khác nhau: đạo đức học, mỹ học, triết học xã hội-chính trị, triết học xã hội-văn hoá... cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình văn học là nỗ lực vượt lên trên những thành kiến và định kiến hẹp hòi trong sinh hoạt cũng như trong học thuật. Những thành kiến, định kiến này có khi lại được xem như những điều hiển nhiên. Mà đã là “hiển nhiên” thì khỏi phải bàn. Đây cũng là một thói quen khá phổ biến trong nhân loại. Cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình có khi bắt nguồn từ suy nghĩ về chính những điều “hiển nhiên” như vậy...

  • THÁI DOÃN HIỂUVào đời, Lưu Quang Vũ bắt đầu làm thơ, viết truyện, rồi dừng lại nơi kịch. Ở thể loại nào, tài năng của Vũ cũng in dấu ấn đậm đà làm cho bạn đọc cả nước đi từ ngạc nhiên đến sửng sốt. Thơ Lưu Quang Vũ một thời được lớp trẻ say sưa chép và thuộc. Kịch Lưu Quang Vũ một thời gần như thống trị sân khấu cả nước.

  • TRẦN THANH ĐẠMTrong lịch sử nước ta cũng như nhiều nước khác, thời cổ - trung đại cũng như thời cận - hiện đại, mỗi khi một quốc gia, dân tộc bị xâm lược và chinh phục bởi các thế lực bên ngoài thì trong nước bao giờ cũng phát sinh hai lực lượng: một lực lượng tìm cách kháng cự lại nạn ngoại xâm và một lực lượng khác đứng ra hợp tác với kẻ ngoại xâm.

  • ĐỖ LAI THUÝLTS: Trong số tháng 5-2003, Sông Hương đã dành một số trang để anh em văn nghệ sĩ Huế "tưởng niệm" nhà văn Nguyễn Đình Thi vừa qua đời. Song, đấy chỉ mới là việc nghĩa.Là một cây đại thụ của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam, Nguyễn Đình Thi toả bóng trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật. Bằng chứng qua các bài viết về ông sau đây, Sông Hương xin trân trọng dành thêm trang để giới thiệu sâu hơn, có hệ thống hơn về Nguyễn Đình Thi cùng bạn đọc.

  • ĐẶNG TIẾN…Nguyễn Đình Thi quê quán Hà Nội, nhưng sinh tại Luang Prabang, Lào, ngày 20/12/1924. Từ 1931 theo gia đình về nước, học tại Hải Phòng, Hà Nội. Năm 1941 tham gia Thanh Niên cưú quốc, 1943 tham gia Văn hóa cứu quốc, bị Pháp bắt nhiều lần. Năm 1945, tham dự Quốc Dân Đại hội Tân Trào, vào Ủy ban Giải phóng Dân tộc. Năm 1946, là đại biểu Quốc hội trẻ nhất, làm Ủy viên Thường trực Quốc hội, khóa I…

  • HỒ THẾ HÀ          Hai mươi lăm năm thơ Huế (1975 - 2000) là một chặng đường không dài, nhưng nó diễn ra trong một bối cảnh lịch sử - thi ca đầy phức tạp. Cuộc sống hàng ngày đặt ra cho thể loại những yêu cầu mới, mà thơ ca phải làm tròn sứ mệnh cao cả với tư cách là một hoạt động nhận thức nhạy bén nhất. Những khó khăn là chuyện đương nhiên, nhưng cũng phải thấy rằng bí quyết sinh tồn của chính thể loại cũng không chịu bó tay. Hơn nữa, đã đặt ra yêu cầu thì chính cuộc sống cũng đã chuẩn bị những tiền đề để thực hiện. Nếu không, mối quan hệ này bị phá vỡ.

  • JAMES REEVESGần như điều mà tôi hoặc bất kỳ nhà văn nào khác có thể nói về một bài thơ đều giống nhau khi nêu ra ấn tượng về điều gì đấy được in trên giấy. Tôi muốn nhấn mạnh rằng đây không phải là toàn bộ sự thật. Việc in trên giấy thực ra là một bài thơ gián tiếp. Sẽ dễ dàng thấy điều này nếu chúng ta đang nói về hội hoạ hoặc điêu khắc.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP...Nguyễn Huy Thiệp không phải là người duy nhất đổi mới phương thức trần thuật. Trước ông đã có Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng... tích cực mở đường. Nhưng phải đến Nguyễn Huy Thiệp thì sự khai phóng về tư tưởng nghệ thuật mới được thể hiện một cách đậm nét. Tất cả được Nguyễn Huy Thiệp kiến tạo qua một trò chơi đầy tính bất ngờ. Giống như người nghệ sĩ ba lê tài năng, Nguyễn Huy Thiệp trình diễn một thế giới đa sắc trên đầu những đầu mũi ngón chân. Những ngón chân ấy bám trụ vào hiện thực một cách tinh diệu, xoay chuyển một cách nhịp nhàng với những vòng quay, những vũ điệu ngôn từ...

  • PHAN NGỌC THUTrong nền văn học Việt Nam thế kỷ XX, Xuân Diệu (1916-1985) là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất, đồng thời cũng là nhà phê bình văn học kiệt xuất. Từ những bài tranh luận văn học sôi nổi thời Thơ Mới (1932-1945) đến Tiếng thơ (1951), Những bước đường tư tưởng của tôi (1958); từ Phê bình giới thiệu thơ (1960) đến Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ (1961), Dao có mài mới sắc (1963), Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy (1978), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập I (1981), tập II (1982) và Công việc làm thơ (1984)... "chỉ tính riêng các tác phẩm lý luận phê bình, đã có thể gọi Xuân Diệu là một đại gia"(1)

  • BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng đáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v..v...

  • HÀ KHÁNH CHINgày 20 - 3 - 2003, siêu cường lớn nhất mọi thời đại là đế quốc Hoa Kỳ đã mở đầu cuộc chiến tranh kỳ quái nhất trong lịch sử bằng cách tấn công Iraq sau khi đã bắt quốc gia này phải tự phá huỷ vũ khí tự vệ của chính họ. Đó là bài học chưa hề thấy về chút hy vọng cuối cùng mà lương tri nhân loại có thể đòi hỏi. Để có thể hiểu rõ hơn những gì đang xảy ra hôm nay - có lẽ cũng rất cần ôn lại một trong những vấn đề lớn nhất mà loài người có thể nghĩ tới: cuộc chiến tranh Việt Nam đã kết thúc cách đây gần 30 năm.

  • HOÀNG ĐĂNG KHOA Văn học Việt từ sau 1975, nhất là từ thời kỳ đổi mới, là một quá trình văn học rất phong phú, đa dạng và không ít phức tạp, lại còn đang tiếp diễn. Cuốn sách Văn học Việt Nam sau 1975 - Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy ra đời đáp ứng nhu cầu mang tính thời sự: nhu cầu nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, toàn diện về tiến trình văn học ba mươi năm qua, chuẩn bị cho sự ra đời của những công trình văn học sử và những chuyên khảo về giai đoạn văn học này.

  • NGUYỄN QUANG HÀTrong đời có những bài thơ người ta quên, mà chỉ nhớ một câu nằm lòng. Bởi đó là những câu thơ thực sự, những câu thơ thi sĩ. Từ xưa đến nay, đã có rất nhiều định nghĩa về thơ: Thơ là tiếng hát của trái tim; Thơ là hạt muối kết tinh của tình cảm; Thơ là phút giây rung động của tâm hồn... Nói chung, những định nghĩa ấy cho ta hiểu rằng ở đâu có được sự rung động của trái tim thì ở đó có thơ.