Phan Đăng Lưu với báo chí và văn học

14:47 16/10/2008
NGÔ ĐỨC TIẾNNăm 1959, nhân dịp vào thăm Bảo tàng Cách mạng Việt Nam, đến gian trưng bày hiện vật và hình ảnh đồng chí Phan Đăng Lưu, đồng chí Lê Duẩn phát biểu: “Đồng chí Phan Đăng Lưu là một trí thức cách mạng tiêu biểu”.

Chất “trí thức cách mạng tiêu biểu” của Phan Đăng Lưu thể hiện trước hết và trên hết ở những đóng góp quan trọng của Phan Đăng Lưu trong việc xây dựng đường lối cách mạng giải phóng dân tộc và giải quyết những vấn đề cụ thể của cách mạng như xây dựng lực lượng, tuyên truyền vận động quần chúng, chỉ đạo phong trào quần chúng đấu tranh công khai, bán công khai trong một giai đoạn sôi nổi, quyết liệt của cách mạng Việt Nam, thời kỳ 1930-1945, ở việc nêu gương hy sinh bất khuất trước họng súng kẻ thù. Nhưng trên lĩnh vực báo chí và văn học, Phan Đăng Lưu có những đóng góp quan trọng, trở thành một trong những nhà báo vô sản hàng đầu của cách mạng Việt .

Xuất thân trong một gia đình, một vùng quê có truyền thống yêu nước, hiếu học và nhân văn, Phan Đăng Lưu sớm bộc lộ tư chất và năng khiếu về lĩnh vực văn thơ. Ngay trong những năm còn trẻ, khi còn là đảng viên Tân Việt, Phan Đăng Lưu đã sáng tác câu đối, thơ ca phản ánh những cảnh chướng tai gai mắt diễn ra ở công đường, ở làng quê.
Một lần, hay tin Tổng đốc Nghệ An tổ chức bữa tiệc mừng được thăng chức, Phan Đăng Lưu làm đôi câu đối gián ở cổng Thành Vinh:
“Tổ quốc diệt vong, sung sướng đó linh đình yến tiệc
Đồng bào nô lệ, vẻ vang thay nhộn nhịp xướng ca”.
Khi về làng Tràng Thành (nay là xã Hoa Thành huyện Yên Thành tỉnh Nghệ An) thấy cảnh hào lý chè chén xôi thịt, ông làm thơ luật đường, làm vè phê phán, mô tả những tệ nạn ấy:
Sông Dinh, rú Gám cảnh thần tiên
Vì bọn cường hào đến đảo điên
Ăn uống sình nang quân đít đỏ (1)
Gánh gồng trễ cổ bạn dân đen (2)
Mất phần tri bộ trương gân nạt (3)
Hỏng miếng hoa cà lộn tiết lên (4)
Sâu mọt lũ này chưa quét sạch
Xóm làng khôn hưởng cảnh bình yên

Những năm 1930-1936, khi bị thực dân Pháp bắt giam ở nhà tù Ban Mê Thuột, Phan Đăng Lưu đã học tiếng Êđê, tổ chức ra tờ báo lấy tên là Doãn ĐÊ đê với hai thứ tiếng Kinh và Êđê, dùng làm tài liệu để tuyên truyền, giáo dục tù nhân và anh em binh lính người Êđê, Báo Tiếng Dân, tờ báo công khai do cụ Huỳnh Thúc Kháng làm chủ bút viết:
“Ông Phan Đăng Lưu là một người ham  nghiên cứu, ở Ban Mê Thuột mấy năm nay, tiếng mọi (chỉ tiếng dân tộc), chữ mọi cho đến phong tục mọi ông cũng thông thạo. Những bạn trí thức làng Đê cũng phải kính nể” (Báo Tiếng Dân số 757 ra ngày 2/1/1935).
Để tố cáo chế độ hà khắc của nhà tù, Phan Đăng Lưu viết nhiều bài báo bằng tiếng Pháp, bí mật gửi ra ngoài, có bài bị bọn cai ngục bắt được, ghép vào tội viết báo tuyên truyền chống lại chính phủ bảo hộ, tăng án lên 5 năm tù khổ sai.

Năm 1936, Phan Đăng Lưu lại được trả tự do và được bổ sung vào Xứ ủy Trung Kỳ, được Đảng phân công phụ trách phong trào đấu tranh công khai, bán công khai ở Huế và Trung Kỳ, nơi trung tâm đầu não của thực dân Pháp và bọn phong kiến triều. Với nhãn quan chính trị sáng suốt, với tài năng nhiều mặt, cùng với các đồng chí Lê Duẩn, Nguyễn Chí Diểu, Hải Triều, Bùi San, đồng chí Phan Đăng Lưu đã thể hiện rõ vai trò là linh hồn của cuộc đấu tranh đòi dân sinh dân chủ ở Huế và Trung Kỳ, góp phần đưa phong trào trở thành một cao trào cách mạng sôi nổi, rộng khắp của quần chúng “một thời kỳ vận động quần chúng sôi nổi chưa từng thấy dưới thời Pháp thống trị, chuẩn bị điều kiện để đưa quần chúng vào những trận chiến đấu quyết liệt mới trong thời kỳ 1940-1945” (Lê Duẩn - Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng).

Nhận thấy báo chí, văn học là công cụ tuyên truyền sắc bén, đồng chí Phan Đăng Lưu vừa xây dựng chỉ đạo các tờ báo, vừa trực tiếp đào tạo, đoàn kết tập hợp lực lượng báo giới, đặc biệt là các tri thức trẻ, hướng dẫn bồi dưỡng họ đi về với quần chúng lao động. Bản thân Phan Đăng Lưu cũng là cây bút chủ yếu viết chính luận, tiểu phẩm... cả tiếng Việt và tiếng Pháp. Các tờ báo Sông Hương tục bản (ra được 14 số, từ số 1 ra ngày 15/ 6/ 1937 đến số 14 ra ngày 14/ 10/ 1937), báo Dân (ra được 17 số), số đầu đăng những bài thơ đầu tiên của Tố Hữu. Người dân Cố đô Huế và bạn đọc cả nước thời bấy giờ thấy xuất hiện liên tục các bài báo sắc bén với hàng loạt bút danh: Sông Hương, Dân, Dân muốn, Phi Bằng, Tân Cương, Ly Toét, BCH, QB, SH, KD, Mục tiêu, Thương tâm, KĐ... trên các báo Sông Hương tục bản, Dân, Hồn trẻ, Tin tức, Nhành lúa... cả báo chí xuất bản ở Huế và ở Sài Gòn. Phan Đăng Lưu còn trực tiếp chỉ đạo nhà xuất bản Tư Tưởng, có trụ sở đóng ở Đà Nẵng, cộng tác với “Quan hải tùng thư” xuất bản những sách phổ thông về lịch sử dân tộc, về chủ nghĩa Mác-Lênin. Thời gian này, ngoài công việc chỉ đạo cuộc đấu tranh công khai, chỉ đạo báo chí, Phan Đăng Lưu còn viết một số tác phẩm lý luận và văn học. Sách lý luận có: “Xã hội tư bản”, “Thế giới cũ và thế giới mới”. Sách văn học có “Văn thơ các nhà chí sỹ Việt ” (Một số tác phẩm đã được tuyển chọn, in lại trong Tổng tập Văn học Việt - tập 37).

Cũng trong thời gian này, Phan Đăng Lưu đã cùng với Hải Triều tổ chức thành công Đại hội báo chí Trung Kỳ và góp nhiều ý kiến với Hải Triều trong cuộc tranh luận văn học vị nghệ thuật, văn học vị nhân sinh. Theo nhà nghiên cứu Chương Thâu, Phan Đăng Lưu còn gần gũi, động viên và giúp đỡ cụ Phan Bội Châu một số công việc trong biên soạn cuốn sách “Phan Bội Châu niên biểu”.
Trên bước đường hoạt động cách mạng, Phan Đăng Lưu luôn quan tâm đến việc bồi dưỡng lực lượng trí thức; và bằng tài năng, trang bị trí thức cho đội ngũ kế cận. Các đồng chí Nguyễn Chí Thanh, Tố Hữu, Thôi Hữu, Hồng Chương... đều có những kỷ niệm đẹp đẽ, sâu sắc về Phan Đăng Lưu.
Nhà thơ Tố Hữu kể lại:
“Một hôm anh hỏi tôi:
- Cậu biết làm thơ không?
Tôi đáp:
- Niêm luật đường thi, thơ lục bát thì tôi nắm được nhưng không biết thơ có hay không?
- Vậy thì tốt rồi - Anh Lưu nói - báo ta (tức báo Dân) hơi khô. Cậu biết làm thơ hãy làm những bài thơ về những người lao động nghèo khổ. Nghèo khổ không phải là số phận, mà là do đế quốc, phong kiến bóc lột, và do sưu thuế nặng nề. Những cảnh ăn mày, đầy tớ, trẻ mồ côi... có nhiều điểm cần viết để thức tỉnh nhân dân. Cậu cố gắng viết để đăng được mỗi số một bài hoặc vài số một bài, có thể nhờ đó mà dân thích đọc báo ta hơn. Nhưng phải chú ý: dễ hiểu, dễ nhớ và đừng dài dòng...
Tôi nói:
- Nếu viết những cái đó thì tôi viết được.
Như vậy, Phan Đăng Lưu chính là người thầy đầu tiên hướng tôi vào dòng thơ cách mạng.
Ba điều anh Lưu đã nói với tôi: Đời sống của nhân dân - chớ viết khó quá - và đừng dài quá...
(Tố Hữu: nhớ lại một thời: Báo Văn nghệ, số ra ngày 22/ 7/ 2000)
Trong bài thơ “Quê mẹ” Tố hữu viết:
“Con lớn lên con tìm cách mạng
Anh Lưu anh Diểu dạy con đi
Mẹ không còn nữa, con còn Đảng
Dìu dắt con khi chửa biết gì.”
Lúc sinh thời, phát biểu nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh đồng chí Phan Đăng Lưu (5-5-2002) với đoàn làm phim về Phan Đăng Lưu, nhà thơ Tố Hữu nói: “Phan Đăng Lưu là nhà lãnh đạo lỗi lạc, trí tuệ uyên bác, tác phong giản dị, gần gũi đã có sức cuốn hút lớp trí thức trẻ như chúng tôi và cả những trí thức lớn như cụ Phan Bội Châu, cụ Huỳnh Thúc Kháng... (Băng ghi âm lời phát biểu của nhà thơ Tố Hữu năm 2002).
Những đóng góp của nhà cách mạng Phan Đăng Lưu trên lĩnh vực báo chí và văn học quả là to lớn, cần được nghiên cứu và giới thiệu trong những công trình khoa học dài hơn. 
                         N.Đ.T

(nguồn: TCSH số 221 - 07 - 2007)

 



-------------------------
 (1) Quân đít đỏ: Chỉ quan viên, chức sắc ở làng, xã.
(2) Bạn dân đen: Nhân dân lao động.
(3) Tri bộ: 1 chức quan nhỏ ở làng.
(4) Hoa cà: bộ phận sinh dục (hai hòn dái) của con me trong dịp tế thần ở làng.

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • THÁI THU LANThông thường, mỗi văn nhân nghệ sĩ đều có nỗi đau đời, nỗi đau nhân thế. Nỗi đau này băt nguồn từ tấm lòng nhân ái và ý thức trách nhiệm của người nghệ sĩ trước cuộc sống và số phận con người qua những biến động của xã hội.

  • HOÀNG QUẢNG UYÊNTôi yêu mến và quý trọng những câu thơ như là "không thơ" của chị:Câu thơ nước chảy bèo trôi/ Vẫn nghiêng về phía phận đời khổ đau. (Hương cỏ)

  • FRANÇOIS JULLIEN                                        LTS: Hạ tuần tháng tư năm 2001, nhà triết học F.Jullien đến thăm Hà Nội nhân dịp lần đầu tiên công trình của ông được giới thiệu ở Việt Nam trong văn bản tiếng Việt (Xác lập cơ sở cho đạo đức- N.x.b Đà Nẵng, 2000). Cuối năm nay sẽ được xuất bản bản dịch công trình Bàn về tính hiệu quả ( F.Jullien. Traité de l’efficacité.Grasset, 1997). Sau đây là bản dịch chương III của tác phẩm này (do khuôn khổ của tạp chí, có lược đi một số đoạn). Nhan đề do chúng tôi đặt. Trong bài, số thiên đơn thuần (chẳng hạn th.81) là số thiên trong sách Đạo Đức Kinh còn gọi là sách Lão tử.

  • NGÔ MINH Tôi quen biết với anh Tường hơn 25 năm nay ở Huế như một người bạn vong niên thân thiết. Trong máy tính của tôi còn lưu trữ bài Anh Tường ơi viết từ năm 1998, gần 3000 chữ chưa công bố. Đó là bài viết mà nhà văn Nguyễn Quang Hà, Tổng biên tập Tạp chí Sông Hương lúc đó, bảo tôi viết, sau chuyến chúng tôi đi thăm anh Tường bị trọng bệnh đang nằm hôn mê ở Bệnh viện Đà Nẵng về.

  • HỒ THẾ HÀHoàng Phủ Ngọc Tường dấn thân vào nghiệp bút nghiên bằng thơ cùng những năm tháng "hát cho đồng bào tôi nghe" sục sôi nhiệt huyết đấu tranh chống thù và ước mơ hòa bình trên quê mẹ Việt yêu dấu.

  • PHẠM PHÚ PHONG"Tôi ngồi nhớ lại tất cả nỗi trầm tư dài bên cạnh mớ hài cốt khô khốc của anh Hoàng. Trước mắt tôi, tất cả cuộc sống đầy những hùng tráng và bi thương vốn đã từng tồn tại trên mảnh đất rừng này, giờ đã bị xoá sạch dấu tích trong sự câm nín của lau lách. Như thế đấy có những con đường không còn ai đi nữa, những năm tháng không còn ai biết nữa, và những con người chết không còn hắt bóng vào đâu nữa...

  • LÊ THỊ HƯỜNG1. Yêu con người Hoàng Phủ Ngọc Tường trong thơ, quý con người Hoàng Phủ trong văn, tôi đã nhiều lần trăn trở tìm một từ, một khái niệm thật chính xác để đặt tên cho phong cách Hoàng Phủ Ngọc Tường.

  • TRẦN THÙY MAICó lần anh Hoàng Phủ Ngọc Tường nói: tính chất của người quân tử là phải "văn chất bân bân". Văn là vẻ đẹp phát tiết ra bên ngoài, chất là sức mạnh tiềm tàng từ bên trong. Khi đọc lại những bài nghiên cứu về văn hóa – lịch sử của anh Tường, tôi lại nhớ đến ý nghĩ ấy. Nếu "văn" ở đây là nét tài hoa duyên dáng trong từng câu từng chữ đem lại cho người đọc sự hứng thú và rung cảm, thì "chất" chính là sức mạnh của vốn sống, vốn kiến thức rất quảng bác, làm giàu thêm rất nhiều cho sự hiểu biết của người đọc.

  • TRƯƠNG THỊ CÚCXuất thân từ một gia đình hoàng tộc, cử nhân Hán học, giỏi chữ Hán, thông thạo chữ  Pháp, từng làm quan dưới thời Nam triều, nhưng Ưng Bình Thúc Giạ Thị là một nhân cách độc đáo.

  • HỮU VINH Chúng ta đã thưởng thức thơ, ca Huế, ca trù, hò, tuồng của thi ông Ưng Bình Thúc Giạ Thị, một nhà thơ lừng lẫy của miền sông Hương núi Ngự. Nhưng nói đến sự nghiệp văn chương của thi ông mà không nói đến thơ chữ Hán của thi ông là một điều thiếu sót lớn.

  • ĐỖ LAI THÚYQuang Dũng nói nhiều đến mây, đặc biệt là mây trời Sơn Tây, Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm! Mây là biểu tượng của tự do, của lãng du. Mây trắng là xứ sở của tiêu dao trường cửu. Chất mây lãng tử ở Quang Dũng, một phần do thổ ngơi xứ Đoài, phần kia do văn học lãng mạn.

  • CAO XUÂN HẠOĐọc bài Nỗi đau của tiếng Việt của Hữu Đạt (H.Đ) trong tuần báo Văn nghệ số 9 (2-3-2002), tôi kinh ngạc đến nỗi không còn hiểu tại sao lại có người thấy mình có thể ngồi viết ra một bài như thế. Tôi cố sức bới óc ra nghĩ cho ra người viết là ai, tại sao mà viết, và viết để làm gì. Rõ ràng đây không phải là một người hoàn toàn không biết gì về giới ngôn ngữ học Việt . Nhưng hầu hết những điều người ấy viết ra lại hoàn toàn ngược với sự thật.

  • MAI VĂN HOAN.Tôi biết Nguyễn Duy qua bài thơ “Tre Việt ” in trên báo Văn Nghệ. Từ đó, tôi luôn theo sát thơ anh. Mở trang báo mới thấy tên anh là tôi đọc đầu tiên. Với tôi, anh là một trong những người hiếm hoi giữ được độ bền của tài năng.

  • THỦY TRIỀU SUNG HUYỀN"Đây thôn Vĩ Dạ" là một bài thơ nổi tiếng của Hàn Mặc Tử đã từng có nhiều cách hiểu, cách tiếp cận khác nhau. Đành rằng ngôn ngữ thơ ca thường hàm súc, cô đọng, đa nghĩa do đó có thể có nhiều cách tiếp cận tác phẩm.

  • NGUYỄN DƯƠNG CÔNMỗi loại hình nghệ thuật ngôn từ đều có phong cách riêng trong cư xử với đối tượng mà nó phản ánh. Chính vì thế, đề tài tiểu thuyết trong khi mang những tính chất chung có của mọi thể loại văn học, nó đồng thời mang những tính chất riêng chỉ có của thể loại tiểu thuyết.

  • VĂN TÂMNhà thơ Bằng Việt (tên thật Nguyễn Việt Bằng) tuổi Tỵ (1941) quê "xứ Đoài mây trắng lắm", là một trong những thi sĩ bẩm sinh của thơ ca Việt hiện đại.

  • THANH THẢOHoàng Phủ Ngọc Tường có tập thơ "Người hái phù dung". Hoa phù dung sớm nở tối tàn, vẫn là loài hoa hiện hữu trong một ngày.

  • JOSH GREENFELDNgười Nhật vốn nổi tiếng vì tính bài ngoại của họ, thể hiện qua nghệ thuật cắm hoa và trà lễ. Tuy nhiên cũng từ rất lâu rồi nhiều nhà văn Nhật Bản vẫn quyết liệt phấn đấu mong tìm kiếm một chỗ đứng đáng kể trên các kệ sách của các thư viện nước ngoài. Họ làm thế không chỉ vì có nhiều tiền hơn, danh tiếng hơn mà còn vì một điều rằng những ai có tác phẩm được dịch nhiều ở nước ngoài thì sẽ được trân trọng, chờ đón ở trong nước!

  • BỬU NAM            Kỷ niệm 200 năm ngày sinh của văn hào Victor Hugo (1802 - 2002)1. Người ta thường gọi Hugo là “con người đại dương”. Bởi sự vĩ đại của tư tưởng và sự mệnh mông của tình cảm của ông đối với nhân dân và nhân loại, bởi sự nghiệp đồ sộ của ông bao hàm mọi thể loại văn học và phi văn học; bởi sự đa dạng của những tài năng của ông in dấu ấn trong mọi lĩnh vực hơn hai thế kỷ qua trong nền văn học và văn hóa Pháp. Đến độ có nhà nghiên cứu cho rằng: Tất cả những vấn đề lớn của nhân loại đều hàm chứa trong các tác phẩm của Hugo như “tất cả được lồng vào tất cả”.

  • LẠI MAI HƯƠNGTiểu thuyết Những người khốn khổ có một số lượng nhân vật nữ rất đông đảo, nhưng mỗi nhân vật mang một sức sống riêng, một sinh lực riêng bởi nghệ thuật xây dựng các nhân vật này không hoàn toàn đồng nhất. Bài viết sẽ đi vào khảo sát một số nữ nhân vật tiêu biểu, bước đầu thử tìm hiểu thủ pháp xây dựng và cái nhìn của Hugo đối với loại nhân vật này.