Phác họa tiến trình tiểu thuyết lịch sử Việt Nam từ giai đoạn Trung đại đến nay

09:37 04/09/2018

NGUYỄN VĂN HÙNG     

Tiểu thuyết lịch sử đã xuất hiện từ lâu trong văn học Việt Nam. Cùng những thăng trầm, biến động của dân tộc, thể tài này đã dần khẳng định được sứ mệnh cao cả, ý nghĩa lớn lao không chỉ trong đời sống văn học mà cả đời sống tinh thần người Việt.

Với nhu cầu, thực tiễn ở mỗi thời kì khác nhau, tiểu thuyết lịch sử có khi trở thành một trong những thể loại chủ lưu, có lúc lại đánh mất vị thế, thậm chí không ít lần vắng mặt trong đời sống văn học nước nhà. Mặc dù vậy, như một mạch nguồn không bao giờ vơi cạn, tiểu thuyết lịch sử đã và đang chiếm vị trí quan trọng trong lịch sử văn học Việt Nam. Nhìn lại tiến trình phát triển từ giai đoạn văn học Trung đại đến nay, chúng ta có thể nhận diện tiểu thuyết lịch sử Việt Nam qua bốn giai đoạn chính. Mỗi giai đoạn mang những đặc điểm riêng về cơ sở lịch sử, xã hội, thẩm mỹ, khung tri thức thời đại; cùng với đó là sự vận động, đổi mới không ngừng của thể loại nhằm phù hợp với nhu cầu phát triển chung của nền văn học nước nhà.

Tiểu thuyết lịch sử giai đoạn Trung đại

Văn xuôi tự sự thời Trung đại xuất hiện khá sớm, ngay từ những năm đầu khi mới giành được độc lập. Hai đặc điểm dễ nhận thấy nhất của văn xuôi tự sự giai đoạn này đó là chưa tách khỏi văn học chức năng (hành chính, tôn giáo) và dấu ấn văn học dân gian trong lối tự sự còn khá đậm đặc. Nằm trong dòng chảy chung ấy, lĩnh vực tự sự lịch sử cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc những đặc điểm ấy. Nó hiện hữu trong sự “lưỡng lự” giữa một bên là văn học chức năng hành chính (lối viết sử) và bên kia là văn học chức năng tôn giáo (lối viết thần tích). Việt điện u linh tập (nửa đầu thế kỉ XIV) của Lý Tế Xuyên và Lĩnh Nam chích quái (cuối thế kỉ XIV) của Trần Thế Pháp là hai trong số tác phẩm tự sự gợi hứng nhiều nhất cho dòng tự sự lịch sử giai đoạn sau.

Dấu ấn đáng kể nhất đánh dấu quá trình hình thành thể loại tự sự lịch sử Trung đại, đó là sự xuất hiện Thiên Nam vân lục liệt truyện của Nguyễn Hàng khoảng nửa đầu thế kỉ XVI, Thiên Nam liệt truyện (Nguyễn Cảnh thị Hoan Châu ký) của dòng họ Nguyễn ở Hoan Châu khoảng giữa thế kỉ XVIII và Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô gia văn phái khoảng cuối thế kỉ XVIII. Dựa vào ba tác phẩm có trước Lĩnh Nam chích quái lục, Việt điện u linh tập và Thiền uyển tập anh ngữ lục, Nguyễn Hàng đã tổ chức xây dựng lại cốt truyện và nhân vật, khiến cốt truyện sinh động, phức tạp hơn và nhân vật đậm chất nghệ thuật, giàu sức khái quát hơn. Với những truyện tiêu biểu như Vuốt rồng, Trương vương, Hai anh em họ Trương, Phạm Cự Nhĩ, Lý Phục Man..., Thiên Nam vân lục liệt truyện được các nhà nghiên cứu đánh giá là “cuộc “cách mạng” trong quan niệm của các tác gia tự sự lịch sử thế kỉ XV - XVII”, “nấc thang đưa tự sự lịch sử tiến dần đến loại hình văn học đích thực”(1), và Nguyễn Hàng được ghi nhận là người “đã có công đẩy tự sự lịch sử lên một bước”(2). Thiên Nam liệt truyện được coi là tác phẩm đầu tiên viết về chiến tranh Lê - Mạc dưới hình thức chương hồi trong văn xuôi tự sự Việt Nam thời Trung đại. Không còn thế “lưỡng lự” như các tác phẩm trước đó, tác giả của nó đã thể hiện ý hướng rõ nét trong việc dung hòa giữa lối viết gia phả, lối viết lịch sử kiểu liệt truyện với hình thức tiểu thuyết chương hồi. Bên cạnh tái hiện chân thực các sự kiện, biến cố lịch sử trong gần 110 năm (1536 - 1645); tác giả đã bắt đầu chú tâm khai thác tâm lý nhân vật với những suy nghĩ, cảm xúc sinh động. Thiên Nam liệt truyện đã đánh dấu một bước tiến trong loại hình tiểu thuyết chương hồi Việt Nam. Nấc thang từ Thiên Nam vân lục liệt truyện và bước tiến của Thiên Nam liệt truyện đã được hoàn thiện trong Hoàng Lê nhất thống chí (cuối thế kỉ XVIII). Tác phẩm của Ngô gia văn phái chính là đỉnh cao của tiểu thuyết chương hồi Việt Nam thời Trung đại. Đây là tác phẩm duy nhất phản ánh phong trào Tây Sơn một cách chân thực, sinh động. Không chỉ có giá trị về lịch sử, cuốn tiểu thuyết còn có ý nghĩa quan trọng bởi sự tròn trịa về hình thức thể loại cũng như sự phong phú về giá trị thẩm mĩ. Các tác giả của nó đã lựa chọn một trong những thời điểm phức tạp, nóng bỏng nhất trong lịch sử, cùng những xung đột, mâu thuẫn gay gắt nhất của dân tộc, gắn với nhiều chân dung lịch sử tiêu biểu của thời đại để tái hiện. Không gian được mở rộng, nhân vật được cá tính hóa cao độ, giọng điệu khá phong phú, ngôn ngữ sắc nét..., tất cả đã làm nên nét độc đáo cho tác phẩm, đánh dấu một đỉnh cao tự sự lịch sử Trung đại Việt Nam.

Bên cạnh những dốc mốc quan trọng đó, dòng tự sự lịch sử Trung đại còn ghi nhận các tác phẩm tiêu biểu khác như Nam triều công nghiệp diễn chí (1719) của Nguyễn Khoa Chiêm, Hoàng Việt long hưng chí (1904) của Ngô Giáp Đậu, Việt Lam tiểu sử (1908) của Lê Hoan. Nhìn chung, tiểu thuyết lịch sử giai đoạn này nghiêng về tính chất tả thực, nặng về mô tả, ít phân tích, luận giải. Mặc dù yếu tố hư cấu đã được một số tác giả quan tâm đưa vào diễn ngôn tự sự lịch sử, song còn khá mờ nhạt, không ít tác phẩm chưa thoát khỏi lối viết lịch sử. Các tác phẩm chịu ảnh hưởng khá đậm nét từ mô hình kết cấu tự sự của thể loại chương hồi. Mở đầu mỗi hồi đều có hai câu văn theo thể biền ngẫu tóm lược tinh thần nội dung của hồi đó và để kết thúc hồi, mở ra hồi mới là câu kết - mở quen thuộc: “Muốn biết sự việc xảy ra thế nào, xem hồi sau sẽ rõ”. Ngoài ra, các tác giả còn sử dụng những mẫu lời dẫn để chuyển ý, chuyển việc, chuyển đoạn, chuyển câu chuyện như: “Lại nói…”, “Một hôm…”, “Nói về…”, “Nguyên vốn là…”. Mạch thời gian theo lối tuyến tính, một chiều, ít có sự đảo chiều, xoay chiều.

Có thể nói, từ khi văn học viết xuất hiện, ở Việt Nam đã có một truyền thống liền mạch về truyện lịch sử, truyện danh nhân, những thần tích, thần phả. Đó là một trong những cơ sở quan trọng cho sự ra đời của tiểu thuyết lịch sử. Chính các tiền đề quý báu này đã góp phần nuôi dưỡng, kích thích sự nở rộ, phát triển mạnh mẽ của tự sự lịch sử những năm đầu thế kỉ XX. Kể từ đây, tiểu thuyết lịch sử bắt đầu khẳng định được vị trí vững chắc trong nền văn học dân tộc với tư cách là một trong những thể loại nòng cốt của văn học.

Tiểu thuyết lịch sử giai đoạn từ đầu thế kỉ XX đến 1945

Với những tiền đề nội sinh và sự ảnh hưởng của văn hóa, văn học bên ngoài gắn với tiến trình hiện đại hóa văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XX, tiểu thuyết lịch sử đã có bước tiến vượt bậc trên nhiều phương diện: đội ngũ sáng tác, số lượng tác phẩm, quan niệm thẩm mĩ, giá trị tư tưởng, hình thức nghệ thuật... Sự nở rộ của tiểu thuyết lịch sử giai đoạn này được ghi nhận là một tất yếu khách quan, một nhu cầu đổi mới tự thân của nền văn học nước nhà.

Trong hoàn cảnh lịch sử ngặt nghèo lúc bấy giờ, để vượt qua sự kiểm duyệt khắc nghiệt của thực dân Pháp, các nhà văn không còn con đường nào khác là “mượn xưa nói nay”, tái hiện những giai đoạn lịch sử vẻ vang cùng nhiều chân dung anh hùng của dân tộc, nhằm gián tiếp đánh thức niềm tự tôn dân tộc, nhắc nhở ý thức trách nhiệm của mỗi cá nhân trước sự tồn vong của dân tộc. Trong khi đó, việc giao lưu, tiếp xúc với văn hóa, văn học nước ngoài (Trung Quốc, Pháp) tạo cơ hội trong việc đẩy nhanh tiến trình hiện đại hóa văn học nói chung và tiểu thuyết lịch sử nói riêng. Chúng ta dễ dàng nhận ra sự ảnh hưởng rõ nét của văn học nước ngoài trong cảm thức, lối viết, phương thức tự sự lịch sử. Tất cả đã làm nên một “mùa vàng” của tiểu thuyết lịch sử trong đời sống văn học dân tộc.

Mở đầu cho giai đoạn này là tác phẩm Trùng Quang tâm sử của Phan Bội Châu. Điều khá thú vị, đây là tiểu thuyết được viết bằng chữ Hán. Nó đã phần nào cho thấy điểm gạch nối giữa tiểu thuyết lịch sử Trung đại và tiểu thuyết lịch sử hiện đại. Vì lẽ đó, tác phẩm của Phan Bội Châu vừa kế thừa những đặc trưng của tiểu thuyết giai đoạn trước, vừa có sự đổi mới cho phù hợp với quan niệm sáng tác, tư tưởng thời đại và thị hiếu công chúng đương thời. Với cảm thức chiêm bái, ngưỡng vọng, nhà văn họ Phan đã ngợi ca công lao của các vị anh hùng dân tộc trong cuộc đấu tranh chống lại ách đô hộ của nhà Minh đầu thế kỉ XV tại trại Trùng Quang, Nghệ An. Không chỉ hướng về lãnh tụ khởi nghĩa, tác giả còn thể hiện một cái nhìn mới mẻ về vai trò của nhân dân, đặc biệt là người phụ nữ trong việc tạo dựng sức mạnh toàn dân tộc nhằm chống lại sự xâm lược của quân giặc.

Sau Trùng Quang tâm sử, hàng loạt tiểu thuyết lịch sử gây tiếng vang ở hai miền Bắc, Nam được công bố: Tiếng sấm đêm đông (1928), Đinh Tiên Hoàng (1929), Vua Bố Cái (1929), Lê Đại Hành (1929) - Nguyễn Tử Siêu; Giọt máu chung tình (1926), Gia Long tẩu quốc (1930), Hoàng tử Cảnh như Tây (1931), Gia Long phục quốc (1932) - Tân Dân Tử; Việt Nam Lê Thái Tổ (1929) - Nguyễn Chánh Sắt; Việt Nam anh kiệt (1926), Việt Nam Lý trung hưng (1929), Lê triều Lý thị (1931), Tiền Lê vận mạt (1932), Trần Hưng Đạo (1933) - Phạm Minh Kiên... Tiểu thuyết lịch sử khoảng 30 năm đầu thế kỉ XX tập trung phục dựng những sự kiện, biến cố trọng đại trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam. Cùng với đó nhiều tác giả đã ngợi ca công lao to lớn của các vị anh hùng dân tộc, những bậc trai tài gái sắc đã cống hiến cho sự nghiệp đánh giặc cứu nước. Không ít vấn đề nội trị, những mối mâu thuẫn, giao tranh giữa các tập đoàn, thế lực, phe cánh trong nước được một số tác giả tái hiện. Nhìn chung, hầu hết các tác phẩm trong giai đoạn này đều chịu ảnh hưởng của lối kết cấu chương hồi khá rõ nét. Nghệ thuật miêu tả nhân vật thiên về hành động, đời sống nội tâm cũng được chú ý nhưng không nhiều. Ngôn ngữ chịu ảnh hưởng đậm nét của lối văn cổ điển - biền ngẫu. Bên cạnh đó đã bắt đầu xuất hiện những tiểu thuyết mang dáng dấp của tiểu thuyết hiện đại phương Tây (tác phẩm của Tân Dân Tử). Dung lượng văn bản và số lượng nhân vật được gia tăng đáng kể. Đa phần các tác phẩm giai đoạn trước chỉ dao động khoảng trên dưới 100 trang văn bản, với khoảng 30 - 40 nhân vật; đến nay xuất hiện nhiều hơn những tác phẩm có độ dày trên dưới 200 trang, với hàng trăm nhân vật, đa dạng về ngoại hình, tính cách, vai trò (Vua bà Triệu Ẩu - 150 trang/100 nhân vật, Hai Bà đánh giặc - 383 trang/114 nhân vật, Thế kỉ 18 bằng Quận Công - 157 trang/122 nhân vật).

Từ đầu những năm 1930 đến 1945, tiểu thuyết lịch sử có sự phát triển mạnh mẽ, đạt được nhiều dấu ấn và thành tựu quan trọng. Đội ngũ người viết đông đảo, số lượng tác phẩm không ngừng gia tăng, đặc biệt có nhiều sự đổi mới về cảm thức, tư duy và phương thức tự sự lịch sử. Có thể kể đến những tác phẩm tiêu biểu xoay quanh hai mảng đề tài chống xâm lược và nội trị như: Trần Nguyên chiến kỷ (1935), Việt Thanh chiến sử (1935), Hai Bà đánh giặc (1936), Vua bà Triệu Ẩu (1936) - Nguyễn Tử Siêu; Đêm hội Long Trì (1942), An Tư (1944) - Nguyễn Huy Tưởng; Tiêu Sơn tráng sĩ (1937) - Khái Hưng; Chiếc ngai vàng (1937), Ai lên Phố Cát (1937), Cái hột mận (1938), Gái thời loạn (1938), Treo bức chiến bào (1949) - Lan Khai; Hòm đựng người (1936), Bà Chúa Chè (1938), Loạn kiêu binh (1939), Ngược đường Trường Thi (1939) Chúa Trịnh Khải (1940), Rắn báo oán (1941) - Nguyễn Triệu Luật… Bên cạnh lối viết truyền thống của tiểu thuyết chương hồi, bắt đầu xuất hiện những ý hướng cách tân thể loại theo tiểu thuyết hiện đại phương Tây (Lan Khai, Nguyễn Triệu Luật).

Do ảnh hưởng thi pháp lãng mạn của tiểu thuyết phương Tây, nhiều tác phẩm trong giai đoạn này đã khai thác chủ đề tình yêu đôi lứa, tạo dựng diễn ngôn đời tư, thế sự khá đặc sắc. Nhờ vậy, tâm lí nhân vật cùng những chuyển biến phức tạp trong đời sống nội tâm được quan tâm thể hiện. Yếu tố hư cấu và chất tiểu thuyết trong tự sự lịch sử được gia tăng một cách rõ rệt. Một số tác phẩm chỉ neo vào một vài chi tiết trong lịch sử, từ đó sáng tạo, tưởng tượng nên thế giới nghệ thuật sinh động (Nguyễn Tử Siêu, Nguyễn Huy Tưởng...). Đặc biệt, không ít nhà văn đã thể nghiệm lối kể chuyện hiện đại với sự đổi mới trong tổ chức điểm nhìn trần thuật, sự linh hoạt trong xây dựng kết cấu, sự đa dạng trong kiến tạo ngôn ngữ và giọng điệu (tiểu thuyết của Lan Khai, Nguyễn Triệu Luật...).

Mặc dù vẫn còn những giới hạn trong việc phân tích, luận giải lịch sử cũng như nghệ thuật xây dựng tiểu thuyết; song tiểu thuyết lịch sử giai đoạn 1930 - 1945 đã có bước tiến vượt bậc về ý nghĩa tư tưởng, giá trị thẩm mỹ và hình thức nghệ thuật. Và đây cũng chính là tiền đề để tiểu thuyết lịch sử vượt thoát khỏi mô hình truyền thống, tiến đến hiện đại hóa sâu rộng trên nhiều bình diện.

Tiểu thuyết lịch sử giai đoạn từ 1945 đến 1986

Cách mạng tháng Tám 1945 đã mở ra một giai đoạn mới trong lịch sử dân tộc, đồng thời cũng tạo ra thời đại mới trong văn học nước nhà. Văn học giai đoạn này gắn chặt chẽ với sứ mệnh phục vụ hai cuộc chiến tranh cứu nước và giải phóng dân tộc. Về mặt đề tài, các nhà văn ưu tiên phản ánh những vấn đề thời sự nóng hổi của dân tộc: bước đi của cách mạng, vận mệnh của dân tộc, đời sống của nhân dân. Về mặt cảm hứng, văn học ngợi ca chủ nghĩa anh hùng và tinh thần lạc quan cách mạng, đề cao ý thức và sức mạnh cộng đồng, khẳng định lý tưởng và niềm tin bất diệt vào thắng lợi chính nghĩa. Về mặt thể loại, thơ, truyện ngắn, kí - những thể loại ngắn gọn, giàu thông tin thời sự có nhiều cơ hội phát triển hơn những tác phẩm văn xuôi có tính dài hơi, trong đó có tiểu thuyết lịch sử.

Mặc dù chưa được quan tâm như các đề tài và thể loại khác, song tiểu thuyết lịch sử giai đoạn này vẫn đạt được những dấu ấn và thành tựu đáng kể. Cũng như các thể loại khác, tiểu thuyết lịch sử giai đoạn này hướng đến nhiệm vụ chính trị, cổ vũ tinh thần đấu tranh qua việc khắc họa truyền thống yêu nước, anh hùng cách mạng của dân tộc. Nổi lên có các tác giả tiêu biểu như Lan Khai - Treo bức chiến bào (1949); Toan Ánh - Thanh gươm Bắc Việt (1950); Nguyễn Huy Tưởng - Sống mãi với thủ đô (1960), Lá cờ thêu sáu chữ vàng (1960); Hà Ân - Bên bờ Thiên Mạc (1967), Tổ quốc kêu gọi (1972), Trên sông truyền hịch (1980), Người Thăng Long (1981); Chu Thiên - Hùng khí Thăng Long (1964), Bóng nước Hồ Gươm (1970); Thái Vũ - Cờ nghĩa Ba Đình (1981), Biến động (1984); Nguyên Hồng - Núi rừng Yên Thế (1981); Sơn Tùng - Búp sen xanh (1981); Nguyễn Đức Hiền - Sao Khuê lấp lánh (1984)...

Hầu hết các tác phẩm trong giai đoạn này đều tập trung tái hiện nhiều sự kiện trọng đại trong lịch sử vẻ vang của dân tộc. Điểm khác biệt so với giai đoạn trước là song song với cảm hứng ngợi ca truyền thống anh hùng từ ngàn đời, tiểu thuyết giai đoạn này đã khắc họa hình ảnh nhân dân, nâng lên thành biểu tượng cho vẻ đẹp, sức mạnh, khát khao của thời đại và dân tộc. Cùng với đó, âm hưởng sử thi dào dạt trên từng trang văn và mỗi nét khắc họa chân dung nhân vật mang lại bức tranh lịch sử hoành tráng, hào hùng. Tư duy tự sự lịch sử cũng được nâng lên một bước khi kết hợp hài hòa giữa tư liệu lịch sử và hư cấu nghệ thuật tạo nên diễn ngôn dân tộc, thời đại sắc nét, chân thực. Tuy tiểu thuyết lịch sử giai đoạn này có sự phát triển kém sôi động và chưa thật nhiều thành tựu, chưa gây được tiếng vang so với các thể loại khác như thơ, truyện ngắn, kí; song ở một phương diện nào đó, thể loại này vẫn tiếp nối mạch cảm thức có từ trước, cùng với đó là những tìm tòi, thể nghiệm riêng, tạo tiền đề cho những đổi mới, cách tân thể loại giai đoạn sau.

Tiểu thuyết lịch sử giai đoạn sau 1986

Sau năm 1986, văn học nói chung và tiểu thuyết lịch sử nói riêng có sự vận động và đổi mới trong điều kiện hoàn toàn khác biệt so với những năm tháng đất nước còn chiến tranh. Đời sống văn học nước nhà vận động, phát triển dưới tác động của hàng loạt nhân tố mang tính thời đại như ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường, bùng nổ của các phương tiện thông tin đại chúng, chuyển biến trong thị hiếu tiếp nhận, giao lưu, tương tác đa chiều, đa phương của các nền văn hóa/văn học trong kỉ nguyên toàn cầu hóa. Sự đổi mới và sáng tạo trong không gian văn hóa mới tạo nên những tiền đề quan trọng để mỗi tác giả khai phóng trong ý tưởng, phiêu lưu trong bút pháp, thể nghiệm trong nghệ thuật tự sự tạo nên bức tranh đa chiều, sinh động của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau 1986.

Sau “bộ ba nổi loạn” - Kiếm sắc, Phẩm tiết, Vàng lửa của Nguyễn Huy Thiệp, các nhà văn giai đoạn này đã thay đổi cách thức tiếp cận và cái nhìn về lịch sử: Viết/đọc văn phải khác viết/đọc sử. Các tiểu thuyết gia thiên về luận giải lịch sử hơn là mô tả, minh họa lịch sử. Sự diễn giải ấy bao chứa quan niệm mới về lịch sử và diễn ngôn (về) lịch sử. Từ đây mở ra chân trời mới cho những tưởng tượng và diễn giải lịch sử, làm xuất hiện nhiều khuynh hướng, cảm thức, cùng những lối viết rất khác biệt: khuynh hướng chương hồi khách quan (Lê Đình Danh - Tây Sơn bi hùng truyện, Yên Tử cư sĩ Trần Đại Sĩ - Nam quốc sơn hà, Vũ Ngọc Đĩnh - Mười hai sứ quân, Phùng Văn Khai - Phùng Vương); khuynh hướng giáo huấn, “dùng văn dạy sử” (Hoàng Quốc Hải - Bão táp triều Trần, Tám triều vua Lý); khuynh hướng phân tích, luận giải (Nguyễn Xuân Khánh - Hồ Quý Ly, Mẫu Thượng Ngàn; Võ Thị Hảo - Giàn thiêu; Bùi Anh Tấn - Đàm đạo về Điều Ngự Giác Hoàng, Oan khuất; Nguyễn Thế Quang - Nguyễn Du, Thông reo Ngàn Hống; Nguyễn Quang Thân - Hội thề; Phan Ngọc Cảnh Nam - Thế kỉ bị mất; Thái Bá Lợi - Minh sư; Trần Thu Hằng - Đàn đáy; Nguyễn Mộng Giác - Sông Côn mùa lũ; Nam Dao - Gió lửa, Đất trời; Uông Triều - Sương mù tháng Giêng; Lưu Sơn Minh - Trần Khánh Dư; Trần Thanh Cảnh - Đức Thánh Trần...).

Các tác phẩm tiêu biểu này không chỉ mở rộng đề tài, chủ đề theo hướng tiếp cận gần gũi hơn với hiện thực đời sống sinh hoạt, đời tư thế sự, đời sống văn hóa tâm linh dân tộc, mà quan niệm của các nhà văn về một số vấn đề về thể loại và về lịch sử cũng mang những màu sắc thẩm mỹ mới. Hiện thực lịch sử không chỉ thu gọn trong những biến cố, sự kiện và đời sống cộng đồng qua cái nhìn ngưỡng vọng, chiêm bái mà rộng hơn, sâu hơn, “đời hơn”. Văn học sáng tạo về lịch sử đã đi đúng vào bản chất, khám phá lịch sử, văn hóa và con người ở tầng vỉa sâu của những bí ẩn, khuất lấp “bề sau, bề sâu, bề xa”. Trong khi miêu tả lịch sử, nhà văn đã mang lại cho lịch sử những “gương mặt người”. Cái nhìn đời tư - thế sự - nhân văn đã thực sự giữ vai trò cốt yếu trong cảm quan nghệ thuật của các nhà văn sáng tạo về đề tài lịch sử. Nhiều nhà văn đề xuất những cách nhìn mới về lịch sử, mở rộng cái nhìn đối với nhiều thời đại trong quá khứ, truy tìm, suy ngẫm và giải mã những vấn đề trong quá khứ, ráo riết tìm lời giải đáp cho các câu hỏi thiết thực của hiện tại. Lịch sử trong tiểu thuyết lúc này trở thành lịch sử trong cảm nhận, diễn ngôn cá nhân, được nhà văn nhìn nhận bằng cái nhìn triết học và thụ hưởng trên tinh thần nhân văn hiện đại.

Cùng với đó, sự cách tân, thể nghiệm độc đáo về tư duy, phương thức, diễn ngôn tự sự lịch sự đã mang lại những thành tựu đáng kể cho thể loại này. Cho đến nay nhiều tác phẩm không chỉ mang lại những giải thưởng cao quý cho nhà văn mà còn trở thành món ăn tinh thần độc đáo, thú vị thu hút sự quan tâm, bàn luận của độc giả. Đến nay thể loại này vẫn đang vận động, phát triển, báo hiệu những đổi mới, cách tân về lối viết và những hình thức diễn ngôn mới về lịch sử.

*

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đã trải qua những giai đoạn vận động, phát triển cùng với sự đổi mới, hiện đại hóa nền văn học nước nhà. Mỗi giai đoạn đều ghi nhận những nỗ lực tìm tòi, thể nghiệm của các nhà văn. Có thể nói, mặc dù có sự khác nhau về cảm thức, tư duy, lối viết lịch sử, và dù cho có sự thăng trầm dưới ảnh hưởng của lịch sử, xã hội; song dòng tự sự lịch sử như một mạch nguồn âm ỉ chảy, góp phần quan trọng tạo nên diện mạo đời sống văn học Việt Nam từ Trung đại đến hiện đại. Phác họa tiến trình của tiểu thuyết lịch sử như là cách để nhận diện những bước phát triển cũng như không ít giới hạn của thể loại. Và cũng từ đây, chúng ta có thể khẳng định lịch sử và diễn giải về lịch sử luôn là đòi hỏi của con người ở bất kì thời đại nào, nhất là khi có một độ lùi nhất định về thời gian. Đó cũng là cách để người viết lẫn người đọc tìm kiếm giá trị nền tảng trong lịch sử, văn hóa, đồng cảm với những cuộc đời, số phận con người, tham dự vào cuộc hành trình giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.

N.V.H 
(TCSH354/08-2018)

-----------------
(1), (2) Nguyễn Đăng Na (2010), Văn xuôi tự sự Việt Nam trung đại (Tiểu thuyết chương hồi), Nxb. Giáo dục, Hà Nội.

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • VÕ VĨNH KHUYẾN Tiểu luận nhằm tìm hiểu thành tựu thơ ca trong khoảng 16 tháng giữa 2 cột mốc lịch sử (19.8.1945 - 19.12.1946). Bởi khi phân chia giai đoạn văn học nói chung (thơ ca nói riêng) trong tiến trình lịch sử văn học, các công trình nghiên cứu, các giáo trình ở bậc Đại học - Cao đẳng và sách giáo khoa trung học phổ thông hiện hành, không đặt vấn đề nghiên cứu thơ ca (cũng như văn học) nói riêng trong thời gian này. Với một tiêu đề chung "Văn học kháng chiến chống Pháp 1946 - 1954". Đây là nguyên do nhiều sinh viên không biết đến một bộ phận văn học, trong những năm đầu sau cách mạng.

  • HỒ THẾ HÀ1. Diễn đàn thơ được tổ chức trên đất Huế lần này gắn với chương trình hoạt động của lễ hội Festival lần thứ 3, tự nó đã thông tin với chúng ta một nội dung, tính chất và ý nghĩa riêng. Đây thực sự là ngày hội của thơ ca. Đã là ngày hội thì có nhiều người tham gia và tham dự; có diễn giả và thính giả; có nhiều tiếng nói, nhiều tấm lòng, nhiều quan niệm trên tinh thần dân chủ, lấy việc coi trọng cái hay, cái đẹp, cái giá trị của nghệ thuật làm tiêu chí thưởng thức, trao đổi và tranh luận. Chính điều đó sẽ làm cho không khí ngày hội thơ - Festival thơ sẽ đông vui, phong phú, dân chủ và có nhiều hoà âm đồng vọng mang tính học thuật và mỹ học mới mẻ như P.Valéry đã từng nói: Thơ là ngày hội của lý trí (La poésie est une fête de l'intellect).

  • THẠCH QUỲThơ đi với loài người từ thủa hồng hoang đến nay, bỗng dưng ở thời chúng ta nứt nẩy ra một cây hỏi kỳ dị là thơ tồn tại hay không tồn tại? Không phải là sự sống đánh mất thơ mà là sự cùn mòn của 5 giác quan nhận thức, 6 giác quan cảm nhận sự sống đang dần dà đánh mất nó. Như rừng hết cây, như suối cạn nước, hồn người đối diện với sự cạn kiệt của chính nó do đó nó phải đối diện với thơ.

  • NGUYỄN VĨNH NGUYÊNNhững năm gần đây, người ta tranh luận, ồn ào, khua chiêng gõ mõ về việc làm mới văn chương. Nhất là trong thơ. Nhưng cái mới đâu chẳng thấy, chỉ thấy sau những cuộc tranh luận toé lửa rốt cục vẫn là: hãy đợi đấy, lúc nào đó, sẽ... cãi tiếp...

  • TRẦN VĂN LÝAi sản xuất lốp cứ sản xuất lốp. Ai làm vỏ cứ làm vỏ. Ai làm gầm cứ làm gầm. Nơi nào sản xuất máy cứ sản xuất máy. Xong tất cả được chở đến một nơi để lắp ráp thành chiếc ô tô. Sự chuyên môn hoá đó trong dây chuyền sản xuất ở châu Âu thế kỷ trước (thế kỷ 20) đã khiến cho nhiều người mơ tưởng rằng: Có thể "sản xuất" được thơ và sự "mơ tưởng" ấy vẫn mãi mãi chỉ là mơ tưởng mà thôi!

  • HOÀNG VŨ THUẬTChúng ta đã có nhiều công trình, trang viết đánh giá nhận định thơ miền Trung ngót thế kỷ qua, một vùng thơ gắn với sinh mệnh một vùng đất mà dấu ấn lịch sử luôn bùng nổ những sự kiện bất ngờ. Một vùng đất đẫm máu và nước mắt, hằn lên vầng trán con người nếp nhăn của nỗi lo toan chạy dọc thế kỷ. Thơ nảy sinh từ đó.

  • BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng dáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ , Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v.v... Đồng thời, Thơ mới là một hiện tượng thơ ca gây rất nhiều ý kiến khác nhau trong giới phê bình, nghiên cứu và độc giả theo từng thời kỳ lịch sử xã hội, cho đến bây giờ việc đánh giá vẫn còn đặt ra sôi nổi. Với phạm vi bài viết này, chúng tôi điểm lại những khái niệm về Thơ mới và sự đổi mới nghệ thuật thơ của các bậc thầy đi trước và tìm câu trả lời cho là hợp lý trong bao nhiêu ý kiến trái ngược nhau.

  • MẠNH LÊ Thơ ca hiện đại Việt Nam thế kỷ XX đã thu được những thành tựu to lớn đóng góp vào sự phát triển của lịch sử thơ ca dân tộc. Đặc biệt từ ngay sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời thay thế chế độ phong kiến thực dân hơn trăm năm đô hộ nước ta cùng với khí thế cách mạng kháng chiến cứu nước theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh tháng 12 năm 1946 đã thổi vào đời sống văn học một luồng sinh khí mới để từ đó thơ ca hiện đại Việt Nam mang một âm hưởng mới, một màu sắc mới.

  • NGUYỄN KHẮC THẠCHNếu gọi Huế Thơ với tư cách đối tượng thẩm mĩ thì chủ thể thẩm mĩ của nó trước hết và sau cùng vẫn là sự hoá sinh Thơ Huế. Đương nhiên, không hẳn chỉ có Thơ Huế mới là chủ thể thẩm mĩ của Huế Thơ và cũng đương nhiên không hẳn chỉ có Huế Thơ mới là đối tượng thẩm mĩ của Thơ Huế. Huế Thơ và Thơ Huế vẫn là hai phạm trù độc lập trong chừng mực nào đó và có khi cả hai đều trở thành đối tượng thẩm mĩ của một đối tượng khác.

  • ĐỖ LAI THÚYThanh sơn tự tiếu đầu tương hạc                                  Nguyễn KhuyếnNói đến Dương Khuê là nói đến hát nói. Và nói đến hát nói, thì Hồng Hồng, Tuyết Tuyết làm tôi thích hơn cả. Đấy không chỉ là một mẫu mực của thể loại, mà còn làm một không gian thẩm mỹ nhiều chiều đủ cho những phiêu lưu của cái đọc.

  • NGUYỄN NGỌC THIỆNHải Triều tên thật là Nguyễn Khoa Văn, sinh năm 1908 trong một gia đình Nho học, khoa bảng. Năm 20 tuổi, trở thành đảng viên trẻ của Tân Việt cách mạng Đảng, Nguyễn Khoa Văn bắt đầu cầm bút viết báo với bút danh Nam Xích Tử (Chàng trai đỏ). Điều này đã khiến trong lần gặp gỡ đầu tiên, người trai có "thân hình bé nhỏ và cử chỉ nhanh nhẹn theo kiểu chim chích" (1) ấy đã gây được cảm tình nồng hậu của Trần Huy Liệu- chủ nhiệm Nam Cường thư xã, người bạn cùng trang lứa tuy vừa mới quen biết, nhưng đã chung chí hướng tìm đường giải phóng cho dân tộc, tự do cho đất nước.

  • TÔ VĨNH HÀ Huế đang trở lạnh với "mưa vẫn mưa bay" giăng mờ như hư ảo những gương mặt người xuôi ngược trên con đường tôi đi. Tôi giật mình vì một tà áo trắng vừa trôi qua. Dáng đi êm nhẹ với cánh dù mỏng manh như hơi nghiêng xuống cùng nỗi cô đơn. Những nhọc nhằn của tuổi mơ chưa đến nỗi làm bờ vai trĩu mệt nhưng cũng đủ tạo nên một "giọt chiều trên lá(1), cam chịu và chờ đợi nỗi niềm nào đó hiu hắt như những hạt mưa...

  • NGUYỄN HỒNG DŨNG1. Một cuộc đời lặng lẽ và những truyện ngắn nổi danhO' Henry, tên thật là William Sydney Porter, được đánh giá là người viết truyện ngắn xuất sắc nhất của nước Mỹ những năm đầu thế kỷ XX. Ông sinh tại Greenboro, tiểu bang North Carolina vào năm 1862. Năm 15 tuổi (1877), ông thôi học và vào làm việc trong một hiệu thuốc tây. Vào tuổi hai mươi, ông bị đau nặng và sức khoẻ sa sút nên đã đến dưỡng sức ở một nông trại tại tiểu bang Texas. Ông đã sống ở đấy hai năm, đã làm quen với nhiều người và hiểu rất rõ tính cách miền Tây. Sau này, ông đã kể về họ rất sinh động trong tập truyện ngắn có tựa đề đầy xúc cảm Trái tim miền Tây.

  • MAI KHẮC ỨNGCó thể sau khi dẹp được loạn 12 sứ quân, Đinh Tiên Hoàng (968- 979) thống nhất lãnh thổ và lên ngôi hoàng đế, đã đặt được cơ sở ban đầu và xác định chủ quyền Đại Cồ Việt lên tận miền biên cương Tây Bắc vốn là địa bàn chịu ảnh hưởng Kiểu Công Hãn. Trên cơ sở 10 đạo thời Đinh nhà vua Lý Thái Tổ (1010- 1028) mới đổi thành 24 phủ, lộ. Nguyễn Trãi viết Dư địa chí (thế kỷ XV) vẫn giữ nguyên tên gọi đạo Lâm Tây. Tức vùng Tây- Bắc ngày nay.

  • TRẦN ANH VINHÂm vang của những sự kiện xẩy ra năm Ất Dậu (1885) không những vẫn còn đọng trong tâm trí người dân núi Ngự mà còn được ghi lại trong một số tác phẩm. Bài vè “Thất thủ Kinh đô” do cụ Mới đi kể rong hàng mấy chục năm ròng là một tác phẩm văn học dân gian, được nhiều người biết và ngưỡng mộ. Riêng Phan Bội Châu có viết hai bài:+ Kỷ niệm ngày 23 tháng Năm ở Huế (Thơ)+ Văn tế cô hồn ngày 23 tháng Năm ở Kinh thành Huế.

  • HOÀNG CÔNG KHANHCó một thực tế: số các nhà văn cổ kim đông tây viết tiểu thuyết lịch sử không nhiều. Ở Việt Nam càng ít. Theo ý riêng tôi nguyên nhân thì nhiều, nhưng cơ bản là nhà văn viết loại này phải đồng thời là nhà sử học, chí ít là có kiến thức sâu rộng về lịch sử. Cũng nhiều trường hợp người viết có đủ vốn liếng cả hai mặt ấy, nhưng hoặc ngại mất nhiều công sức để đọc hàng chục bộ chính sử, phải sưu tầm, dã ngoại, nghiên cứu, đối chiếu, chọn lọc hoặc đơn giản là chưa, thậm chí không quan tâm đến lịch sử.

  • TRƯƠNG ĐĂNG DUNG                 Tặng Đỗ Lai ThuýChủ nghĩa hiện đại là kết quả của những nỗ lực hiện đại hoá đời sống và tư duy xẩy ra từ những năm cuối của thế kỷ XIX, ở Châu Âu. Những thành tựu nổi bật của khoa học tự nhiên, của triết học, xã hội học và tâm lí học đã tác động đến cách nghĩ của con người hiện đại trước các vấn đề về tồn tại, đạo đức, tâm lí. Tư tưởng của Nietzsche, Husserl, hay Freud không chỉ ảnh hưởng đến tư duy hiện đại mà tiếp tục được nhắc đến nhiều ở thời hậu hiện đại.

  • ĐẶNG TIẾNTân Hình Thức là một trường phái thi ca hiện đại được phổ biến từ năm bảy năm nay, phát khởi do Tạp Chí Thơ, ấn hành tại Mỹ, chủ yếu từ số 18, xuân 2000 “chuyển đổi thế kỷ”, và được nhiều nhà văn, nhà thơ trong và ngoài nước hưởng ứng. Tên Tân Hình Thức dịch từ tiếng Anh New Formalism, một trường phái thơ Mỹ, thịnh hành những năm1980 - 1990.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP Một ngày kia, cát bụi vùng Hoan Diễn đã sinh tạo một “kẻ ham chơi”. Y cứ lãng đãng trong đời như một khách giang hồ mang trái tim nhạy cảm, một trái tim đầy nhạc với những đốm lửa buồn. Để rồi sau những cuộc say tràn cung mây, khi dòng cảm hứng chợt bùng lên từ những vùng u ẩn nằm sâu trong cõi nhớ, những giai âm ùa về như những luồng điện làm vỡ òa bí mật: có thương có nhớ có khóc có cười- có cái chớp mắt đã ngàn năm trôi. Đây là những câu thơ khép lại một trong những bài thơ hay nhất của Nguyễn Trọng Tạo: Đồng dao cho người lớn(1).

  • NGUYỄN KHẮC PHÊTừ lâu, ở Huế, nhiều người đã biết tiếng ba công chúa, ba nữ sĩ (Tam Khanh) con vua Minh Mạng, em gái nhà thơ nổi tiếng Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, trong đó MAI AM là người được nhắc đến nhiều nhất. Mai Am nổi tiếng trước hết vì tài thơ và cùng vì cuộc đời riêng không được may mắn của bà, tuy bà là người sống thọ nhất trong “Tam Khanh”.