Ông già Mông Cổ và tôi

10:03 19/04/2010
NGUYỄN THIÊN VIỆTSau khi tốt ngiệp khoa Văn trường Đại học Tổng hợp Hà nội, tôi được phân làm biên tập viên của một tờ báo địa phương. Thế rồi khát vọng bay nhẩy và mong muốn kiếm ít vốn đã đưa tôi sang Liên Xô hợp tác lao động.

Người Mông Cổ - Ảnh: Internet

Năm năm, tôi sống và làm việc ở một thành phố nhỏ. Nước Nga với những năm tháng ngọt ngào, ấm áp tình người, thật khó quên. Liên Xô tan rã, cuộc sống rối ren, số phận lại một lần nữa đưa đẩy tôi sang Đức.

Ở Beclin, mấy anh em thuê chung một căn phòng nhỏ trong cư xá dành cho người Việt. Tối, rải đệm xuống sàn nằm khòng kheo cả lũ. Ban ngày, ăn xong, lê đôi giầy vẹt gót lang thang trên các nẻo phố xin việc. Có lần đi bộ mỏi quá, tôi với thằng bạn chui vào một công viên cũ của Beclin, tìm góc khuất, leo lên ghế đánh một giấc rõ lâu. Trong mơ, tôi thấy mình bơi giữa một dòng sông vàng lấp lánh. Vàng đến ngộp thở. Tỉnh dậy, té ra là những lá phong của mùa thu rơi rụng trùm khắp lên người. Cả một rừng phong vàng rực. Trời xanh, cao, yên tĩnh. Một thời gian, công việc cũng hết. tiền cạn. Bạn bè bảo: “Xuống đường làm sinh viên trường thuốc đi”. “Sinh viên trường thuốc” đây nghĩa là ra hè phố đứng bán thuốc lá lậu thuế. Buổi sáng, vào giờ đi làm, từng tốp ba, tốp bẩy lên đường, ra vị trí chiến đấu. Mỗi người một túi, hai, ba chục cây vuông chằn chặn, trông rõ ra là thuốc lá. Xếp thuốc vào túi thế nào là cả một nghệ thuật, xếp sao cho khéo, vuông vắn, chứa được nhiều mà vẫn gọn, đầu cây thuốc lá thò đủ trên miệng túi. Tây nó chỉ cây nào là rút ra được ngay.

Bẩy giờ sáng, đeo một túi thuốc vuông vắn nặng chịch, tôi thập thò ra khỏi cửa, ngay lập tức xuất hiện cảm giác sợ hãi và ngượng nghịu. Sợ hãi thì hẳn rồi, đụng công an thì có chạy đằng trời, nhất là cái túi cồng kềnh. Còn ngượng, trên tầu điện, hàng trăm dân Đức nhìn chằm chằm, bỏng lựng, “những ánh mắt hình viện đạn”. Qua lớp túi ni-lon mỏng có thể đọc rõ trong túi tên từng loại thuốc: Marlboro, West, HB...

Nỗi sợ hãi và ngượng nghịu bám theo suốt cả ngày cho đến khi trở về nhà mới thôi. Đến chợ rồi, tự động tản ra, người đứng đầu đường, người trước cửa chợ. Chợ ở đây là một phố trung tâm đông đúc người qua lại, rồi cứ cái túi có cây thuốc lá chìa ra ngoài miệng, lang thang trên phố, gặp ông đi qua, gặp bà đi lại, thì dí vào tận mặt họ. “Bitte schoen”. Mất một hai tuần tôi mới quen với kiểu mua bán này, vì mình hay ngượng, hay sĩ diện hão, lại không chịu xô lấn tranh khách. Ngành thẩm mỹ học trong những năm học ở trường Tổng hợp, rõ ràng đã không giúp ích gì cho tôi trong việc tiếp thị thuốc lá.

Được vài tháng, cũng chỉ đủ tiền ăn, dạo này làm ăn mỗi ngày một khó. Những vùng xa, ngoại ô thì được coi như vùng tự do, ai có sức ra mà bán. Bạn bè xui tôi chuyển sang ga Kruynau tuy xa nhưng khả dĩ, chứ ở Schoenhause Allee này, bây giờ dân bán thuốc đi nườm nượp, lười như ông thì nước mẹ gì! Tôi nghe bùi tai, xách túi sang ga Kruynau thử số mệnh. Nhưng tình hình cũng chẳng khá hơn. Những vị trí tốt nhất đã có hơn một tá chị em chiếm lĩnh, nhan nhản như họp chợ. Tôi đành cứ vở cũ, bày túi vào một góc, đứng nhẩn nha. Hết ngày, về. Giống như đi câu cá, lâu lâu lạc vào một chú.

Dăm bữa, tôi thấy gần cửa ga có một ông già người châu Á bán báo. Lối chừng khoảng 70 tuổi. Bên cạnh chồng báo to tướng, ông ta đứng im lặng, kiên nhẫn, không vẻ cầu xin hạ mình, nho nhã, phớt lờ trước dòng khách ngược xuôi ầm ĩ. Hình như người Mông Cổ. nước da bánh mật săn chắc, sạm nắng gió phong trần, mái tóc điểm bạc. Ông cụ có gương mặt hiền từ, đôi mắt thông minh, nhân hậu, thoáng nét cười dí dỏm mỗi khi thấy lũ lau nhau chúng tôi chạy trốn, ẩn nấp cảnh sát. Trông nét mặt dãi dầu, dáng vẻ ung dung, ánh mắt điềm đạm, cảm giác bố già đã trải qua hết mọi vinh nhục của cuộc đời, thấu hết mọi sự trong cõi phù vân này.

Không hiểu sao, tôi cứ nghĩ nếu có một trái núi sụp đổ trước mặt, chắc cụ vẫn điềm nhiên như không có chuyện gì xẩy ra.

Chị em ta “dân vận” ngay được cụ già để giấu thuốc. Thông thường, lúc đi từ nhà, ai cũng xách một bị to dăm ba chục cây. Lúc đứng bán, chỉ chìa ra năm, bẩy cây. Khi bán hết, ra “kho” lấy thêm. “Cơ cấu” như vậy, khi cảnh sát đuổi, dễ chạy. Ai gửi thuốc, ông cụ bán báo đều nhận rồi ông phủ chồng báo to tướng lấp lên trên. Những lúc gã cảnh sát bụng phệ chạy xộc vào nhà ga, trợn trạo truy tìm thuốc lá, tôi thấy ông già cười cười, rung rung chòm râu bạc, khoái trá trước sự bất lực của người thi hành công vụ. Cảnh sát Đức không ngờ rằng thứ hàng họ đang truy lùng nằm ngay ở chân người bán báo già, cách họ không đầy gang tấc.

Nhìn cảnh các cô bé cười nói ríu rít vây quanh ông già hiền từ, quần áo bạc mầu, râu tóc trắng xóa, tự nhiên tôi cứ liên tưởng tới hình ảnh lão du kích hoạt động vùng địch hậu trong một bộ phim nào đó xem từ hồi còn bé. Vài lần, tôi lân la bắt chuyện. Người Mông Cổ nào chẳng thạo tiếng Nga. Họ được giáo dục “Russki day dứt” từ trong trường phổ thông. Sau vài câu làm quen, té ra cũng là người nhà cả. Ông già trước đó có thời học báo chí ở Liên Xô, sau làm phóng viên quân đội kiêm dịch giả văn học Nga. Thảo nào, cụ nói tiếng Nga như “thợ”. Chúng tôi chìa tay cho nhau. Cái bắt tay ấm và chặt. Bàn tay phải người bán báo già có những vết sẹo dài, tím tái. Tên ông là Timua. Ông lấy tên đó là vì yêu và kỷ niệm nhân vật của nhà văn Xô Viết lừng danh Ackaidi Gaiđa. Tôi lùi lại, nhắm nghía người bán báo. Nếu như còn sống, Timua năm xưa cũng độ tuổi này chăng?

Hơn một tí, kém một tí, song tính cách chắc chắn phải như vậy, thông minh, can đảm, dí dỏm và nghĩa hiệp.

Timua nheo cặp mắt ẩn hiện ngọn lửa nhỏ, cười hề hề, bảo: “Tớ thấy chú mày không biết làm kinh tế, chàng trai ạ. Các “đêvôtski” (cô gái) buôn bán giỏi hơn.“ Tôi cũng cười, thấy vui vui vì cho đó là một lời khen.

Có cái gì đó làm tôi tin vào nụ cười hóm hỉnh, ánh mắt đầm ấm, mộc mạc của ông. Hình như chúng tôi đồng cảm lâu rồi.

Lúc rỗi, tôi thường tới trò chuyện, tán gẫu với ông già. Được biết Timua về hưu, nay sang Đức thăm con, nhân thể đi bán báo phụ thêm vào đồng lương ít ỏi cho con cháu. Giữa chúng tôi, có một tình yêu với những năm tháng xa xưa ở nước Nga, với nền văn học Nga- Xô Viết nên chuyện không dứt.

Một chiều thứ bẩy, khi túi thuốc lá đã vơi vơi, tôi thu xếp “đồ nghề” tiến lại ông bán báo đề nghị: Chúng ta hãy vào bar uống với nhau một cái gì đó nhân dịp cuối tuần, như người Đức thường nói trong dịp này: “Vockhenendơ” (nghỉ cuối tuần). Câu trả lời của Timua là một nụ cười. Tôi xin phép được gọi một chai Congac cỡ nhỏ. Cốc đầu tiên dành cho sự gặp gỡ tình cờ và lý thú. Chúng tôi nói chuyện về Lép, về “Những con đường đau khổ"của A.Tôlstôi, về Blôk. Êxênhin và văn tài lãng tử Bunhin. Con đường xưa xa lắc với cỗ xe tam mã im lặng. Rừng bạch dương Nga ẩn hiện đâu đây, xanh mướt đến xao lòng. Tiếng lá mùa thu rụng, tiếng vó ngựa, tiéneg giọt mưa rơi nghe chậm rãi.

Ngoài kia, chiều buông chầm chậm, ánh đèn xanh lạnh. Những chiếc xe Audi, Mercedes bóng lộn, phóng vùn vụt như bầy quái vật câm lặng. Vẳng nhạc Disco thình thịch.

Trời tối thẫm từ bao giờ. Timua gọi chai thứ hai. Mắt người già đã bắt đầu óng ánh. Ông cẩn thận đếm những đồng xu lẻ từ số lãi của một ngày bán báo. bàn tay gân guốc cộm vết sẹo có những ngón dài lóng ngóng.

Rồi đề tài quay về văn học Xô Viết: Aitmatốp hùng vĩ với “Cây phong non quàng khăn đỏ.”, truyện “Núi đồi và thảo nguyên”, nhà thơ trữ tình Đagestan- Raxun Gamdalốp, thế hệ nhà văn “trung úy” Bonđarep...

Ôi nước Nga, nước Nga...

Thỉnh thoảng, Timua lại kêu lên. Trong giọng nói khàn khàn hơi rượu của ông ẩn chứa một nỗi buồn, một sự nuối tiếc day dứt...

Tôi nói với Timua là đã có dịp đọc tác phẩm nổi tiếng của văn học Mông Cổ “Sông Thami trong xanh”. Ông ngạc nhiên và tỏ ra cảm động. Sau này, tôi nhớ có lần Timua giới thiệu tôi với vợ ông khi bà đi đâu đó, tạt qua, một người phụ nữ luống tuổi nhưng không giấu được vẻ đẹp đường bệ và quý phái. “Đây là thằng Việt, nó đã đọc chuyện “Sông Thami trong xanh” của chúng ta”.

Cuối buổi rượu, người bán báo ngà ngà, khuôn mặt ửng đỏ thì thầm bí mật vào tai tôi:

- Bây giờ tôi sẽ tiết lộ cho cậu một tin tức quan trọng. Ông ta dừng lại mấy giây, rồi nhìn vào mắt tôi, không cao giọng. - Tớ đã từng là Bansôi trelavec (cán bộ cao cấp) đấy nhé!

Thấy tôi trố mắt, ngớ người, ông già cười khà khà, đắc chí:

- Trước khi về hưu, tôi là Phó tổng biên tập báo Quân đội Nhân dân Mông Cổ- cụ nháy mắt cười- Hừm, cũng không phải là xoàng đâu nhé.

Nói rồi, Timua đưa cho tôi xem ảnh. Trong ảnh, trông ông có vẻ trẻ hơn. Khuôn mặt chữ điền chằn chặn, đôi mắt nghiêm khắc với đôi quân hàm cấp bậc đại tá lấp lánh trên ve áo.

Timua hẹn chủ nhật sau mời tôi đến thăm gia đình và làm quen với các con ông. Sau đó, tất cả sẽ đi câu cá. Họ biết một chỗ phong cảnh tuyệt đẹp và có thể câu được. Nếu câu được nhiều cá sẽ nấu món cháo cá ngay tại chỗ. Ông già vuốt râu, tủm tỉm nửa đùa nửa thật. À, mà nếu cậu chưa có gia đình thì tôi sẽ giới thiệu cho cậu một cô bé Mông Cổ. Chàng trai trẻ ạ!

Nhưng, cái ngày chủ nhật hứa hẹn nhiều niềm vui đó đã không đến. Mấy hôm sau, cảnh sát tổ chức một đợt vây ráp lớn tại khu nhà ga. Lần này, họ thả “thường phục” (nhân viên hình sự) vào trước để quan sát nên tường tận mọi việc. Một tiếng sau, cảnh sát rút lui, tôi từ chỗ ẩn nấp thập thò quay lại. Ông bán báo đã không còn ở đó nữa. Quanh chỗ ông đứng bây giờ lố nhố vòng tròn các cô bé bán thuốc, mặt mũi đờ đẫn tái nhợt vì vừa thoát hiểm. Họ đang kháo nhau về cái chuyện cảnh sát tìm thấy thuốc lá lậu giấu ở trong đống báo của ông già và đã đưa ông đi.

Một cô khác, người bé loắt choắt, đầu to đùng như cây nấm di động, quả quyết: Dứt khoát lão già tranh thủ lúc hỗn độn, “bùng” của chị em mình mấy chục cây. Đểu thật, chỗ ấy phải hút hàng năm mới hết. Tôi chạnh buồn, nhưng muốn giải thích cho họ biết là Timua không bao giờ làm điều đó vì ông ấy tên là... Timua. Như Timua của ngày xưa, ông chỉ làm công việc chằng yêu thích là giúp đỡ những ai gặp khó khăn. Nhưng tôi nghĩ có nói ra điều đó cũng chẳng ích gì, thậm chí các cô có khi cũng chẳng thèm cần biết nhân vật Timua là ai, làm gì?

Những ngày sau, không thấy ông già bán báo trở lại. Dường như ông bị mất hút đi đâu. Nhiều lần tôi thử hỏi thăm một vài người Mông Cổ nhưng tất cả họ đều ú ớ lắc đầu quầy quậy hoặc đần mặt ra khi nghe cái tên Timua xa lạ.

Chuyện gì đã xẩy ra với ông hôm đó?

Thời gian sau, tôi xin được việc làm và không bán thuốc lá lậu nữa. Lâu lâu, có dịp qua chốn cũ, tôi hay dòm vào cái góc, nơi xưa kia Timua đứng bán báo. Ở chỗ đó, giờ đây lúc là một người Đức mắt xanh biếc, tóc vàng, gườm gườm nhìn người qua lại với chồng báo to tướng. Lúc khác là một chàng trai Mông Cổ ngơ ngác như buồn ngủ.

Nhiều năm sau, tình cờ qua một người bạn tôi mới biết hôm đó Timua bị cảnh sát bắt giam vì tội che giấu hàng lậu. Khi sự việc sáng tỏ, ông được thả nhưng bị tịch thu giấy phép bán báo. Sau đó nghe nói ông đã rời Đức trở về Mông Cổ.

Tôi tưởng tượng Timua của tôi râu tóc trắng xóa, mắt nheo cười, gương mặt nom phúc hậu, bàn tay với những vết sẹo sần sùi, tím tái, đang gò người trên lưng ngựa, băng qua những thảo nguyên mêng mông tuyết trắng, những cánh rừng Taiga heo hút tận chân trời.

N.T.V
(136/06-00)




 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN KIÊM ĐOÀN Ngôi nhà một thời là tổ ấm trên đồi bỗng trở thành rộng gấp đôi, gấp ba và vắng vẻ như một tòa lâu đài cổ từ khi Bé Út dọn ra khỏi nhà để lên miền Bắc học. Đứa con 18 tuổi trên đất Mỹ nầy rời nhà đi học xa thường có nghĩa là đang bước vào đời, ra khỏi vòng tay cha mẹ, thật khó lòng về lại. Những bước tiếp nối là học ra trường, kiếm việc làm, chọn nhiệm sở như cánh buồm đưa tuổi trẻ ra khơi. Bất cứ nơi nào có thể an cư lạc nghiệp trên 50 tiểu bang sẽ là nơi đất lành chim đậu. Tuổi thành niên tiêu biểu của văn hóa Âu Mỹ là tự lập, gắn liền với  vai trò chuyên môn và xã hội chứ không phải quanh quẩn với đời sống gia đình.

  • ĐỖ PHẤNĐêm rất khuya dưới chân núi H. Khó khăn lắm chúng tôi mới tìm được một con đò bằng tôn móp méo xác xơ. Chẳng hiểu ban ngày trông nó thế nào. Có lẽ đây là chiếc đò bị cấm lưu hành? Không thể có mặt ở bến vào ban ngày. Cũng là cấm làm phép. Dòng suối không có chỗ nào đủ sâu để có thể chết đuối.

  • ĐỖ KIM CUÔNGBây giờ bạn bè ít được gặp anh lang lang trên phố. Thảng hoặc dăm bữa nửa tháng, có khi hơn mới tóm được anh. Ấy là khi anh phải ra khỏi nhà đi nạp bài cho những tờ báo mà anh thường cộng tác, hoặc đi nhận nhuận bút một vài bài thơ lẻ in trên báo.

  • VŨ NAM TRỰC           Truyện ngắn

  • TRẦM NGUYÊN Ý ANHÔng Nhâm bước chầm chậm theo con đường tráng xi-măng ngoằn ngoèo trong con hẻm nhỏ. Căn nhà ông ở cuối xóm, một trệt, một lầu... mới tinh. Cánh cửa sắt đóng im ỉm. Ông ngồi bệt xuống nền xi-măng vì chân ông đã mỏi. Lẽ ra, khi mấy đứa con ông chưa bàn nhau cất lại căn nhà, ông đã có thể đẩy cánh cửa rào bằng tre và đàng hoàng bước vào nhà mình.

  • XUÂN CHUẨNĐể rồi tôi kể cho ông nghe về lai lịch cái quạt, để ông ông khỏi coi tôi là Thằng Bờm có cái quạt mo. Cái thời quạt điện quạt đá, máy lạnh mà cứ bo bo cái quạt kè, thỉnh thoảng lại đạp phành phạch như mẹ hàng cá thách lên giữa chợ. Cũng chẳng có gì li kỳ, hay mùi mẫn rơi lệ, chỉ là chuyện đời tầm phào.Hai ông trải chiếu ngồi giữa sân, nhâm nhi chén trà, ông Thân nói với đại tá Tiến về hưu như vậy khi đại tá ngỏ ý thích cái quạt kè của ông.

  • TRẦN THỊ TRƯỜNG  Bim chào đời vào lúc kém 19 phút. Trăng hạ tuần phun nhẹ màu đục của sữa vào bầu trời. Hôm sau trời lất phất mưa. Bố nói với bà ngoại trước khi đi làm: "Nếu không thấy con về thì bà giúp con cùng nhà con nuôi cháu". Câu nói ám ảnh làm trí tưởng tượng của bà ngoại nhiều lần thắt lại. Sau này nhiều khi bà ngoại sợ cả cái bóng của mình.

  • NAM TRUNG Ông Hãnh cứ đi tới đi lui trong phòng khách nhà ông, vừa đi vừa quạu cọ lẩm bẩm: thằng Hùng nó nói vậy là nó có ý coi thường mình, nó dám trứng khôn hơn vịt. Rồi mày sẽ biết tay ông. Ông sẽ cho mày còn lâu mới được vào Đảng, ông sẽ bác tất cả những đề xuất về mày...

  • HOÀNG THÁI SƠNKhi tôi lớn lên thì nội tôi đã mất từ lâu nhưng thỉnh thoảng dân làng vẫn nhắc đến người với niềm cảm mến về những chuyện không ít ly kỳ. Ông tôi rất khoẻ, người tròn vo, đen như sừng, tục danh Cu Trắt - phương ngữ vùng quê tôi nghĩa là nhỏ và rắn chắc. Ông ham mê võ thuật, thạo côn quyền, thuở trai thường đóng vai ông địa trong đám múa lân. Đám múa năm nào hễ thiếu ông là coi như nhạt trò, dân làng chẳng ai buồn xem. Người ta đồn ông tôi tài ba lỗi lạc, như có thể đi trên lửa, nhảy qua nóc nhà, còn những thứ chui vào hậu cung đình làng mà không cần dở ngói là xoàng... Kho chuyện về ông ngày càng dày do mồm miệng dân gian thêu dệt thêm, tuy nhiên trong đó nhiều chuyện là có thật.

  • PHAN XUÂN HẬUTôi trở về quê sau mười năm xa cách. Quê tôi nằm cuối con sông Vẹn, con sông này là nhánh của sông Dinh, bắt nguồn từ dãy núi Gám, chảy qua bến Dền. Nơi đây xưa kia là kinh đô của vua Dền. Vua Dền tụ tập lực lượng chống lại nhà Trần khi đó đang trấn áp nhà Lý. Vua Dền là hậu duệ của Lý Thái Tổ, ông không chịu sự chuyên quyền của vua tôi Trần Thủ Độ bèn lập căn cứ ở miền Tây Yên Thành, tức quê tôi, và Dền là kinh thành của ông, dân quen gọi ông là vua Dền.

  • NGUYỄN VĂN VINHTết Mậu Thân năm ấy tôi tròn mười sáu tuổi. Soi gương, tôi thấy y xì một con bé tóc lơ xơ hoe nắng, xấu tệ.

  • CHÂU DIÊNĐơn vị của tôi đi bộ từ một tỉnh miền Trung, lên qua Mường Phăng thì Điện Biên đã giải phóng. Sau một tháng đi bộ nhưng gần như chạy bộ, chúng tôi được phép nghỉ lại hai ngày ở một bản, hồi đó bản này nằm khá sâu trong rừng, nhưng nay thì nó đã ở bên một nhánh đường mới làm dẫn ra phố huyện Tuần Giáo để nối vào con đường số 6 chạy tuốt lên Điện Biên Phủ.

  • NGUYỄN TRƯỜNGLàng Hạ nằm phía hạ nguồn sông La Ngà. Đất chật. Người đông. Đói nghèo thành nếp. Hồi hai bên đánh nhau, nơi đây là vùng địch hậu. Giải phóng hơn chục năm mà làng Hạ đói nghèo vẫn hoàn nghèo đói. Không ít người bỏ làng đi xa chẳng thèm ngoái cổ nhìn lại. Vậy mà hơn mười năm lại đây, nhờ vực dậy cái nghề tơ tằm truyền thống vốn có từ xưa, làng Hạ đang trở thành một làng nghề giàu có nhất nhì trong vùng. Nhà cũ lỗi thời phá đi xây mới. Đường làng bùn lầy được thay bê-tông. Trường tiểu học tranh tre nứa lá hồi nào nay lên hai tầng. Điện lưới dọc ngang khắp làng đã đẩy năng suất ươm tơ kéo sợi lên cao chưa từng thấy. Chất lượng tơ tằm đạt chuẩn xuất khẩu. Hàng bán chạy hơn cả tôm tươi. Thu nhập người dân ngày một cao.

  • LÊ TRÂMNgồi với tôi và Kh là một đôi nam nữ còn khá trẻ. Chàng thanh niên, theo lời gã, vừa mới về từ Thái Lan sau khi trúng một hợp đồng béo bở. Gã là đại diện của một công ty xuất nhập khẩu nổi tiếng ở bên ấy.

  • NGÔ TỰ LẬPCó lẽ tôi đã ngủ rất lâu trước khi bị lay dậy một cách dữ dội. Tôi cố nằm thêm, mặc dù đó không phải là thói quen của một người lính cũ. Thường thì tôi bật dậy ngay. Trước khi tôi vào lính, cha tôi, một đại tá từng trải ba cuộc chiến tranh, chỉ dặn mỗi một câu: “Hãy chồm dậy ngay tiếng còi báo động đầu tiên!”. Lời dạy của ông tôi làm theo trong suốt thời gian tại ngũ và cả khi giải ngũ. Nhưng có những lúc ta không làm chủ được mình. Tôi thấy mình đau ê ẩm và phải một lúc khá lâu sau tôi mới chậm chạp mở mắt.

  • PHẠM THỊ CÚCTừ những ngày thơ bé còn cắp sách đến trường cho đến khi đã bước vào đời, con cái đã khôn lớn và trưởng thành, trong ký ức của tôi vẫn luôn lưu giữ những hình ảnh sinh động và kỳ diệu của hàng ngàn con cò trắng rợp cả cánh đồng bát ngát, những cánh rừng và vườn cây trĩu nặng vô vàn chim chóc, hình ảnh chim cò thân thiết đậu cả trên vai người, trên đầu người, quẩn dưới chân người... là chuyện của Vùng Đồng tháp Mười qua những trang viết hấp dẫn của các nhà văn Sơn Nam và Đoàn Giỏi.

  • MAI NINHTrong khoảng giữa buổi chiều thăm viếng cơ sở và dạ tiệc, tôi chạy về nhà thay quần áo. Dưới vòi nước ấm, tôi nao nao xúc động nhớ lại từng khuôn mặt bạn bè. Ngoài một hai người thỉnh thoảng gặp nhau nhờ ở lại nơi này sau khi tốt nghiệp, còn hầu hết thì sau một phần tư thế kỷ đã qua đi, bây giờ mới tái ngộ. Làm sao không ngẩn người trước những tên bạn ngày xưa mặt mũi căng hồng tí tửng nhố nhăng, giờ đây làn da gấp nếp, râu ria đạo mạo, ra dáng sếp lớn sếp nhỏ cả rồi. Và dấu chân chim của thời gian càng rõ rệt hơn nữa, nơi những cô đầm bạn gái của tôi.

  • MAI NINH- Rối, Rối ơi! Dậy đi nào. - Nằm mãi đây cũng đừng hòng có ai lượm xác đem chôn. - Dậy đi! Rối ơi.

  • ANH DƯƠNGCòn sống đến nay, ông tôi phải hơn trăm tuổi. Trước ngày chết, ông kể cho tôi câu chuyện thương tâm này.

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG1. Từ Huệ nằm thiêm thiếp bên cạnh án thư. Tóc râu chàng bạc trắng. Đêm qua, ngoài trời mưa gió to quá. Chàng không làm sao ngủ được. Từ Huệ sợ mưa, sợ phải nghe thấy những âm thanh cuồng nộ của trời đất. Điệu luân vũ ấy là nỗi ám ảnh khi chàng còn là một anh khóa vô danh.