INRASARA
Khi mẹ la chị Hám: “Mi không biết hôm nay là ngày gì sao mà hốt thóc trong lẫm đi xay”, thì tôi biết ngay đây là ngày trăng hết harei ia bilan abih, ngày người Cham kiêng xuất hàng ra khỏi nhà.
Độc đáo nét Chăm ở Khánh Hòa - Ảnh: internet
Đó là chuyện của bốn mươi năm về trước, nay mẹ không còn cơ hội la chị nữa rồi. Không phải chị đã lớn, đã cho ra đời cả lũ con cháu chít, hay chẳng phải mẹ đã đi xa, mà là chữ harei ia bilan abih đã chết. Nó đã được đưa vào nghĩa trang chữ, ngay khi đất nước nhập một, cấp phát ruộng đất cho nông dân, ba khoán, khoán sản phẩm rồi khoán trắng. Ruộng đã ít, máy móc còn làm thay sức người; thóc sau vụ mùa chẳng có là bao, vừa lên sân thì bà con bán hết cho dân buôn, người nhà quê mỗi sáng ra chợ đong gạo nấu. Họ không còn cần đến lẫm nữa, thì lấy đâu chuyện kiêng với cữ ngày lành ngày xấu mà dặn dò.
Thế là bao nhiêu thao tác nhà nông bỗng chốc hết thời lúc nào không hay: cày ải tablơk biluw, gặt bắt lối ywak mưk anak, thùng xe lúa bó tabaung cak, giê halaung, bỏ chầu buh mul… chúng kéo cả vật dụng nông nghiệp thường ngày chết theo với những mỏ gẩy kanơh, thúng mủng li-i pot, nia cangwa, cà tăng ratơng, cối xay rathung chai… và đương nhiên cả chục nghi thức cúng tế quen thuộc cũng không thoát khỏi số phận: cày lén klaik li-wa, gặt lấy ngày ywak mưk harei, lúa lên sân padai tagok lan, vân vân…
Bao nhiêu từ vựng can hệ đến nghề nông và đời sống nhà nông đã chết, chết cùng với bộ phận văn hóa hình thành qua chúng rồi trở lại dung chứa chúng. Và cho dù các nông cụ kia được phục chế đưa vào bảo tàng cho thế hệ hôm nay và mai sau tìm hiểu, nghiên cứu, nhưng vô ích - vốn từ vựng của ngôn ngữ không còn được một cộng đồng dùng đến hằng ngày chắc chắn sẽ chết. Chúng hết đất đứng và được đẩy vào nghĩa trang chữ, vĩnh viễn không còn tồn tại trên trần đời.
Đố ai trong thế hệ trẻ Chăm hôm nay còn hình dung được đâu là xe trâu hay thao tác cho trâu đạp lúa, chúng chỉ còn biết đến máy cày, máy tuốt; cũng chẳng còn ai biết đâu là giạ thóc mà chỉ nhìn thấy có bao thóc; ngay ngôn từ “jak padai” (giạ thóc), “rideh kabaw” (xe trâu) hay “nhwơ kabaw ppajwak” (bắt trâu vào đạp đống bó lúa) thế hệ @ cũng không hay không biết. Không nên trách và, không thể trách.
Mới bốn thập niên mà đã thế, huống hồ văn hóa biển Cham đã chìm khuất qua hơn hai thế kỉ. Có thể nói ngay khi Minh Mạng xuống lệnh cho tất cả palei Cham dời vào miệt trong, miệt trên, chẳng những vị vua này đã đóng dấu chấm hết truyền thống văn hóa biển Champa, mà còn góp công quyết định đưa tang cả ngàn từ vựng liên quan đến biển và nghề biển của nền văn hóa kia vào nghĩa trang chữ.
Biển, người Chăm có nhiều từ để chỉ nó. “Tathik” là biển; bên cạnh “tathik” tiếng Chăm còn có “darak”. Dân gian Chăm nói: “Laik tamư tathik praung darak praung”, nghĩa là chìm vào biển cả. Như vậy, “darak” vẫn là biển. “Darak” còn được dùng để chỉ chợ. “Nau darak”: đi chợ. Bởi chợ ngày trước luôn được họp cạnh bờ biển. Cũng phải thôi, người Chăm là dân sống với biển và nhờ biển, nên chợ lớn phải được họp cạnh bờ biển, và lắm lúc dựng ngay trên biển.
“Cư dân Chăm cổ thường xuyên có mặt ngoài khơi, ngoài đảo xa. Vì thế họ đã có sự giao lưu kinh tế văn hóa với thế giới hải đảo Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương” (Nguyễn Đức Hiệp, 2006, “Lâm Ấp, Champa và di sản”, Vanchuongviet.org).
Cửa sông chạy ra biển tiếng Chăm là lammưngư, hay lơmngư. Xóm Cửa người Chăm gọi là “palei Lơmngư”. Biển xa và rộng, Chăm có chữ “tathik kuradong”, nghĩa là biển khơi. Lớn rộng và xa hơn nữa thì dùng từ “jallidi”: đại dương.
Dân tộc Chăm có máu phiêu lưu, phiêu lưu từ rất sớm. Sớm và xa. Sử sách ghi nhận ngay từ thế kỉ thứ IV, người Chăm đã đi tận Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản, Java, Malaysia… Vượt đại dương thì phải đi bằng tàu thuyền lớn. Máu phiêu lưu thể hiện ngay trong câu nói cửa miệng dân gian:
Mưtai di kraung, mưtai di tathik
Thei mưtai di danaw kabaw mư-ik takai palei.
Chết nơi biển rộng sông sâu
Ai đâu lại chết vũng trâu ven làng.
Nhưng không phải vì thế mà người Chăm ỷ lại thành mất cảnh giác. Bởi lắm lúc, Tapa truh tathik jơl di danaw: Qua khỏi biển sâu vướng ao nước cạn. Cuộc người trớ trêu là thế, anh hùng khi gấp cũng khoanh tay. Người Chăm đa thần, và sống quan hệ mật thiết với biển, cho nên trong đời sống tâm linh họ thờ Thần Sóng (Po Riyak), Thần Biển (Yang Tathik) là điều không lạ. Những lúc lên rừng xuống biển (Trun tathik đik glai) gặp bao bất trắc hiểm nguy, Chăm luôn cậy đến Thần Biển phò trợ độ trì.
Chú ý, Thần Biển chứ không phải Thổ Thần, cho dù đây cũng là vị thần có vị thế đáng kể trong đời sống tâm linh Chăm, nhưng chính Thần Biển mới đóng vai trò quan trọng. Than vãn, nếu người Việt kêu: trời đất ơi, thì người Chăm: Trời biển ơi (Lingik tathik lơy). Người Việt nhìn lên thấy trời, cúi xuống thấy đất; Chăm thì khác, dưới chân họ là mênh mông biển nước. Chăm có làm ruộng (đất), nhưng đó là cánh đồng miền Trung nhỏ hẹp bốn mùa hanh gió. Tổ tiên Chăm xưa chủ yếu sống bằng nghề biển, nhờ biển và với biển. Họ kêu trời kêu biển (Ew lingik ew tathik) chứ không phải “la trời la đất” như người Việt. Cũng vậy, người Chăm nói “tối trời tối biển” (Xup lingik xup tathik) khác với người Việt là: [Mưa] tối mù trời đất.
Hẹn giờ giấc lên rừng lấy củi cũng nói: Tuk ia tathik đik - Lúc thủy triều lên (khoảng 1 giờ sáng). Để chỉ kẻ “nói thánh nói tướng”, Chăm vận đến “biển” với thành ngữ Đom ngauk lingik ngauk tathik - Nói trên trời dưới biển. Gặp thế bí hay đường cùng, họ cũng lấy “biển” ra mà ví: Wơr glai yuw ralai di krưh tathik - Quẩn trí cùng đường như thân ralai giữa biển khơi.
Nghĩa là biển tràn ngập đời sống, văn chương và ngôn ngữ Chăm.
Tiếng nói bình dân ngày thường là vậy, trong văn học viết Chăm, biển cũng có mặt khắp. Để biểu thị cho mối quan hệ khăng khít của Ppo Tang Ahauk - một nhân vật trong lịch sử Champa cổ ở thế kỉ XVII - với biển cả, Damnưy Ppo Tang Ahauk viết:
Urang hu sang si đih
Ppo ngap anih dalam tathik
Urang hu sang si dauk
Ppo ngap danauk dalam tathik
Người có nhà để ngủ
Người cất chỗ trú giữa đại dương
Người có nhà để ở
Người lập nơi ngụ giữa đại dương.
Cuộc sống của ông không giống bất kì cuộc sống của một người nông dân nào khác mà định mệnh gắn liền với đất, vì đất liền không phải là quê hương của ông. Một cái nhà: không, một nơi cư trú cũng không nốt. Ông là chủ nhân đồng thời là tù nhân của biển cả. Biển cả là nơi ông sinh ra, tung hoành, tạo nên sự nghiệp rồi biến đi. Nội dung đoạn mở đầu của Damnưy được biến thành điệp đoạn, như đã thâu tóm cả cuộc sống và định mệnh của ông. Cạnh đó, Damnưy cũng không quên đề cập con tàu-ngôi nhà của ông:
Ahauk praung kluw pluh tajuh
Tagok mưk nhjuh bbauk chwai palau
Ahauk praung kluw pluh tajuh tapa
Tagok mưk ia bbauk chwai palau
Đik riyak khing đwơc
Yawa xơp ra pwơc dalam ahauk
Đik riyak khing nau
Danưy xơp ra klau dalam ahauk
Tàu to ba mươi bảy
Pô lên kiếm củi trên cù lao
Tàu ba mươi bảy sải
Pô lên lấy nước trên cù lao
Cho tàu đi trên sóng
Nghe tiếng người nói vọng trong tàu
Cho tàu cưỡi sóng đi
Nghe tiếng người cười vang trong tàu
(Inrasara, 2011, Văn học Chăm khái luận, Nxb. Tri Thức, tr. 50).
Đi biển, người Chăm chế tạo nhiều phương tiện với kích thước và hình dáng khác nhau. Thông dụng là thuyền (gilai), nhỏ hơn là ghe (gaiy), cạnh đó Chăm còn có “bè” (rakik) trên đó người ta có thể làm nhà để ở [Ariya Glơng Anak, câu 39: Bboh ra đik janưk patih tabiak mưrai/ Radơng di lamngư Pajai di bhum patih drei tak ni: Thấy người đi thuyền bầu lớn đi ra/ Ngưng ở cửa biển Phú Hài trên quê hương ta]. Thuyền cũng có loại thuyền độc mộc mà Chăm gọi là pluk, và thuyền bầu loại lớn (janưk patih) [Ariya Ppo Parơng, câu 99: Mưyah nau sang gơp o tapa/ Sa bauh gaiy xit tra ikak pagơm di tian rakik: Nếu muốn đi gặp nhau/ Họ phải nhờ đến chiếc ghe buộc vào thân bè]. Phương tiện lớn hơn là tàu (kapal) hay loại tàu lớn (ahauk, gilai ahauk) có khả năng viễn dương. Ppo Tang Ahauk đã sử dụng loại tàu này.
Tàu ông dài 37 sải tương đương với 60 mét - con số có phóng đại hay không ta không biết được, dẫu sao nó cho ta hình dung ông đang điều khiển con tàu rất lớn ở thời điểm đó của lịch sử. Con tàu chứa cả đoàn người cùng bao nhu yếu đáp ứng đầy đủ sinh hoạt của con người. Nó lớn đến không thể ghé đất liền mà chỉ tạt qua cù lao để lấy củi, nước ngọt. Tác giả Damnưy không cho ta biết tên cù lao, nhưng người đọc vẫn có thể tưởng tượng đó có thể là Cù Lao Chàm hay ít ra cũng là đảo Phú Quý của hôm nay.
Trong sử thi Chăm, thể loại văn học xuất hiện từ khá sớm, nhất là ở hai tác phẩm lớn là Akayet Inra Patra và Akayet Dewa Mưno, biển và đại dương còn là bãi chiến trường cho các anh hùng tỉ thí.
Tajuh harei tajuh mưlơm o thei alah
Dwa urang sunit ginrơh tamư tathik kuradong
Dwa urang ywơ jiơng inư mưdaung
Dalam tathik kuradong mưratak gơp tanan
Mưsuh gơp tajuh harei tajuh mưlơm
Tathik riyak lin mưklơm…
Bảy ngày đêm bất phân thắng bại
Hai kẻ kì tài kéo nhau vào đại dương
Cả hai biến thành loài thủy quái
Đâm chém nhau nơi ấy giữa trùng khơi biển cả
Bảy ngày đêm không ngưng nghỉ
Biển nổi sóng mịt mù…
(Inrasara, 2009, Sử thi Chăm, Nxb. Khoa học Xã hội, tr. 188)
Cuối cùng, trong văn học dân gian, biển cũng để dấu ấn rất đậm nét. Trong một truyện cổ, cuộc phiêu lưu kì thú của hai bạn thân là hoàng tử Pram Dit và Pram Lak ở những chi tiết gay cấn nhất chính là cuộc phiêu lưu dưới nhiều tầng biển.
Ngay cả truyền thuyết về người tạo dựng vương quốc Champa là Ppo Inư Nưgar, tức Bà Chúa Xứ, cũng gắn chặt với biển. Bà đã làm chuyến vượt biển đến tận xứ Tàu xa xôi, sau đó là cuộc trở về cũng bằng đường biển, để cuối rốt chính bà điều hành thủy quân Champa đánh đắm đoàn thuyền hoàng tử Trung Hoa trong trận thủy chiến oanh liệt. Truyền thuyết cho ta biết cuộc đi và về của vị tạo lập nước Champa gắn liền với biển.
Có thể nói, dù người Chăm nổi tiếng với kĩ thuật xây tháp gạch nung có một không hai, được thế giới biết đến với lúa Chiêm ngắn ngày, hay là dân tộc từng dựng nên hệ thống dẫn thủy nhập điền rất hiện đại, nhưng chính đời sống biển làm nên đặc tính Chăm, từ đó hình thành một nền văn hóa biển độc đáo.
Thế rồi, hiện giờ tất cả đang luân lạc nơi đâu? - Không biết!
Bấp bênh phận người, bấp bênh công sức của muôn người dựng nên một sự nghiệp, bấp bênh nền văn minh do cả cộng đồng người rộng lớn của mấy thế hệ tạo lập, là vậy. “Chúng ta vỡ lòng mốc bụi dĩ vãng”, một nhà văn đã nói thế. Tháng Tư vừa qua, để chuẩn bị cho buổi nói chuyện trong chương trình Sàn Art ở thành phố Hồ Chí Minh, tôi đã thử làm mấy cuộc phỏng vấn. Không có nhà nghiên cứu Chăm và cả ngoài Chăm nào có thể trình bày rành rẽ nền văn hóa biển kia. Tuyệt không có ai, nói chi người của thế hệ trẻ. Chúng ta không thể hình dung được kapal, gilai, ahauk, rakik… Chăm xưa như thế nào. Chúng ta cũng không biết ông bà đã chế tác và sử dụng chúng ra sao. Chúng ta càng không còn biết đâu là vốn ngôn từ liên can đến chúng. Bao nhiêu ngôn từ đã chết, để được đưa vào nghĩa trang chữ?
Và nghĩa trang kia ở đâu, ai biết?!
I.R.S.R
(SDB14/09-14)
NGUYỄN NHÃ TIÊN Bút ký"Hồng Lam ngũ bách niên thiên hạ. Hưng tộ diên trường ức vạn xuân". Nghĩa là: đất nước Hồng Lam sau ta năm trăm năm sẽ là một thời kỳ hưng thịnh vạn mùa xuân.Không hiểu những tương truyền về "sấm ký" Trạng Trình "ứng nghiệm" đến dường nào, đâu là nguyên bản và thực hư ra sao? Có điều, chúng tôi đang viếng thăm làng quê Trung Am xã Lý Học huyện Vĩnh Bảo - quê hương của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm đúng vào cái khoảng thời gian "sau năm trăm năm" ấy, và nhất là vào giữa cái kỳ gian mà đất nước đang từng ngày" Hưng tộ diên trường ức vạn xuân".
TRẦN HOÀNGTrong tiếng Việt, từ "Văn vật" là một từ thuộc nhóm từ gốc Hán và cùng tồn tại song song với các từ: Văn hoá, Văn hiến, Văn minh. Người xưa thường dùng từ này để nói, viết về truyền thống văn hoá của một vùng đất, hoặc của một địa phương. Chẳng hạn, lâu nay, cư dân đồng bằng Bắc bộ đã có câu: "Thăng Long là đất ngàn năm văn vật". Song có lẽ từ "Văn vật" xuất hiện nhiều nhất trong các cụm từ "làng văn vật", "danh hương văn vật". Điều này cho thấy từ xa xưa, tổ tiên ta đã rất quan tâm đến "văn hoá làng" và "làng văn hoá".
TÔ VĨNH HÀTrong lịch sử loài người, có những bức tranh, những pho tượng lấp lánh toả ánh hào quang lặng im của chúng trong sự lâu bền của năm tháng. Có những ký ức có thể thi gan cùng vĩnh cửu. Nhưng có lẽ, ngôn từ có sức mạnh riêng mà không một thách thức nào, dù là của không gian hay thời gian có thể làm nhạt nhoà những âm vang của nó. Tất nhiên, một khi nó đã đi vào trái tim và khối óc của con người. 1034 chữ của bản Tuyên Ngôn Độc Lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là một trong những áng ngôn từ có sức sống bền vững với thời gian như thế.
TRẦN QUỐC TOẢN Tôi sinh ra và lớn lên giữa làng Hến bé nhỏ bên bờ sông La xã Đức Tân (tức Trường Sơn ngày nay) huyện Đức Thọ - tỉnh Hà Tĩnh. Qua sự nhọc nhằn của cha, vất vả của mẹ đã đút mớm cho tôi từng thìa nước hến, bát cháo hến để rồi tôi lớn dần lên.
HỒ TƯNằm trên dải cát ven phá Tam Giang, từ xưa làng tôi cũng đã có một ngôi đình. Đến năm 1946, thực hiện chủ trương tiêu thổ kháng chiến, Chính quyền cách mạng đã vận động nhân dân triệt phá ngôi đình để tránh cho Tây khỏi làm nơi trú đóng.
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG Đất nước ta, miền Bắc và miền nối liền nhau bằng một dải đất dài và hẹp gọi là miền Trung. Dãy Trường Sơn chạy dọc biên giới phía Tây như một cột sống vươn những chi nhánh dài ra tận biển Đông, làm thành những đèo, trong đó hiểm trở là đèo Hải Vân.
PHẠM TIẾN DUẬT1.Trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước, khi nghiên cứu về dân tộc học, có luận điểm cho rằng, trong quá trình định cư dần dà từ Bắc vào Nam, các cộng đồng, một cách tự nhiên, hình thành từng vùng thổ âm khác nhau.
PHAN THUẬN AN.Nhiều người từng đến Lăng Cô hoặc nghe nói đến địa danh Lăng Cô, nhưng ít ai biết rằng vua Khải Định là người phát hiện ra khu du lịch nghỉ mát này.Có thể nói vua Khải Định là ông vua thích du lịch nhất trong số 13 vị vua triều Nguyễn (1802- 1945). Trong đời mình, nhà vua đã đi du lịch nhiều nơi tring nước và cả nước ngoài nữa.
Thiền tông, nhờ lịch sử lâu dài, với những Thiền ngữ tinh diệu kỳ đặc cùng truyền thuyết sinh động, lại chịu ảnh hưởng sâu sắc văn hóa Á đông xưa và thấm nhuần văn hóa Tây phương ngày nay nên đã cấu thành một thế giới Thiền thâm thúy, to rộng.
Nhân giỗ tổ Hùng Vương 10 tháng 3 Âm lịch
Anh tôi đang giàu lên với nghề nuôi rắn độc, bị con hổ mang hỏi thăm vào tay. Mấy tiếng đồng hồ cáng tắt qua các cánh rừng đến bệnh viện huyện được cứu sống, nhưng vết thương bị hoại tử, hơn tháng sau mới xuất viện, tiêu tốn hơn chục triệu. Năm sau anh tôi lại bị chính con hổ mang ấy hỏi thăm ở tay kia. Lần này thì tôi đánh xe đi mời thầy thuốc rắn bản Lúng.
Đó là làng Lệ Mật thuộc xã Việt Hưng, (thị trấn Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội). Làng này có nghề nuôi bắt rắn, tới nay đã qua 900 năm.
Các hoàng đế nước Việt xưa phần lớn giỏi chữ Hán, biết thơ văn, trải Lý, Trần, Lê, Nguyễn đời nào cũng có các tác phẩm ngự chế quý giá. Nhưng tất cả các tác phẩm ấy đều nằm trong quỹ đạo Nho Giáo, dùng chữ Hán và chữ Nôm để diễn đạt cảm xúc về tư tưởng của mình.
"Sang Xuân ta sẽ ăn Tết khai hạ vào ngày mùng 7 tháng Giêng". Vì sao vua Quang Trung dám tuyên bố cả quyết như trên trước mặt ba quân? Tất cả bí mật của cuộc hành binh khôi phục Thăng Long đều được "gói trọn" trong một chiếc bánh chưng.
LGT: Nhà văn Thái Vũ với những cuốn tiểu thuyết lịch sử nổi tiếng như Cờ nghĩa Ba Đình, Biến động - Giặc Chày Vôi, Huế 1885... nay đã gần 80. Tuổi già sức yếu song ông đã hoàn thành tập Hồi ức, gồm 4 phần dày dặn. Trong đấy phần II: HUẾ - QUẢNG NGÃI VÀ LK5 là những trang hồi ức đầy “xốn xang” trước và sau CM tháng Tám.Sông Hương xin trích đăng một phần nhỏ gửi tới bạn đọc nhân kỷ niệm ngày CM tháng Tám thành công và Quốc khánh 2 – 9.
Nếu kể cả những công trình nghiên cứu văn hóa, địa lý, lịch sử có đề cập đến các địa danh ở các tỉnh Trung Trung Bộ thì xưa nhất phải kể đến “ Ô Châu cận lục” của Dương Văn An đời Mạc chép về sông núi, thành trì, phong tục của xứ Thuận Quảng, từ Quảng Bình đến Quảng Nam. Kế đến là “ Phủ biên tạp lục” của Lê Quý Đôn tập hợp những tài liệu về địa lý, chính trị, kinh tế, văn hóa trong thời gian làm đô đốc xứ Thuận Hóa cuối thế kỷ 18.