Núi Ngự sông Hương

14:56 11/12/2008
PHAN THUẬN AN            Dạ thưa xứ Huế bây giờ,Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương.                                              (Bùi Giáng)

Từ xưa đến nay, núi Ngự và sông Hương là hai thắng cảnh thuộc vào hàng số một của xứ Huế. Hễ nói đến sông Hương là người ta nghĩ ngay đến núi Ngự, và khi nghe đến núi Ngự, người ta liên tưởng đến sông Hương. Với vẻ đẹp “bẩm sinh” do tạo hóa ban tặng và do “ông tơ bà nguyệt” kết nghĩa xe duyên, núi Ngự và sông Hương trở thành một cặp tình nhân chung thủy keo sơn, luôn luôn hiện hữu bên nhau như hình với bóng. Hai thực thể địa lý tự nhiên này đã đi vào đời sống văn hóa của cộng đồng cư dân địa phương và tồn tại mãi trong tâm thức của họ từ bao đời nay. Sông Hương núi Ngự cũng đã được “nhân cách hóa” để cùng chia sẻ vui buồn với người dân xứ Huế qua các giai đoạn thăng trầm của lịch sử. Núi sông cũng “khô héo lá gan”, “đầy vơi giọt lệ” khi người Huế bị rơi vào hoàn cảnh đau thương.

Núi Ngự Bình nằm cách bờ nam sông Hương khoảng 3km, ở địa điểm trước kia thuộc ấp Tứ Tây, làng An Cựu; sau đó thuộc xã Thủy An, thành phố Huế; nay lại thuộc phường An Cựu của thành phố. Tuy hòn núi này chỉ cao 104m, nhưng vì nó đột khởi giữa chỗ đất bằng, ở một vị thế đặc biệt, cho nên, ngay từ thế kỷ XVII, nó đã nằm trong tầm ngắm và lọt vào mắt xanh của các nhà quy hoạch và xây dựng đô thị Huế. Thật vậy, trong các bộ sách lịch sử và địa chí của mình, Quốc sử quán triều Nguyễn đều ghi rõ rằng vào năm 1687, khi chúa Nguyễn Phúc Thái cho dời Thủ phủ từ Kim Long về làng Phú Xuân, các nhà kiến trúc bấy giờ đã dùng hòn núi đặc biệt này làm tiền án, một yếu tố phong thủy trong kiến trúc cổ. Bấy giờ, nó đã được gọi là hòn Mô hoặc Bằng Sơn. Bằng là loài chim rất to lớn, như chim đại bàng chẳng hạn. Sở dĩ đặt tên Bằng Sơn là vì hòn núi mang dáng vẻ như một con chim đại bàng dang hai cánh để bay. Đây là một hòn núi tự nhiên, nhưng, từ phía bắc nhìn lại, trông nó cân phân, hai cánh hai bên đông tây đối xứng với nhau một cách đều đặn như do bàn tay con người đắp nên và tạo dáng. Hơn nữa, hai triền núi ở hai bên lại hơi chìa ra phía trước trông giống như hai cánh tay đang dang ra phía trước để chào đón một đối tượng nào đó của mình. Từ trên không trung nhìn xuống, người ta thấy hòn núi có dạng hình cánh cung với phần lưng uốn nhẹ về phía nam. Có lẽ vì thế nên ca dao cho rằng “núi Ngự Bình trước tròn sau méo” đó chăng? “Trước” và “sau” ở đây là nói theo hướng bắc nam của trục chính tổng thể kiến trúc đô thị Huế dựa vào thuật phong thủy từ xưa.

Cũng chính vì hòn núi này có sẵn một hình thế đặc thù như vậy, cho nên, nó vẫn được tiếp tục sử dụng làm tiền án khi chúa Nguyễn Phúc Khoát cho xây dựng Thủ phủ Phú Xuân lần thứ hai vào năm 1783, và nhất là khi vua Gia Long cho xây dựng Kinh đô Huế vào đầu thế kỷ XIX. Đến thời điểm cuối cùng này, vị vua đầu triều Nguyễn đã đặt tên chính thức cho núi ấy là “Ngự Bình sơn”. “Ngự” là một từ dùng để chỉ những gì thuộc về vua. “Bình” là ngăn che, nói tắt từ chữ “bình phong”, vật dùng để ngăn chặn những điều không tốt lành, những ảnh hưởng tâm linh xấu xa gây ra tai họa. Nói một cách dễ hiểu, “Ngự Bình sơn” là hòn núi dùng làm cái bình phong của vua (Do đó, nó được dịch ra tiếng Pháp là Mont Écran Royal, và tiếng Anh là Mount Royal Screen). Nó thường được gọi tắt là “núi Ngự” để đi cặp với “sông Hương” cũng là một địa danh xuất hiện vào đầu thế kỷ XIX.

Bấy giờ, cây thông đã được trồng phủ khắp từ chân đến đầu núi. Ở đây thường có gió, làm cho thông reo vi vu hầu như cả 4 mùa. Đặc biệt là vào mùa thu, thời tiết êm dịu, khí hậu trong lành, người xưa thường lên đây để được ngắm toàn cảnh của kinh đô và thưởng thức nhiều điều thú vị của thiên nhiên ở chỗ trời cao đất rộng. Triều đình nhà Nguyễn đã cho xây một hệ thống bậc cấp bằng đá từ chân lên đến đỉnh để cho vua quan và dân chúng đỡ hao sức khi leo núi vãn cảnh.

Một năm sau khi đăng quang (1821), chính vua Minh Mạng đã lên đây để “xem khắp hình thế Kinh thành”. Trong dịp này, vua thấy ở hai bên núi Ngự Bình có hai hòn núi thấp hơn, liền đặt tên cho hòn núi bên trái là “Tả Phụ sơn” (dưới thời Tây Sơn từng được gọi là núi Bân, nơi tế trời) và hòn núi bên phải là “Hữu bật sơn” (nay là 1 trong 3 hòn núi được gọi là Tam Thai). Năm 1836, khi đúc Cửu đỉnh, nhà vua đã cho đúc nổi “Ngự Bình sơn” vào Nhân đỉnh. Sau đó hai năm, 1838, nhân dịp “Trùng dương giai tiết”, còn gọi là ngày Trùng cửu (mồng 9 tháng 9 âm lịch), vua cùng các quan lên núi chơi và làm thơ tại chỗ để kỷ niệm. Từ đó, hàng năm, các vua nhà Nguyễn lên đây để thưởng lãm thắng cảnh này. Trong một lần lên đây nhân tiết Trùng dương như vậy, vua Thiệu Trị cũng đã cảm nhận rằng: “Ngắm khói mây mà tấm lòng rộng mở; nhìn phong cảnh tận hưởng thú thiên nhiên”, rồi ngự chế bài thơ “Bình lãnh đăng cao” để ca ngợi và xếp núi Ngự Bình vào trong 20 thắng cảnh của đất Thần kinh. Bài thơ đã được khắc vào bia đá và dựng tại chân núi vào năm 1843, nay vẫn còn tại chỗ, được bảo vệ trong một bi đình xây bằng gạch vồ rất kiên cố.

Trong 30 năm chiến tranh, hầu hết cây thông ở núi Ngự Bình đã bị chặt phá để làm củi. Sau ngày hòa bình (1975), thông đã được trồng lại và rừng thông ở đó lại trở nên xanh tươi, có nhiều cây đã cao hơn 5m.
Dù sao, từ thế kỷ XVIII đến nay, núi Ngự cũng đã gắn bó mật thiết với kiến trúc đô thị Huế và với đời sống văn học nghệ thuật của con người địa phương. Cùng với sông Hương, núi Ngự vẫn luôn luôn là một hình tượng độc đáo, một nét đẹp đặc biệt, đã từng đi vào trong nhiều thơ, ca, nhạc, họa, và cả trong một số chuyện tình.
Người tình của núi Ngự là sông Hương.
Có người đã từng so sánh vẻ đẹp thơ mộng tự nhiên của sông Hương ở Huế với sông Seine ở Pháp và sông Danube ở Châu Âu. Trong nước thì sông Hồng, sông Hương và sông Cửu Long đã được xem là “3 chị em" đại diện cho 3 miền Bắc, Trung, . Riêng ở Huế thì tất nhiên, sông Hương là sông chính, sông cái, sông mẹ của một hệ thống sông ngòi tự nhiên và nhân tạo trên địa bàn.

Ở thượng lưu, sông Hương do hai nguồn nước Tả trạch và Hữu trạch hợp lại mà thành. Ở trung lưu và hạ lưu, sông Hương còn được tiếp thêm nước của sông Bồ và của khá nhiều sông nhánh ở hai bờ tả hữu ngạn.
Tả trạch phát nguyên từ vùng tiếp giáp giữa tỉnh Thừa Thiên Huế và tỉnh Quảng , nằm ở cao độ khoảng 1.100m. sau khi đi qua 55 thác ghềnh, đến vùng Dương Hòa thì cao độ chỉ còn 100m, và đến ngã ba Bằng Lãng thì cao độ chỉ còn 33m. Từ đầu nguồn đến đây dài 61km.
Hữu trạch ngắn hơn, khoảng 56km, phát xuất từ biên giới Việt - Lào. Cao độ ở đây cũng thấp hơn, khoảng 900m. sau khi chảy qua 14 thác ghềnh với lộ trình 30km, Hữu trạch giảm cao độ xuống còn 100m ở một địa danh từng được gọi là Mang Cá. Nó chảy tiếp theo hướng đông bắc, vừa qua khỏi lăng Minh Mạng thì kết nghĩa xe duyên với Tả trạch để tạo ra một mối tình rất thơ mộng được gọi tên là Hương Giang.

Sông Bồ phát xuất từ A Roàng gần biên giới Việt - Lào, cũng ở cao độ khoảng 900m. Trên hành trình dài chừng 80km, nó chảy quanh co qua các huyện A Lưới, Hương Trà, Quảng Điền, và đổ nước ra sông Hương ở ngã ba Sình. Từ đây, sông Hương chảy thêm khoảng 5km về hướng đông bắc là gặp phá Tam Giang, rồi cùng giao lưu với biển cả qua hai thủy khẩu Thuận An và Tư Hiền.
Nhìn chung, lưu vực của hệ thống sông Hương và các chi lưu lớn nhỏ của nó có diện tích 2.713km2, chiếm hơn 1/2 tổng diện tích đất tự nhiên của cả tỉnh Thừa Thiên Huế (5.053,99km2).

Tuy nhiên, giá trị thẩm mỹ quan trọng nhất của hệ thống dòng chảy ấy là chính bản thân sông Hương dài chưa tới 35km từ ngã ba Bằng Lãng trước mặt chợ Tuần đến cửa biển Thuận An. Đặc biệt là đoạn trung lưu dài khoảng 15km từ chân đồi Vọng Cảnh về đến Vỹ Dạ - Bao Vinh. Từ đầu đến cuối sông, cao độ đáy của nó chênh lệch rất nhỏ và lòng sông tương đối rộng (khoảng 300m), cho nên nước chảy không hối hả mà chỉ lờ lững trôi xuôi. Đây là nơi “Con sông dùng dằng con sông không chảy. Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu” (Thu Bồn). Cách xuất phát điểm chẳng bao xa, dòng sông uốn lượn mềm mại qua vùng gò đồi và vùng đồng bằng nối tiếp. Các nhà qui hoạch và xây dựng đô thị Huế dưới thời các vua chúa nhà Nguyễn đã bị vẻ đẹp tự nhiên của chính đoạn sông này cuốn hút một cách mạnh mẽ.

Có thể khẳng định sông Hương là nhân tố quyết định trong việc hình thành và phát triển đô thị Huế từ xưa đến nay. Vào năm 1636, chúa Nguyễn Phúc Lan đã chọn Kim Long, một địa bàn ở bờ bắc của nó để xây dựng Thủ phủ Đàng trong. Thủ phủ Phú Xuân vào năm 1687 dưới thời chúa Nguyễn Phúc Thái cũng được xây dựng ở bờ bắc của dòng sông. Rồi khi xây dựng và mở rộng kinh đô Huế vào đầu thế kỷ XIX, vua Gia Long đã tái sử dụng vị trí cũ ấy và tận dụng tất cả lợi thế của sông Hương về các phương diện phong thủy, phòng thủ, môi trường cảnh quan, tài nguyên nước, vv...Trên đoạn sông Hương chảy qua trước mặt Kinh thành, ở hai bên có sẵn hai hòn đảo nhỏ do phù sa bồi lắng mà thành: cồn Hến và cồn Dã Viên. Về mặt phong thủy, nếu sông Hương trở thành yếu tố “minh đường” của kiến trúc kinh đô thì cồn Hến và cồn Dã Viên đã được hình tượng hóa và siêu nhiên hóa thành “tả thanh long” và “hữu bạch hổ” chầu vào trọng địa. Mặc dù thuật phong thủy được đánh giá như thế nào, chúng ta cũng có thể nhận ra được một hệ quả tốt đẹp của nó là các nhà kiến trúc đầu thế kỷ XIX đã tạo dựng bên bờ sông Hương một đô thị có non xanh nước biếc vừa uy nghi cổ kính, vừa thơ mộng trữ tình.

Khi đúc bộ Cửu đỉnh vào năm 1836, vua Minh Mạng đã cho trang trí hình ảnh sông Hương trên Nhân đỉnh. Vua Thiệu Trị cũng đã liệt sông Hương vào trong 20 thắng cảnh của đất Thần kinh và đã làm bài thơ “Hương giang hiểu phiếm” (Thả thuyền sáng sớm trên sông Hương) để ca ngợi dòng nước trong xanh êm đềm và vẻ đẹp thơ mộng huyền ảo của nó. Bài thơ đã được khắc vào bia đá và dựng ở gần Phu Văn Lâu bên bờ sông ngay từ năm 1843, nay vẫn còn tại chỗ.
Năm 1918, từ đất Bắc vô thăm Huế lần đầu tiên, nhà báo Phạm Quỳnh đã nhận định về giá trị thẩm mỹ và vai trò của sông Hương đối với Huế như sau:
“Người khách mới đến thành Huế như bước chân vào bức tranh cảnh: chung quanh núi, giữa con sông, nhà cửa tụ họp hai bên bờ, trên bến dưới thuyền, trông xa một tòa thành cổ bao la, thâm nghiêm kín cổng. Cái phong cảnh Huế sở dĩ đẹp là thứ nhất bởi con sông Hương Giang... Nước trong như vắt, dòng phẳng như tờ, ít khi có sóng gợn trên mặt, đi thuyền trên sông như đi trong hồ vậy. Huế không có con sông Hương thì tưởng như cái đẹp của xứ Huế giảm mất nửa phần” (Tạp chí Nam Phong).
Mặc dù bài báo “Mười ngày ở Huế” của học giả Phạm Quỳnh đã được đăng tải cách đây gần 1 thế kỷ, nhưng những nhận định chính xác về sông Hương như vừa nêu mãi đến ngày nay vẫn còn nguyên giá trị.

Gần đây, vào năm 2003, một Kiến trúc sư cảnh quan người Pháp là ông Francois Xavier Mousquet đã đến Huế để khảo cứu tình hình quy hoạch đô thị trong khuôn khổ chương trình hợp tác, trao đổi văn hóa do UNESCO tổ chức giữa thành phố Lille (vùng Nord Pas de Calais) và Huế. Trong tập báo cáo của ông, có một đoạn KTS F.X. Mousquet cho rằng yếu tố đặt trưng của đô thị Huế là nước mà quan trọng nhất là sông Hương. Ông viết:
“Dòng sông Hương không hề cắt đôi thành phố Huế mà ngược lại, nó như được ôm vào giữa lòng thành phố... Tính linh động của nước tạo nên những không gian ở thật kỳ lạ... Nước len lỏi trong thành phố bảo đảm cho sự tạo thành những không gian đóng-mở phong phú, đồng thời đây cũng còn là lá phổi của thành phố” và ”thực sự là nền tảng cơ bản của việc tổ chức quy hoạch thành phố”.

Khi xây dựng khu phố Tây bên bờ nam sông Hương vào những thập niên cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, chính người Pháp cũng đã tỏ ra rất tôn trọng và khiêm tốn đối với vẻ đẹp tuyệt vời của dòng sông. Nhưng, trong nửa thế kỷ nay, vì nhiều nguyên nhân, tác động và tham vọng khác nhau, thảm thực vật xanh tươi và phong cảnh tự nhiên vốn có của sông Hương, nhất là ở bờ nam, đã bị phá vỡ và xuống cấp dần.
Cứu vãn sông Hương, một phần hồn của Huế, đang là lời kêu gọi hết sức khẩn thiết cho thành phố này, cho Việt và cho di sản thế giới.
Núi Ngự sông Hương vẫn còn đó, nhưng, hiện nay, hai thực thể địa lý tự nhiên này đang ngày càng phải xa nhau dần, không phải vì mối tình đã đến hồi kết, mà vì những công trình cao tầng thiếu quy hoạch mọc lên ngày càng nhiều ở giữa không gian sông và núi ấy, khiến cho đôi tình nhân ngày càng trở nên cách trở. Nói cách khác, hai thắng cảnh này đang đứng trước những thách thức do sự xâm phạm đất đai và sự khai thác kinh tế của con người.
             P.T.A

(nguồn: TCSH số 209 - 07 - 2006)

 

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • MẶC KHÁCHHuế nguyên là đất đế đô, nơi sinh trưởng của vua chúa, chốn triều đình quan lại, đa số tao nhân mặc khách đều tụ họp về đây. Do đó mà tiếng nói của xứ Huế, trang nhã thanh tao, có khi lại nặng mùi “bề trên” hoặc kiểu cách đến buồn cười.

  • NGUYỄN HỮU ĐÍNHMột nhà văn tên tuổi địa phương - địa phương nhưng kiêm cả Trung ương - đã say sưa mô tả con sông Hương, với một đầu đề trớ trêu và duyên dáng: “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” Trớ trêu và duyên dáng hơn nữa là nêu lên câu hỏi mà không chịu trả lời.

  • THÁI DOÃN LONGKính tặng thầy: Cao Xuân Hưởng, Nguyễn Trực Luyện và H.N

  • VÂN LONGHuế đã vào tôi từ thuở thiếu thời qua hai câu thơ của Nam Trân:                Thuyền nan đủng đỉnh sau hàng phượng                Cô gái Kim Luông yểu điệu chèo

  • PHAN THUẬN ANCó một bãi đất trống nằm giữa Ngọ Môn và Kỳ Đài. Nói chính xác hơn, không gian ấy được giới hạn bởi đường 23 tháng 8 ở phía bắc, chân tường Kinh thành ở phía nam, con đường ngắn sau cửa Thể Nhân (thường gọi là cửa Ngăn) ở phía đông và con đường ngắn sau cửa Quảng Đức ở phía tây. Chiều bắc nam của nó rộng gần 125m và chiều đông tây dài khoảng 360m.

  • HỒ VĨNHTôi đứng trên sân thượng Sài Gòn- Morin Huế, nhìn lên phía Tây thành phố trong buổi chiều tà le lói vài tia nắng trên các tán lá rất cao. Nhìn về phía Bắc sông Hương, Thành nội cổ kính chìm trong cây xanh.

  • NGUYỄN THANH HÙNGTôi chưa biết Huế nên buồn vì bỏ qua một vẻ đẹp. Buồn vì mãi mãi không thể chiêm ngưỡng cố đô của đất nước một thời ngang ngửa. Một khoảng trống văn hóa về cổ vật kiến trúc nguyên vẹn của tịnh đô Huế không thể lấp đầy trong tôi, luôn tin tưởng vào sự hữu linh của vạn vật.

  • NGUYỄN TRỌNG HUẤN(Nhân xem “Huế - đất mẹ của tôi” sách ảnh của Đào Hoa Nữ. Nhớ Huế, suy ngẫm và…. cảm nhận)

  • TRƯƠNG THỊ THUYẾT1. Huế không chỉ nổi tiếng là một thành phố đẹp, nên thơ với những danh lam thắng cảnh như sông Hương, núi Ngự, chùa Thiên Mụ và những lăng tẩm cổ kính...mà còn được du khách biết đến bởi những nghề truyền thống của mình.

  • LÊ THỊ KIỀU HẠNHHiếm có một vùng đất nào trên thế giới mà con người đã tạo ra một bản sắc văn hóa độc đáo như kiểu nhà vườn Huế.

  • DĨNH QUỐC ANHLăng tẩm Huế là một trong những thành tựu rực rỡ bậc nhất của kiến trúc văn hóa cổ Việt Nam. Ngoài 8 lăng chính của các vua Gia Long, Minh Mạng,Thiệu Trị, Tự Đức, Dục Đức, Kiến Phúc, Đồng Khánh, Khải Định, còn có đến hàng ngàn ngôi mộ tồn tại qua nhiều thế kỷ của các bậc danh nhân văn hóa, người có công với đất nước.

  • LÊ VIẾT XUÂNCó thể nói, so với các Bảo tàng và Di tích lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh toàn quốc, thì Bảo tàng Hồ Chí Minh Thừa Thiên - Huế có một vị trí quan trọng, sau khu Di tích Kim Liên (Nghệ An), khu Di tích Pác-Bó (Cao Bằng), khu Di tích Phủ Chủ tịch và Bảo tàng Hồ Chí Minh Hà Nội.

  • BẢO ĐÀN 1. Đặt vấn đề1.1. Như một sự ngẫu nhiên của lịch sử, xứ Huế - từ vùng đất biên viễn quốc gia trong nhiều thế kỷ, trở thành thủ phủ của vùng miền và là kinh đô của một quốc gia thống nhất sau đó. Đây chính là nền tảng thuận lợi để vùng đất này hội tụ, quy tập cho mình một hệ thống làng nghề thủ công, cần thiết cho sự tồn tại và làm tròn vai trò của một vùng trung tâm.

  • BỬU Ý28 Tháng Hai lại về, gợi nhớ về sinh nhật của Trịnh Công Sơn. Vào thời điểm này, bạn bè Trịnh Công Sơn ở Huế và Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế đang chuẩn bị cho Nhà lưu niệm Trịnh Công Sơn theo chủ trương của UBND tỉnh và mong muốn của những người yêu mến nhạc sĩ tài hoa này.Sông Hương xin giới thiệu bài viết của Bửu Ý- người bạn rất gắn bó với Trịnh Công Sơn - như một gợi ý mời gọi bạn bè cùng góp ý để sớm hình thành ý nguyện này.

  • THANH TÙNGNhững dịp lễ hội, những chiều hè gió lộng và đẹp trời, trên bầu trời cố đô Huế rực rỡ đủ sắc màu của những cánh diều mượt mà trong hình dáng các loài chim, thú: long, lân, ly, phụng, công, bướm, quạ. Đặc sắc nhất thì diều đại bàng cứu công chua, diều bướm đốt pháo, diều Tôn Ngộ Không...

  • NGUYỄN QUANG HÀCả khung trời hồng dần lên. Sóng Tam Giang lấp lánh hồng. Con thuyền của chúng tôi như rẽ bình minh đi thẳng đến mặt trời. Bầy chim trời đang ăn trên mặt phá, gặp động, chúng rào rào vỗ cánh vù bay lên, rợp trời, như một đám mây, rồi lại rào rào hạ cánh đáp xuống phía phá bên kia.

  • TRƯƠNG THỊ THUYẾTĂn là một biểu hiện của văn hóa. Nghiên cứu nhóm từ chỉ cách ăn uống, chỉ các món ăn của Huế là tìm ra những nét riêng biệt trong sắc thái văn hóa Huế.

  • THANH TÙNGVăn hoá tâm linh là một loại hình văn hoá tinh thần đặc thù của nhiều dân tộc trên thế giới. Với người Việt, từ xưa đến nay văn hóa tâm linh thể hiện ở tình cảm linh thiêng, ở niềm tin và sự tri ân của mọi người đối với những người thân đã mất, niềm tin của cả cộng đồng đối với những vị anh hùng, các bậc tiền bối đã có công lao xây dựng, bảo vệ đất nước; các vị tiền hiền được tôn làm Thần - Thánh, Thành hoàng; thể hiện sự kính trọng và cầu mong sự che chở của các vị thiên thần v.v…

  • TRẦN HÀ TRUNGCứ mỗi lần nghe tiếng trống vang khắp nước, nhất là ở Đống Đa lịch sử (mồng năm tháng giêng) lòng tôi rộn ràng từ những ngày bé nhỏ.

  • HỒ VĨNH       Phóng sựTôi đứng trên nhà bia lăng Minh Mạng thì nghe kiến trúc sư Kazimierz Kwiatkowski (Kazik) đột ngột qua đời vì bệnh tim. Tôi bàng hoàng lặng người trong giây lát rồi đạp xe về Thế Miếu nơi công trình Kazik đang trùng tu.