Nữ quyền luận và “siêu lý đàn bà”

09:09 23/08/2016

NGÔ MINH

Ở nước ta sách phê bình nữ quyền đang là loại sách hiếm. Câu chuyện phê bình nữ quyền bắt đầu từ tư tưởng và hoạt động các nhà phê bình nữ quyền Pháp thế kỷ XX.

Nữ quyền là phần quan trọng của nhân quyền, là vấn đề xã hội rất bức xúc của thế giới, đồng thời là đề tài nóng trong văn chương đương đại.

Trong chuyên luận Nữ quyền luận ở Pháp và tiểu thuyết nữ Việt Nam đương đại (Nxb. Phụ Nữ, 2016), Trần Huyền Sâm đã đặt vấn đề: “Phê bình nữ quyền là một cuộc đối thoại quyết liệt giữa giới nữ và các nhà triết học nam quyền”. Các nhà phân tâm học (tiêu biểu là S.Freud) đã đứng trên quan điểm: Ngoài nam quyền, mọi cái đều ngoại biên. Các nhà triết học từ cổ đại Hy Lạp đến cấu trúc luận đều chứng minh rằng: Con người trung tâm vũ trụ ở đây chính là đàn ông. Vì vậy “phê bình nữ quyền phải tiến đến giải thiêng những huyền thoại về nam giới. Lấy tính nữ làm trung tâm, họ thay đổi hệ thống diễn ngôn nam quyền thành diễn ngôn nữ quyền. Vận dụng lý thuyết nữ quyền, tác giả đã khảo cứu, phân tích và làm rõ tinh thần nữ quyền trong tiểu thuyết nữ Việt Nam đương đại. Tính chất tự thuật - một phương diện thể nghiệm đặc trưng của lối viết nữ, làm nên “bản mặt” của văn phong nữ giới Việt được tác giả lý giải rất thuyết phục. Để có được công trình này, Trần Huyền Sâm đã dành mấy năm ròng nghiên cứu nữ quyền Pháp, đi sang Pháp, đến tận nghĩa địa tìm mộ các nhà nữ quyền để suy ngẫm, chiêm nghiệm. Phương pháp nghiên cứu của tác giả bắt đầu từ triết học đến văn chương Pháp và Việt đã tạo ra chiều sâu, độ dày cho công trình.

Đọc công trình này của Trần Huyền Sâm, ta mới biết cuộc đấu tranh đòi nữ quyền thật không dễ, kéo dài hàng trăm năm và đến nay vẫn còn rất nóng bỏng! Bức tranh nữ quyền được tác giả khảo tả qua ba làn sóng. Làn sóng nữ quyền thứ nhất từ thế kỷ XVII đến nửa đầu thế kỷ XX, có tầm ảnh hưởng sâu rộng nhất là Marie-Olimpe de Rouges với Bản Tuyên ngôn về quyền của phụ nữ và công dân,1791. Dựa trên Bản tuyên ngôn nhân quyền của cuộc cách mạng Pháp 1789, M.O de Rouges đã đề xuất những quyền lợi chính đáng của phụ nữ mà chế độ nam quyền đã “tước đoạt”. Vì những hoạt động nữ quyền quyết liệt ấy, bà bị quy án “chống đối chính phủ” và bị tử hình ở Quảng trường Cách mạng Pháp năm 1793. M.O de Rouges bị tử hình, nhưng Bản tuyên ngôn về quyền của phụ nữ và công dân của bà đã được hiện thực hóa. Lần đầu tiên, vào năm 1944, phụ nữ Pháp được đi bầu cử và nhiều quyền công dân của họ được thừa nhận. Làn sóng nữ quyền thứ 2 ở Pháp (bắt đầu từ giữa thế kỷ XX) với gương mặt tiêu biểu là triết gia Simone de Beauvoir. Với Phong trào giải phóng nữ giới, mà tiêu biểu là sự kiện biểu tình Tháng Năm 68 (Mai 68) dẫn đến sự thay đổi cấu trúc nước Pháp theo hướng giành thêm quyền tự do của phụ nữ như giải phóng tình dục, giải phóng quyền thân thể, đặc biệt là quyền được nạo thai. Năm 1975, luật phá thai được Quốc hội Pháp thông qua. Làn sóng nữ quyền thứ 3 đã hình thành khuynh hướng phê bình nữ quyền, với mục đích là giải cấu trúc những quan niệm cực đoan của các nhà triết học phân tâm, phá vỡ hệ diễn ngôn lấy nam quyền làm trung tâm.

Đặc biệt, nhà triết học hiện sinh Simone de Beauvoir (1908 - 1986) đã được Trần Huyền Sâm nghiên cứu và phân tích, rút ra những kết luận xác đáng, bổ ích. Simone de Beauvoir đi từ cội nguồn bản thể luận nữ giới để khái quát thành những luận điểm có tính chất triết học về giới. Bà đã đúc kết lý thuyết nữ quyền bằng chính trải nghiệm của bản thân mình thông qua tình bạn, tình yêu với nhà triết học Jean Paul Sartre. Simone de Beauvoir đã đối thoại thẳng thừng, vạch rõ những quan điểm phiến diện và cực đoan của nhà phân tâm học Freud và Nietzsche về tính nữ. Freud bắt nguồn từ chỗ ông là người Do Thái, chịu ảnh hưởng của Kinh Cựu ước với ba huyền tích: Một, Thiên Chúa sáng tạo ra con người theo hình ảnh của Chúa, mà Chúa là đàn ông nên thế giới này đều lấy đàn ông làm trung tâm. Hai, Chúa sáng tạo ra đàn bà chỉ để bổ sung cho sự cô độc của đàn ông (Đức Chúa rút ra một cái xương sườn của con người (đàn ông) ra, và lấy thịt đắp vào). Ba, đàn bà được tạo nên từ thực thể đàn ông, nên đàn bà luôn là kẻ chịu ơn, kẻ phụ thuộc. Trong các tác phẩm Giới thứ hai, Simone de Beauvoir đã phủ nhận luận điểm cực đoan khi nói về phụ nữ của Nietzsche. Ông cho rằng đàn bà là một giống nông cạn, không thể đặt sánh đôi với vị trí đàn ông. Simone de Beauvoir cho rằng đó là một luận thuyết lừa mị đàn bà. Si tình là thuộc tính của con người. Lý giải tại sao trong những cuộc tình đàn bà hay phụ thuộc vào đàn ông, bà cho rằng đó là do đặc tính giới. Theo Trần Huyền Sâm, chính những lập luận sắc bén của Simone de Beauvoir đã góp phần quan trọng trong việc “giải cấu trúc” những quan điểm cực đoan về phụ nữ.

Tác giả công trình cũng đã bàn luận thêm về nữ giới với Simone de Beauvoir rất sâu sắc. Trần Huyền Sâm khẳng định: “Một khi mà nữ quyền là nhân quyền, thì luận điểm vừa nêu, không cần phải tường minh gì thêm. Nhưng “nghĩ thêm” về nữ giới, về “siêu lý” đàn bà, Trần Huyền Sâm đặt lại câu hỏi mà các nhà triết học phương Tây băn khoăn: Đàn bà, thiển thần hay ác quỷ? Và trả lời: trong lĩnh vực nghệ thuật, phụ nữ là một Nàng thơ, là Nữ thần nghệ thuật, là Bà mẹ tự nhiên vĩ đại. Vậy vì sao có sự phân biệt về địa vị xã hội, về vấn đề nhân quyền giữa nữ giới và nam giới?

Văn chương Việt từ mấy thế kỷ trước, dù hiếm hoi, cũng đã có những tác phẩm bảo vệ nữ quyền. Như thơ Hồ Xuân Hương nói về quyền được phát ngôn, được bày tỏ tình yêu; hay trong Quan Âm Thị Kính, nhân vật Thị Mầu là biểu trưng của quyền được yêu; Kiều của Nguyễn Du cũng quan niệm rất hiện đại: Kiều 15 năm lưu lạc giang hồ vẫn Chữ trinh còn một chút này… Trần Huyền Sâm đã khảo luận rất công phu nội dung Tinh thần nữ quyền của tiểu thuyết nữ Việt Nam đương đại - nhìn từ các dang thức trần thuật qua các thế hệ nhà văn nữ trước và sau chiến tranh. Các tác giả như: Đoàn Lê, Y Ban, Võ Thị Hảo, Dạ Ngân, Võ Thị Xuân Hà, Đoàn Minh Phương, Lý Lan, đã thể hiện một cái tôi nữ giới mạnh mẽ và bạo liệt. Thông qua các dạng thức trần thật, tiểu thuyết các nữ Việt đã thể hiện được những sắc thái khắc nhau về tinh thần nữ quyền trong những giai đoạn lịch sử cụ thể. Đặc biệt, tinh thần nữ quyền của các nhà văn nữ Việt hải ngoại được thể hiện táo bạo qua việc khai thác mạnh mẽ. Ở đây, “bản mặt” cái tôi nữ giới được công khai. Các nhà văn nữ, cũng đã có những diễn ngôn mạnh mẽ về tuổi dậy thì, nỗi đau mất trinh tiết, nỗi đau chối bỏ một phần thân thể (nạo thai), hay bản năng được làm mẹ đã khiến cho các sáng tác của nữ đã; trở thành một nét đặc thù so với nam giới. Mưa ở kiếp sau của Đoàn Minh Phương, Tường thành của Võ Thị Xuân Hà, hay Tiểu thuyết đàn bà của Lý Lan, Gia đình bé mọn của Dạ Ngân… đã thể hiện đậm nét “chất đàn bà” ấy của nữ quyền. Trong các trần thuật, họ cũng thể hiện được ngôn ngữ thân thể nguyên sơ của phụ nữ, trở thành một nội dung quan trọng trong hoạt động nữ quyền.

Ở trên tôi đã điểm qua những vấn đề nữ quyền được khảo cứu trong công trình Nữ quyền luận ở Pháp và tiểu thuyết nữ Việt Nam đương đại. Ngoài những ưu điểm của các cây bút nữ Việt Nam được tôn vinh, tác giả Trần Huyền Sâm cũng chỉ ra những hạn chế của văn học nữ Việt. Vì thế “Nữ quyền luận” vẫn đang vẫy gọi phía trước.

N.M  
(TCSH330/08-2016)





 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LGT:Rainer Maria Rilke (1875 – 1926) người Áo, sinh tại Praha, đã theo học tại Praha, Muenchen và Berlin triết học, nghệ thuật và văn chương, nhưng không hoàn tất. Từ 1897 ông phiêu lưu qua nhiều nước Âu châu: Nga, Worpswede (Ðức) (1900), Paris (1903) và những nước khác trong và sau thời thế chiến thư nhất (Thụy sĩ, Ý…). Ông mất tại dưỡng viện Val-Mont vì bệnh hoại huyết.

  • Giới thiệu tập thơ đầu tiên của anh Khúc ru tình nhà thơ Ngô Minh viết: “Toàn từng làm thơ đăng báo từ trước năm 1975. Hơn 20 năm sau Toàn mới in tập thơ đầu tay là cẩn trọng và trân trọng thơ lắm lắm”.

  • 1. Trước khi có cuộc “Đối thoại với Cánh đồng bất tận” trên báo Tuổi trẻ tháng 4. 2006, Nguyễn Ngọc Tư đã được bạn đọc biết đến với tập truyện ngắn Ngọn đèn không tắt, giải Nhất trong cuộc vận động sáng tác Văn học tuổi XX (lần 2) năm 2000, được tặng thưởng dành cho tác giả trẻ của Uỷ ban toàn quốc Liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật Việt Nam năm 2000, giải B của Hội Nhà văn Việt Nam năm 2001…

  • Nhân ngày 9/5 chiến thắng phát xít Đức.

  • ...Đưa người ta không đưa qua sôngSao có tiếng sóng ở trong lòng?...

  • Những năm đầu sau ngày miền giải phóng, có mấy lần nhà thơ Xuân Diệu vào các tỉnh Nam Trung Bộ và dừng ở Nha Trang ít ngày. Đến đâu Xuân Diệu cũng nói chuyện thơ, được người nghe rất hâm mộ, đặc biệt là giới trẻ.

  • Có nhiều khi trong đời, “trôi theo cõi lòng cùng lang thang” như Thiền sư Saigyo (Nhật Bản), bất chợt thèm một ánh lửa, một vầng trăng. Soi qua hương đêm, soi qua dòng văn, soi qua từng địa chỉ... những ánh lửa nhỏ nhoi sẽ tổng hợp và trình diện hết thảy những vô biên của thế cuộc, lòng người. “Trong mắt tôi” của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã là ánh lửa ấy, địa chỉ ấy.

  • 1. Kawabata Yasunari (1899 -1972) là một trong những nhà văn làm nên diện mạo của văn học hiện đại Nhật Bản. Ông được trao tặng giải Nobel năm 1968 (ba tác phẩm của Kawabata được giới thiệu với Viện Hoàng gia Thụy Điển để xét tặng giải thưởng là Xứ Tuyết, Ngàn cách hạc và Cố đô).

  • (Thơ Đỗ Quý Bông - Nxb Văn học, 2000)Đỗ Quý Bông chinh phục bạn hữu bằng hai câu lục bát này:Đêm ngâu lành lạnh sang canhTrở mình nghe bưởi động cành gạt mưa.

  • Thạch Quỳ là nhà thơ rất nhạy bén trong việc nắm bắt thông tin và chóng vánh tìm ra ngay bản chất đối tượng. Anh làm thơ hoàn toàn bằng mẫn cảm thiên phú. Thơ Thạch Quỳ là thứ thơ có phần nhỉnh hơn mọi lý thuyết về thơ.

  • Kỷ niệm 50 năm ngày mất nhà văn Nam Cao (30.11.1951-30.11.2001)

  • Có một con người đang ở vào cái tuổi dường như muốn giũ sạch nợ nần vay trả, trả vay, dường như chẳng bận lòng chút nào bởi những lợi danh ồn ào phiền muộn. Đó là nói theo cái nghĩa nhận dạng thông thường, tưởng như thế, nơi một con người đã qua "bát thập". Nhưng với nhà thơ Trinh Đường, nhìn như thế e tiêu cực, e sẽ làm ông giận dỗi: "Ta có sá gì đi với ở".

  • Nhà thơ Trinh Đường đã từ trần hồi 15g10’ ngày 28.9.2001 tại Hà Nội, thọ 85 tuổi. Lễ an táng nhà thơ đã được tổ chức trọng thể tại quê nhà xã Đại Lộc huyện Duy Xuyên tỉnh Quảng , theo nguyện vọng của nhà thơ trước khi nhắm mắt.

  • Phan Ngọc, như tôi biết, là người xuất thân trong gia đình Nho giáo, đã từng làm nghề dạy học, từ năm 1958 chuyển sang dịch sách, là người giỏi nhiều ngoại ngữ. Hiện nay, ông đang là chuyên viên cao cấp của Viện Đông Nam Á (Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia).

  • Có những con người mà ta chỉ gặp một đôi lần trong đời để rồi mãi nhớ, mãi ám ảnh về họ. Với tôi, nhà văn Trần Dần là người như vậy.

  • Trước tình hình số tập thơ được xuất bản với tốc độ chóng mặt, người ta bỗng nhiên cảm thấy e ngại mỗi khi cầm một tập thơ trên tay. E ngại, không phải vì người ta sợ nhọc sức; mà e ngại vì người ta nghĩ rằng sẽ phải đọc một tập thơ dở! Cảm giác ấy xem ra thật là bất công, nhưng thật tình nó quả là như vậy.

  • Những năm từ 1950 khi học ở trường trung học Khải Định (Quốc học Huế), tôi đã đọc một số bài thơ của Dao Ca đăng trên một số tờ báo như Đời mới, Nhân loại, Mới, Thẩm mỹ...

  • Tôi đến tìm ông vào một buổi sáng đầu đông, trong căn nhà ngập tràn bóng tre và bóng lá. Nếu không quen ắt hẳn tôi đã khá ngỡ ngàng bởi giữa phồn hoa đô hội lại có một khu vườn xanh tươi đến vậy!.

  • LTS: Rạng sáng ngày 11-7-2001, Toà soạn nhận được tin anh Đoàn Thương Hải - hội viên Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế, sau một cơn đột quỵ, mặc dù đã được gia đình, bạn bè và các thầy thuốc Bệnh viên Trung ương Huế tận tình cứu chữa nhưng không qua khỏi, đã rời bỏ chúng ta an nhiên về bên kia thế giới!Tạp chí Sông Hương - Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế xin có lời chia buồn sâu sắc tới gia quyến nhà văn.Sông Hương số này xin giới thiệu hai bài thơ cuối cùng của anh được rút ra từ tập thơ chép tay lưu giữ tại gia đình.TCSH

  • Thơ Đặng Huy Giang xuất hiện trên thi đàn đã nhiều năm nay; song thật sự gây ấn tượng với bạn đọc phải kể đến một vài chùm thơ mà báo Văn nghệ đăng tải trên trang thơ dự thi 1998 - 2000; đặc biệt sau đó anh cho ra mắt bạn đọc hai tập thơ một lúc: Trên mặt đất và Qua cửa.