Nói ngược

14:35 20/08/2008
CAO XUÂN HẠOĐọc bài Nỗi đau của tiếng Việt của Hữu Đạt (H.Đ) trong tuần báo Văn nghệ số 9 (2-3-2002), tôi kinh ngạc đến nỗi không còn hiểu tại sao lại có người thấy mình có thể ngồi viết ra một bài như thế. Tôi cố sức bới óc ra nghĩ cho ra người viết là ai, tại sao mà viết, và viết để làm gì. Rõ ràng đây không phải là một người hoàn toàn không biết gì về giới ngôn ngữ học Việt . Nhưng hầu hết những điều người ấy viết ra lại hoàn toàn ngược với sự thật.

Sau đó mấy hôm, khi tôi được biết rằng người đó lại chính là một giảng viên ngôn ngữ học Khoa Ngôn ngữ trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội, tôi lại càng kinh ngạc hơn nữa. Chẳng lẽ ông này không biết “N.Q.H” là ai (trong khi mọi người đều biết chắc chắn cái tên viết tắt này là chỉ ai)? Đó là một bậc thầy trong số các đồng nghiệp của ông kia mà!
May sao chỉ vài tuần sau đã có một bài của Đào Thái Tôn, một bạn đồng nghiệp khác của H.Đ. và của người bị ông chê bai, được đăng trên chính tờ Văn nghệ. Bài này cứu được một phần danh dự cho tờ báo và xoá bớt được sự hiểu lầm tệ hại mà bài báo của H.Đ. có thể gây nên trong các độc giả không biết "N.Q.H" là ai. Do đó nó miễn cho tôi phải viết nhiều về vị giáo sư ưu tú này, một trong những người đáng kính trọng và đáng cho tất cả chúng tôi, những người làm ngôn ngữ học, lấy làm tự hào.
Nguyễn Quang Hồng là một chuyên gia có uy tín của ngành Âm vị học, một bộ môn được coi là tiên tiến nhất trong khoa Ngôn ngữ học, là người có đóng góp xuất sắc trong lĩnh vực loại hình học ngữ âm. Đồng thời ông là một nhà nghiên cứu có công lao vượt trội trong lĩnh vực ngữ văn Hán Nôm, đặc biệt là nghiên cứu về chữ Hán, chữ Nôm và các loại hình văn bản Hán Nôm. Những điều đó ai ai cũng biết từ mấy mươi năm nay, và tuyệt nhiên chưa bao giờ có ai nảy ra cái ý đặt thành vấn đề để thảo luận hay ngờ vực. Thế mà nay bỗng có người đang công tác ngay trong ngành, lại là một giảng viên đang dìu dắt sinh viên học tập và nghiên cứu, không tiếc lời chê bai ông, phủ nhận phần đóng góp lớn lao của ông mà bản thân mình cũng được thừa hưởng.
Chính đó mới là vấn đề khiến mọi người nghi ngờ và thấy cần tìm hiểu nguyên do. Bản thân tôi cũng có làm việc ấy, bằng cách đi hỏi tất cả những người biết rõ ông H.Đ. và những sự việc diễn ra gần đây có liên quan đến bài báo của ông (cả thảy có bảy giảng viên ngôn ngữ học, trong đó có năm người đang đi công tác từ Hà Nội vào TP. Hồ Chí Minh). Và tôi biết được sự tình là như sau.
Vừa rồi ông Hữu Đạt có đăng ký xin Hội đồng chức danh Giáo sư ngành ngôn ngữ học (do Giáo sư Tiến sĩ Khoa học Nguyễn Quang Hồng chủ toạ) công nhận chức danh Phó Giáo sư cho ông, nhưng Hội đồng sau khi thẩm định và cân nhắc, đã không dành cho đủ phiếu tín nhiệm. Thế là ông H.Đ. lập tức viết mấy bài liền (trong đó có bài đăng báo Văn nghệ nói trên) để bày tỏ "nỗi đau".
Ví thử H.Đ. nêu lên những sai lầm hay thiếu sót này nọ trong các công trình của N.Q.H thì có thể kiểm chứng đế thấy những lời phê phán của tác giả đúng sai ra sao. Đằng Này H.Đ không hề đưa ra một luận cứ nào về bất cứ một công trình nào, chỉ nói vu vơ là N.Q.H."không có nổi lấy một cuốn sách ở bất kỳ lĩnh vực cơ bản nào của ngành"!
Tôi không tin rằng H.Đ. không biết N.Q.H. là một trong những tác giả đã viết nhiều (không ít hơn 5 cuốn sách chuyên luận và biên soạn, khoảng 50 bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí chuyên ngành trong nước và nước ngoài), có những đóng góp quý giá trong việc tìm hiểu lý thuyết ngôn ngữ học trong sự liên hệ với những đặc trưng của tiếng Việt, cũng như đã góp phần nâng cao uy tín của ngôn ngữ học Việt Nam trên trường quốc tế qua những bài báo cáo và thuyết trình của ông ở rất nhiều cuộc hội thảo và toạ đàm mà ông đã được giới ngôn ngữ học nước ngoài (như Pháp, Nhật. Trung Quốc, Hong Kong, Singapore) mời góp bài và tham dự.
Chắc chắn là H.Đ. biết, và còn biết rõ hơn phần đông các bạn đồng nghiệp của ông nhiều. Nhưng có một cái gì đó rất mãnh liệt đã khiến ông nói ngược lại những điều ông biết, và nói một cách hùng hổ phi thường. Đó là cái gì vậy? Cái gì đã làm cho một người được liệt vào hàng "trí thức", "nhà văn" - một người có sứ mệnh truyền giảng tri thức và chân lý, là "kỹ sư tâm hồn" - lại có thể dùng hết sức mạnh của ngòi bút để buộc người đọc tin vào những điều mà chính mình cũng biết là trái với sự thật? Chẳng lẽ lòng thù hận của con người này có thể bùng lên dữ dội đến thế chỉ vì một chức danh chưa được Hội đồng xét duyệt thông qua!
Những điều bịa đặt xằng bậy của H.Đ. có thể làm cho người đọc mất cảnh giác mà tin theo, khi ông cho rằng có những người như Cao Xuân Hạo phải chăng cũng đã "hằn học vì không được phong học hàm giáo sư" mà viết những lời chua xót về tình hình nghiên cứu và giảng dạy tiếng Việt hiện nay.
Quả thật, trong giới nghiên cứu và giảng dạy ngôn ngữ mà có những người viết "nhàn đàm" theo kiểu H.Đ. thì thật đáng buồn. Mà cũng thật là khôi hài, khi H.Đ. không hiểu gì tôi, mà lại đem tôi ra,"đề cao" lên, cốt để làm phương tiện "hạ bệ" N.Q.H., một con người nghiêm túc và có thực tài mà bản thân tôi quý mến.
Nhân đây, tôi cũng xin được nói rõ rằng, tôi thấy chức danh PGS mà tôi được mang từ mười mấy năm nay là hoàn toàn thoả đáng đối với điều kiện thực tế của tôi. Cho nên, gần đây khi cơ quan chủ quản yêu cầu tôi viết báo cáo về thành tích khoa học, về số nghiên cứu sinh của tôi đã bảo vệ luận án thành công v.v. để được xét phong chức danh khoa học cao hơn, tôi đã từ chối. Không phải vì tôi không biết coi trọng chức danh, mà chủ yếu vì tôi thấy rằng từ lâu nay công việc và quyền hạn của PGS và GS không có gì khác nhau. Vả lại, tôi quá bận, không kiếm đâu ra thì giờ để làm thủ tục đăng ký.
Nếu mấy dòng tôi viết đây có hân hạnh đến tay ông H.Đ., thì cũng xin ông lượng thứ cho khi tôi muốn khẳng định với ông rằng việc ông làm và những lời lẽ ông dùng để phủ nhận giá trị của N.Q.H đều rất có hại cho chính ông, nó bôi nhọ ông chứ không hề bôi nhọ được ai khác, và chỉ có những người ngoài ngành không mấy khi quan tâm đến học thuật may ra mới nhẹ dạ mà tin theo ông, tưởng là ông nói lên một sự thật "đau lòng" nào đó, hay tưởng là ông không biết mình đang nói dối.
TP.HCM, 25/3/2002
C.X.H

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • VÕ VĨNH KHUYẾNBa mươi năm, sau khi Bác qua đời (1969 - 1999) có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều chuyên luận và khá nhiều bài viết trên các báo, tạp chí trong và ngoài nước về thơ, văn của Bác. Quy mô và mức độ có khác nhau. Tuy vậy, vẫn có chỗ chưa được khảo sát một cách đầy đủ, chưa được đầu tư nghiên cứu một cách thỏa đáng. Trong phạm vi, khả năng cá nhân và nội hàm vấn đề, chúng tôi mạnh dạn trình bày một số suy nghĩ về thơ Bác viết cho thiếu nhi.

  • NGÔ TỰ LẬP(Tiếp theo TCSH số 127/9-99)

  • NGÔ TỰ LẬP1.Platon nói rằng không thể có sự bình đẳng của những kẻ vốn không bình đẳng về mặt năng lực tự nhiên. Đó là xã hội người, nhưng chúng ta cũng có thể nói tương tự như vậy về xã hội từ ngữ.

  • ĐÀO DUY HIỆP    “Hội làng mở giữa mùa thu     Giời cao gió cả giăng như ban ngày”                                            (Nguyễn Bính)

  • YURI BONDAREVTên tuổi của nhà văn Nga Yuri Bônđarép rất gần gũi với bạn đọc Việt Nam qua những tác phẩm nỗi tiếng của ông đã được dịch ở ta vào thập kỷ 80 như: "Các tiểu đoàn xin chi viện", "Tuyết bỏng", "Bến bờ", "Lựa chọn", "Trò chơi"... Là một trong những nhà văn Xô Viết hàng đầu miêu tả hùng hồn và chân thực chủ nghĩa anh hùng cách mạng của quân và dân Liên Xô trong cuộc chiến tranh vệ quốc thần thánh chống phát xít Đức 1941- 1945, Bônđarép đã được phong Anh hùng lao động xã hội chủ nghĩa, được tặng giải thưởng Lênin, các giải thưởng Quốc gia, giải thưởng Lép Tônxtôi và M.Sôlôkhốp, giải thưởng toàn Nga "Xtalingrát"...

  • TRẦN ĐÌNH SỬVăn học Trung Quốc trong cơ chế thị trường đã có những biến đổi khá lớn. Theo các tác giả của sách Văn học Trung Quốc thế kỷ XX xuất bản tại Quảng Châu năm 1988 có thể nắm được một đôi nét diện mạo, chứng tỏ văn học Trung Quốc không còn có thể tồn tại theo phương thức cũ. Cơ chế thị trường đã làm cho nhà văn và nhà phê bình phải suy tính lại về sách lược sinh tồn và phương hướng phát triển nghề nghiệp.

  • ĐOÀN TUẤNThạch Lam qua đời cách đây đã hơn nửa thế kỉ. Ông để lại cho chúng ta một khối lượng tác phẩm không lớn nhưng chúng đã trở thành một mẫu số vĩnh hằng trong văn học Việt Nam. Tiếc rằng chúng ta đã không thể lưu giữ một bức chân dung nào của Thạch Lam. Thậm chí mộ ông được chôn cất nơi nào, cũng không ai biết.

  • NHẬT CHUNG       (Đọc bài thơ XÓM LỤT của anh Phạm Xuân Phụng)Anh Phụng là bác sĩ ở Bệnh viện Trung ương Huế. Tôi tìm hết trong tuyển tập HAI THẬP KỶ THƠ HUẾ, chỉ duy nhất bài thơ này viết về cảnh lụt lội hàng năm vẫn xảy ra ở mảnh đất nghèo khó. Trong những ngày đau buồn, khi nước vừa rút, trắng bợt trước mắt tôi những bài thơ tình èo uột nỉ non ẻo lả, và đứng dậy trước mắt tôi một bài thơ XÓM LỤT.

  • PHONG  LÊBến không chồng - Giải thưởng Hội Nhà văn năm 1991 đưa nhanh Dương Hướng lên một vị trí cao trong thành tựu văn học Đổi mới. Không thuộc đội ngũ “tiền trạm” xuất hiện từ đầu những năm 80 như Ma Văn Kháng, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Mạnh Tuấn (sinh năm 1948) - người cùng thế hệ với anh (sinh 1949), đến tuổi 40 mới bắt đầu trình làng với tập truyện ngắn Gót son (1989), thế mà chỉ 2 năm sau, Dương Hướng bỗng trở thành một “tên tuổi” với Bến không chồng, góp mặt cùng Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh làm nên một bộ ba sáng giá trong văn học mở đầu thập niên 90, năm năm sau khởi động của công cuộc Đổi mới.

  • HÀ QUANG MINHLTS: Liệu có phải văn hóa chỉ đơn thuần là văn hóa hay nói cách khác là chỉ chứa đựng các yếu tố văn hóa không? Câu trả lời chắc chắn là không. Văn hóa mang cả trong nó tính chính trị và kinh tế. Trong khuôn khổ bài viết này, chỉ nhắc tới tính kinh tế trong văn hóa mà thôi nhưng hy vọng nó sẽ đóng góp nhiều cho công cuộc xây dựng một xã hội văn minh hơn, công bằng hơn.

  • ĐỖ LAI THÚYVề Kinh Bắc với những hội hè, chùa chiền, với đồng chiều cuống rạ, dây bìm bìm, bí lông tơ, giun đất, con gà trụi, châu chấu.. làm người đọc nhớ đến dòng thơ viết về nông thôn, nhất là thơ Nguyễn Bính. “ Trong các nhà thơ cùng thời viết về nông thôn như Bàng Bá Lân, Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ... có lẽ chỉ có Nguyễn Bính là nhận thức sâu sắc được sự thay đổi của thôn quê trước “ cuộc xâm lăng” của đô thị.

  • TRẦN VĂN TOÀN - NGUYỄN XUÂN DIÊN1. Ảnh hưởng của Thơ Đường đối với Thơ Mới là một vấn đề từ lâu đã được đề cập tới. Ngay từ năm 1942, Hoài Thanh- Hoài Chân trong Thi nhân Việt Nam mặc dù giành nhiều trang để miêu tả ảnh hưởng của thơ Pháp (đặc biệt là trường phái Tượng trưng) nhưng các ông đã trân trọng và có một chút hứng thú đặc biệt về ảnh hưởng của Thơ Đường đối với Thơ Mới (điều này được bộc lộ qua công phu miêu tả, khảo cứu và cụ thể hơn từ chính số lượng trang viết). Khi phân chia các dòng mạch Thơ Mới, Hoài Thanh- Hoài Chân nói tới dòng mạch chịu ảnh hưởng của thơ Pháp, dòng mạch mang tính cách Việt, đồng thời cũng nói tới dòng mạch chịu ảnh hưởng từ Đường thi.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN…Trong thời kỳ đổi mới xuất hiện nhiều tác phẩm cảm hứng phê phán rất mạnh. Có những quan điểm và giọng điệu phê phán rất khác nhau: xót xa và lo thương, căm uất và hằn học, tỉnh táo và điềm đạm... Cảm hứng phê phán mang tinh thần hài hước khoan hòa sẽ tạo một vị trí đặc biệt cho Nguyễn Việt Hà trong văn xuôi Việt Nam đương đại…

  • ALEXANDER GENISTrên thị trường Mỹ đã xuất hiện những cuốn sách điện tử đầu tiên. “Softbook” - một đĩa điện tử có màn hình bọc da. Sức chứa - 100 000 trang, trọng lượng - 15 kg, giá cả - 300 đôla cộng 10 đôla kết nối mỗi tháng. “Paketbook” giá 500 đôla, nhưng đi kèm với nó phải có máy tính cá nhân. “Dedicate Reader” - một sổ tay điện tử. Nó giống như một cuốn sách thực sự, có một màn hình kép chứa các bản vẽ, bản đồ, sơ đồ, bảng biểu. Giá là 1500 đôla. Như kinh nghiệm cho thấy, không ai thích đọc văn bản theo màn hình, vì thế tại viện nghiên cứu “Media-lab” người ta đang tìm cách chế tạo thứ “mực điện tử” - những cái bao hết sức nhỏ có thể tùy theo cường độ và hướng của dòng điện sắp xếp lại với nhau để tạo thành văn bản. Theo cách đó, gần như loại sách bằng giấy thông thường có thể được in lại - thay một nội dung này bằng một nội dung khác. Tờ “New York Times” viết: “Ngay giờ đây đã thấy rõ sách điện tử là điều tất yếu. Nếu như không phải là sự thay thế sách in, thì cũng là sự luân phiên nó”. (Theo báo chí)

  • TRẦN ANH PHƯƠNGCầm trên tay tập thơ "Người hái phù dung" của Hoàng Phủ Ngọc Tường tôi như đọc với chính mình giữa đêm khuya lặng lẽ bên ngọn đèn. Cảm nhận đầu tiên về thơ anh không phải thơ để đọc giữa chốn đông người hay ở trong hội trường lớn, thơ anh chỉ đến với người đọc khi chỉ còn lại một mình đối diện với chính mình, tìm lại mình trong những con chữ lan toả như từng đợt sóng, xâm chiếm choáng ngợp lòng người...

  • TRẦN THIỆN KHANH Inrasara nhập cuộc văn chương từ rất sớm. Ngòi bút của Inrasara chạm được vào những vấn đề cốt tử của nghệ thuật. Inrasara đã sống thực sự với đời sống văn chương đương thời.

  • HUYỀN SÂM - NGỌC ANH 1. Umberto Eco - nhà ký hiệu học nổi tiếng.Umberto Eco chiếm một vị trí rất đặc biệt trong nền lý luận đương đại của Châu Âu. Ông là một triết - mỹ gia hàn lâm, một nhà ký hiệu học uyên bác, một tiểu thuyết gia nổi tiếng và là giáo sư danh dự của trường Đại học Bologne ở Italia. Tư tưởng học thuật của ông đã tác động mạnh mẽ, tích cực đến đời sống trí tuệ của sinh viên và giới nghiên cứu trong suốt nửa thế kỷ qua. Ông có mặt trong danh sách của hai mươi nhà tư tưởng đương đại lớn nhất thế giới, và cũng là ứng cử viên thường trực của Viện Hàn lâm Thụy điển về việc bình chọn giải Nobel văn học.

  • ĐỖ NGUYỄN VIỆT TƯ         (Nhân đọc thơ Hoàng Vũ Thuật)Trong con người cũng như trong vũ trụ luôn luôn hiện diện một mâu thuẫn bất biến, nhờ cái khối mâu thuẫn này mà nó tồn tại, phát triển và trở nên thống nhất. Con người luôn đi tìm chính mình trong một cuộc phiêu lưu vô định, không bao giờ bằng lòng với những cái đã có, bản ngã lúc nào cũng thôi thúc sáng tạo để tìm ra cái mới. Nhà thơ luôn đồng hành với cuộc phiêu lưu của những con chữ để đi đến những miền đất lạ, những vùng cảm xúc.

  • NGUYỄN KHOA BỘI LANSau mấy tháng mưa tầm tã và lạnh thấu xương, qua đầu tháng chạp âm lịch, toàn khu Hạ Lào bắt đầu tạnh. Mặt trời lại hiện ra đem ánh sáng sưởi ấm những khu rừng bạt ngàn từ Trường Sơn lượn xuống. Ở các suối nước không còn chảy như thác đổ, ở Xê Công dòng nước cũng đã trở lại hiền hòa. Các con đường lớn, đường nhỏ bắt đầu khô ráo.

  • TRẦN ĐƯƠNGTôi được làm quen và có quan hệ cởi mở với nhà thơ Tố Hữu từ mùa thu năm 1973, sau khi ông dẫn đầu Đoàn đại biểu Đảng ta đi dự Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Đức (DKP) họp tại thành phố cảng Hăm-bugr). Từ  miền Tây, ông sang Béc-lin, Cộng hòa Dân chủ Đức, theo lời mời của Bộ chính trị Đảng xã hội chủ nghĩa thống nhất Đức (SED) với mục đích thăm, nghiên cứu và trao đổi về công tác tư tưởng giữa hai Đảng.