Nỗi đau thế kỉ và ý nghĩa nhân văn trong tác phẩm Victor Hugo

15:51 01/09/2008
THÁI THU LANThông thường, mỗi văn nhân nghệ sĩ đều có nỗi đau đời, nỗi đau nhân thế. Nỗi đau này băt nguồn từ tấm lòng nhân ái và ý thức trách nhiệm của người nghệ sĩ trước cuộc sống và số phận con người qua những biến động của xã hội.

Nhà văn Lermontov (l814 - l841) đã có một câu nói rất cảm động:
"Tôi ra đời ở đây, nhưng tâm hồn tôi không ở nơi đây" - Bi kịch của nhà văn Nga là ở mối mâu thuẫn giữa thực tại đời sống và những mong ước của người nghệ sĩ đối với thực tế. Sự dằng xé không nguôi ấy đã khiến tâm hồn ông không yên ổn, phải đi đến những nơi xa, khao khát kiếm tìm một chân trời mà ông hy vọng có thể phù hợp với khát vọng của mình.
Cùng mang một tâm trạng như thế, không nhà thơ lãng mạn của nước Pháp ở thế kỉ XIX đều lâm vào một tình cảnh tương tự. Trước một thực tại xã hội đầy biến động, khi những lí tưởng sáng chói về Tự do dân chủ của các thế hệ những nhà Bách khoa và Cách mạng trước đó bị phản bội; họ đều có tâm lí vỡ mộng một cách sâu cay. Thay cho những giá trị đã từng được cổ vũ trong thế kỉ trước, xã hội hôm nay lại dựng nên tượng đài cho đồng tiền, kích động những dục vọng thấp hèn làm con người trở nên vị kỷ và tàn nhẫn. Thế rồi giữa bãi sa mạc của tính vị kỉ (Stendhal) ấy, xuất hiện bọn người giàu sụ, bất chấp mọi thủ đoạn kiếm tiền, từ đó mà nắm quyền thống trị bằng cách thôn tính và đổi thay xã hội; tạo nên cái tình trạng mà nhà văn Flaubert đã tiên tri từ trước: "Thế là bóng đen của Chủ nghĩa tư bản đã bao phủ toàn bộ Thế kỉ XIX".
Trong bối cảnh của cuộc tranh giành về quyền lực sinh tử ấy, chưa bao giờ xã hội Pháp lại chứng kiến nhiều biến động về thể chế chính trị đến thế:
- hai nền Đế chế của:    - Napoléon I (l804 - l814).
                                                - Napoléon III (1852 - 1870)
- ba triều đại quân chủ của:. - Louis XVIII (1814 - 1824)
- Charles X (1824 - 1830)
- Louis Philippe (1830 - 1848)
- và ba lần thành lập chế độ Cộng hòa:
            - lần 1: năm 1792 (sau Cách mạng 1789)
            - lần 2: năm 1848 (trong Cách mạng tháng II)
            - lần 3: năm 1871 (sau Cách mạng Công xã Paris)
Với sự thông cảm sâu sắc trước nỗi khổ của người dân lương thiện là nạn nhân của các thảm họa chiến tranh, của tình trạng thất nghiệp, đói nghèo, bị ngược đãi v.v...; nỗi buồn vô cớ của nhà thơ lãng mạn đã trở thành nỗi buồn thế kỷ một căn bệnh thời đại được phản ánh trong tác phẩm và thể hiện tấn bi kịch của các nhà thơ, nhà văn và nghệ sĩ không hòa hợp được với một xã hội thực dụng và tàn nhẫn. Điều đó có thể thấy biểu hiện trong thơ văn của những tác giả nổi tiếng nhất trong trường phái lãng mạn Pháp thế kỉ XIX.
FranØois René de Chateaubriand chua chát thốt lên nỗi niềm tủi nhục của Con người thừa bị xã hội ruồng bỏ: "... Người ta lên án tôi là luôn bỏ qua cái đích mà tôi có thể đạt được: hỡi ôi! Tôi chỉ tìm một điều hay lẽ phải chưa từng biết mà bản năng thôi thúc tôi. Phải chăng là lỗi của tôi, nếu tôi thấy khắp nơi những giới hạn. ..?" (l) (René)
Alphonse de Lamartine khóc than nỗi đau của Con người cô đơn nơi trần thế qua các vần thơ:
". ..Bốn phương tám hướng vời trông

Nào đâu hạnh phúc giữa vòng trần ai!" (2)
(Cô đơn - L'isolement)
hoặc:
"... Hỡi đất trời, hỡi thiên nhiên êm ái.
Ta nợ người giọt nước măt bên mồ
Hương thu ngát, ánh ngày trong sáng thế,
Trong măt kẻ lìa đời, đẹp quá nắng ban mai?
(Mùa thu- L' automne)
Alfred de Vigny nêu hình tượng Con người khắc kỉ không được hiểu, không được yêu thương; hiên ngang chống chọi đến cùng với cảnh ngộ:
Giương đôi mắt sói nhìn quanh quẩn
Trên toàn thân dao vẫn căm sâu.
...Thản thiên nhắm mắt, chẳng kêu nửa lời.
... Ôi con người sao ta thấy nhục
Danh cao sang, bạc nhược trăm đường" (4)

(Cái chết của con sói - La mort du loup)
Và Alfred de Musset phác họa nên Con người tuẫn tiết mang sứ mệnh cao cả của người nghệ sĩ, trong những lời thơ:
"Đập vỡ tim, não nùng chết thảm
Chào từ ly giữa khoảng canh trường" (5)
(Đêm tháng năm - Nuit de Mai)
và những dòng tuyên ngôn:
"Hỡi nhân dân các thời đại tương lai... Hỡi những con người tự do!... Hãy nghĩ đến chúng tôi lúc ấy không còn nữa, hãy tự bảo mình rằng chúng tôi đã trả giá đăt cho hạnh phúc của các người, hãy thương xót chúng tôi hơn tất cả các thế hệ cha anh, bởi vì chúng tôi cũng có nhiều nỗi thống khổ như họ trước đây, nhưng lại đã mất những thứ còn an ủi được họ!..."
(Lời thú tội của đứa con thế kỉ - Les confessions d'un enfant du siècle)
Trong số những nhà văn, nhà thơ lãng mạn đương thời, Victor Hugo hiện lên như một ngôi sao sáng. Ông sinh ra khi thế kỉ này lên hai tuổi" và đi vào cõi vĩnh hằng 15 năm trước khi thế kỉ kết thúc. Với cuộc đời bao trùm gần toàn bộ thế kỉ, từ năm 1802 đến 1885; V. Hugo đã chứng kiến và trải qua mọi sự kiện xã hội và chính trị của thế kỉ XIX ở Pháp.
Tâm hồn đa cảm, lòng nhân hậu của ông đã bao phen thổn thức trước nỗi khổ của người dân vô tội. Nỗi đau thể kỉ của ông sớm được phù sa tươi tốt của cuộc sống bồi đắp và đã dần hình thành theo "cuộc hành trình từ ác đến thiện, từ bất công đến công bằng, từ giả đến thật, từ bóng tối đến ánh sáng" (6)
Khác các nhà lãng mạn cùng thời, nỗi đau thế kỉ của V. Hugo không chỉ là bi kịch trong đời sống riêng, mang nặng nỗi đau buồn lẻ loi, mà đã sớm rộng mở theo chiều sâu của nỗi đau nhân thế.
Hầu hết các tác phẩm của ông từ năm 1827 với vở kịch Cromwel có Lời tựa được xem là tuyên ngôn của Chủ nghĩa lãng mạn cho đến tập thơ Tia sáng và bóng tối (Les rayons et les ombres, 1840); đều thấm đượm chất trữ tình và lòng yêu thương con người, tình nhân ái của Hugo rất tự nhiên và sâu xa, thuộc về một bản chất nhân hậu hiếm có. Nhìn một em bé Hy Lạp thơ ngây, côi cút giữa cảnh hoang tàn, chết chóc; với tình thương sâu thẳm không biên giới, nhà thơ xót xa, thổn thức:
...Quân Thổ tràn qua: nơi nơi điêu tàn tang tóc.
...Ôi em bé đáng thương ơi, chân trần trên đá sắc,
Lệ đầm đìa đôi mắt biếc xanh!
Ôi làm sao đây để lau nước măt
Cho đôi măt em như bầu trời, như sóng nước trong xanh
Làm sao đây cho tia sáng vui tươi tràn ngập long lanh
Để mái tóc óng vàng ngẩng dậy!
...Làm sao đây cuốn gọn mái tóc vàng đẹp đẽ,
Vui chảy xuôi trên đôi vai trong trắng,
Đang khóc thầm quanh vầng trán của em!" (7)

(Em bé Hy Lạp - L'enfant grec)
Dẫu sau này khi đã gia nhập Viện Hàn lâm Pháp năm l841, rồi được phong tặng chức Nguyên lão nước Pháp (Pair de France) năm 1845; những danh nghĩa cao quí ấy chẳng làm giảm sút nỗi đau nhân thế của ông.
Cuộc Cách mạng tháng II năm 1848 chấm dứt ba triều đại quân chủ và việc thành lập Đệ nhị Cộng hòa đã nhóm thêm ngọn lửa nhiệt tình của V. Hugo đối với nền Dân chủ. Được bầu làm đại biểu Viện lập pháp - tại Nghị viện, Hugo lên tiếng đấu tranh đòi ân xá cho những người khởi nghĩa. Năm 1881, ông tham gia phong trào phản đối cuộc đảo chính đê hèn của Louis Bonaparte thiết lập nền Đế chế II. Bị truy nã, ông phải dùng căn cước của người thợ in Lanvin rời nước Pháp sang Bruxelles (Bỉ) rồi sau đó đến sống lưu vong ở các đảo Jersey và Guernesey (Anh). Trong thời kì này, Hugo có nhiều hoạt động xã hội tích cực. Tháng 8/1849 tại Đại hội Hòa bình thế giới họp ở Paris , V. Hugo được bầu làm chủ tọa. Ông nói: "Tư tưởng Hòa bình trên khắp thế giới là tài sản của các dân tộc. Mọi người đòi hỏi Hòa bình, vì Hòa bình là Hạnh phúc tối cao của họ". Năm 1859, V. Hugo gửi thư cho chính phủ Mỹ để bảo vệ lãnh tụ da đen John Brao. Và năm 1860, ông lên tiếng chống chiến tranh đế quốc chủ nghĩa, tố cáo Anh và Pháp xâm lược Trung Hoa v.v...
Chính trong giai đoạn này, nhiều áng văn kiệt tác của ông lần lượt ra đời: Tập thơ Trừng phạt (Les Châtiments, 1852) chĩa mũi nhọn công kích Napoléon "tiểu đế" (Napoléon le petit) tàn bạo bất tài, đối lập với Napoléon "đại đế" (Napoléon le grand); tập thơ Chiêm ngưỡng (Les contemplations, 1856) là những suy tư của tác giả về thân phận bất hạnh của con người bị cái ác thống trị: và đặc biệt là ba tập tiểu thuyết Những người khốn khổ (Les misérables, 1862), Những người lao động miền biển (Les travailleurs de la mer: 1866) và Người cười (L'homme qui rit, l869) đều tập trung nói về những số phận oan trái, hẩm hiu, thống khổ trong đời người.
Với niềm thương cảm sâu xa đối với nhân quần, V. Hugo sớm nhận ra nỗi đau nhân thế chính là bi kịch của con người khi bị tước đoạt nhân quyền. Thế là, từ một nghệ sĩ lãng mạn, do bản lĩnh và trí tuệ siêu việt của bản thân, V. Hugo đã đến với cách nhìn rất hiện thực, mới mẻ và hiện đại. Trong khi Stendhal lên án Quyền lực làm tha hóa con người và Balzac chỉ trích Đồng tiền phân chia xã hội thành hai loại người Giàu - Nghèo đối lập: thì V. Hugo đã sớm có được điều phát hiện quan trọng về mối mâu thuẫn gốc rễ trong xã hội đã và sẽ mãi mãi gây nên mọi đau khổ cho con người: đó là tệ nạn Bất bình đẳng (l'lnégalité).
Là một tác phẩm mang phong cách lãng mạn, Những người khốn khổ được V. Hugo viết nên với nỗi đau đời và cách nhìn con người với xã hội sâu sắc như thế.
Nhân vật chính - Jean Valjean là một cố nông chăm chỉ, phải lấy cắp chiếc bánh mì cho bảy đứa cháu mồ côi cha đói khát, do năm ấy mất mùa đói kém; đã bị kết tội cộng với tội vượt ngục cả thảy là 19 năm tù lao động khổ sai với xiềng xích, gông cùm, roi vọt...
Từ nhân vật, tác giả đặt ra những vấn đề của xã hội và lên án cái xã hội đã tác động đến số phận nhân vật một cách tàn nhẫn và bất công. Xen vào những trang văn miêu tả, tự sự, tường thuật sinh động; V. Hugo không ngần ngại có những đoạn văn bình luận gắt gao, sắc sảo:
"Xã hội có nhiệm vụ phải thấy rõ những điều mà chính xã hội đã gây ra... Một người lao động như anh mà phải thất nghiệp, một người siêng năng như anh mà phải đói khát thì có phải đó là một hiện tượng nghiêm trọng không?. .. Xử phạt nặng như thế có phải là để kẻ phạm tội chuộc tội không? Hay là lại đưa đến kết quả đảo ngược là biến cái sai lầm của kẻ phạm tội ra cái sai lầm của người đàn áp, biến thủ phạm thành nạn nhân, biến con nợ thành chủ nợ và cuối cùng đem công lí đặt về bên kẻ đã xâm phạm vào công lí?...".
Nhân vật Jean Valjean là hình tượng Con người nhân ái thánh thiện. Mặc dầu phải trải qua nhiều nỗi đau khổ thầm lặng, sống cô độc giữa cuộc đời; nhân vật này đại điện cho lí tưởng thẩm mỹ và đạo đức của tác giả, phản ánh niềm tin thiết tha của nhà văn nhân đạo: giữa xã hội bất công con người cần trở về với bản chất hướng thiện của mình mới vượt được lên thực tại để tự khẳng định mình.
Ở trường hợp Victor Hugo, hơn đâu hết chúng ta có thể thấy rõ cảm hứng sáng tạo ở ông là bắt nguồn từ tính cách và quan niệm nhân sinh của nhà văn, một quan niệm không chỉ thể hiện trong văn chương mà còn được vận dụng trong hành động và đời sống.
Năm 1869 Napoléon III ra lệnh ân xá cho V. Hugo, nhưng nhà văn từ chối. ông trả lời đanh thép:
"Giữ trọn lời thề với lương tâm, tôi chịu đến cùng số phận của Tự do. Tự do đã bị trục xuất khỏi đất Pháp, khi nào Tự do trở về Đất nước, tôi sẽ trở về cùng Tự do".
Quả như vậy, một năm sau "Napoléon tiểu đế" bị địch quân băt sống trong cuộc chiến Pháp - Phổ khiến Đế chế II phải sụp đổ. Ngày 4/9/1870, V. Hugo trở về trong lòng Tổ quốc tự do. Năm 1871, Hugo được bầu là nghị sĩ thành phố Paris và năm 1876, ông là Thượng nghĩ sĩ Quốc hội. Nhà văn có mối cảm tình nồng hậu với các chiến sĩ Công xã. Con trai ông, Charles Hugo là một chiến sĩ hy sinh trong cuộc Cách mạng Công xã Pari. V. Hugo luôn luôn đấu tranh đòi trả tự do cho những người tham gia Công xã. Ngày 3/6/1880 ông có bài diễn văn nổi tiếng về ý nghĩa Dân chủ ở Thượng nghị viện.
Riêng trong sự nghiệp sáng tác, V. Hugo còn chứng tỏ quan điểm một cách rành mạch ở trách nhiệm đối với xã hội:
Tôi đã cúi xuống đáy xã hội quan sát và đó là tất cả việc làm của tôi. Tôi muốn tiêu diệt định mệnh tàn ác đè nặng lên nhân loại. Tôi bẻ gãy ách nô lệ. Tôi săn đuổi sự nghèo đói, tôi đẩy lùi sự dốt nát, tôi làm nhẹ bớt bệnh tật. Tôi chiếu sáng cõi tối tăm. Tôi không thìn thấy sự thù hằn.
Đấy là thâm ý của tôi và vì vậy tôi đã viết Những người khốn khổ (8)
Vào thời điểm lúc bấy giờ ở thế kỉ XIX, với cao trào của Chủ nghĩa lãng mạn, khó mà có nhà văn nào khác ở nước Pháp có được một tuyên ngôn dứt khoát như lời phát biểu ấy của V.Hugo.
Mô hình về quan niệm con người và thế giới trên đây chi phối toàn bộ thi pháp tác giả. Luận điểm về một xã hội không giai cấp và một thế giới được điều hòa theo Chủ nghĩa xã hội của Saint Simon và Charles Fourrièr có ảnh hưởng đến mỹ học lạc quan thiên về đạo đức của Hugo. Như ông đã viết:
"Cần trộn lẫn cái Thô kệch với cái Cao cả trong nghệ thuật chính kịch cũng như trong tự nhiên vậy" (9)
Quan niệm này được chứng minh trong hầu hết văn phẩm của ông.
Trong tiểu thuyết Nhà thờ Đức Bà Paris (Notre Dame de Paris, l831), nhân vật chính là Quasimodo được mô tả và nhiều nét dị dạng: gù, thọt, chột, mũi to: miệng khoằm, lại vừa điếc vừa câm. .. Thế nhưng, trái hẳn cái ngoại hình xấu xí nhất thế gian ấy; anh kéo chuông khốn khổ lại có một tâm hồn tế nhị, một tình yêu sâu sắc chung thủy và cao đẹp trong thiên tình sử bi thảm: Bộ xương dị dạng của anh quấn chặt bộ xương cô vũ nữ kiều diễm Esmeralda chôn trong khu mộ chung của nhà thờ sau khi cô bị hành hình một cách tàn bạo.
Và Fantine trong Những người khốn khổ cũng vậy. "Nàng rất đẹp. Nàng cố giữ cho mình trong trắng mãi. Nàng có vàng ngọc làm của riêng như ai, nhưng vàng của nàng xếp trên mái tóc, ngọc của nàng giắt ở sau môi."... Thế mà, sóng gió đường đời đưa đẩy, khiến Fantine phải lâm vào cảnh bán tóc vàng, răng ngọc của mình rồi phải đi làm điếm trong tình trạng móm mém, đầu trọc và ho lao để lấy tiền chữa bệnh cho con. Cách hành xử của nàng quả là của một siêu mẫu về tình mẫu tử cao cả.
Hoặc như Gwynplaine ở tác phẩm Người cười, bị bọn quí tộc vụ lợi tranh chấp rạch môi anh, làm anh phải luôn luôn chua chát nói: 'Tôi cười chính là tôi khóc đấy. .."
Sử dụng nghệ thuật tương phản là một đặc trưng trong thủ pháp tiểu thuyết Hugo, nhằm làm nổi bật cái cao cả (le sublime), cái nhân phẩm tuyệt vời bị che lấp, ẩn náu trong bản thân những con người bị xã hội bất công tước đoạt quyền sống làm cho họ tha hóa, trở nên xấu xí thô kệch... Đây là đặc điểm thi pháp của nhà văn, một thủ pháp sáng tạo độc đáo gây ấn tượng sâu sắc về tính nhân đạo, có đóng góp đáng kể vào bước phát triển của nghệ thuật tiểu thuyết Pháp ở thế kỉ XIX và tạo nên tính thời đại trong những tác phẩm của V. Hugo.
Trong số những tác phẩm được xuất bản ở giai đoạn cuối đời của Hugo, từ năm 1870 đến 1885, như Năm hãi hùng (L'anneé terrible 1872); Nghệ thuật làm ông (L'art d'être grand père, l877); Đức Giáo hoàng (Le pape 1878), Nỗi khổ tối cao (La pitié suprême 1879), Bốn ngọn gió tinh thần (Les quatre vents de l'esprit l874) và tiểu thuyết Năm 93 (Quatre-vingt-treize l874) v.v... nổi bật là tập thơ Truyền kì các thể kỉ (La légende des siècles) được tác giả viết từ năm 1859 đến 1883).
Tác phẩm này dường như đúc kết lại những suy ngẫm của V. Hugo khi cuộc đời đã xế bóng. Hugo không chỉ dừng lại ở mức nhìn nhận, đề cao giá trị nhân phẩm của con người và lên án xã hội bất công nhằm khôi phục nhân quyền cho người dân và công lí bình đằng cho xã hội; mà với anh hùng ca Truyền kì các thế kỉ, chú nghĩa nhân văn của V. Hugo còn được phản ánh với cái tầm bay bổng diệu kì của tác giả trong niềm tin đối với sự chiến thắng của điều Thiện đối với cái Ac" (La victoire du Bien sur le Mal) trên toàn cầu.
Bằng những vần thơ sôi động, tác giả phác họa bức tranh hoành tráng của nhân loại trải qua các thời đại với cuộc hành trình của con người mang tinh thần của đám đông, đi từ thời hồng hoang của bà Eve - mẹ loài người, đến Cách mạng - bà mẹ của dân chúng. Đó là bước phát triển của con người từ tăm tối đến lí tưởng" (des ténèbres à l'idéal). Theo Hugo, cái ác đang tồn tại cần được xóa bỏ với niềm tin chân thành ở Đấng Tối cao, và hành động ấy sẽ đưa nhân loại đến sự hòa đồng tốt đẹp. Truyền kỳ các thế kỉ là tập anh hùng ca đồ sộ nhất của văn học Pháp với kích thước lớn lao về thời gian, không gian và những sự kiện lớn lao trong cuộc sống muôn mặt. Phần cuối tập thơ là sự trở về thời hiện đại với những bài thơ nổi tiếng như Sau trận đánh (Après la bataille), Nghĩa trang Eylau (Le cimetière d'Eylau), Những người cùng khổ (Les pauvres gens) v.v...
Các bài thơ có chung một chủ đề được nối kết với nhau bằng "sợi dây huyền diệu của mê lộ nhân thế là sự Tiến bộ" (lời tựa). Để minh họa cho ý tưởng này, trong bài thơ cuối Giữa bầu trời (Plein ciel), tác giả giới thiệu hình ảnh tuyệt đẹp của chiếc tàu thủy được chắp cánh bằng hiệu quả hiệp đồng của tri thức loài người, đang bay lên đến tận các vì sao...
Mỹ học lãng mạn kết hợp với cảm quan hiện thực tạo nên sức lôi cuốn và thuyết phục của lí tưởng thẩm mỹ V. Hugo đối với cuộc đời. Đó là Cái đẹp của Tình thương yêu hòa đồng, của Hạnh phúc bình đẳng và của sự Tiến bộ vô tận của Con người. Và đó chính là giá trị bất hủ của ý nghĩa nhân văn trong tác phẩm Victor Hugo.
Ông đã không ngần ngại xác định chức năng của nghệ sĩ như là một nhà tiên tri" (prophète), một "pháp sư" (mage), mà tác phẩm là một "âm vang" (écho sonore) của thời đại, hòa hợp cá nhân người sáng tạo với dân tộc, nhân loại và lịch sử trong nhiệm vụ cải tạo cuộc sống để do đó khẳng định vai trò và sứ mệnh cao quí của người nghệ sĩ.

Victor Hugo là một khuôn mặt vĩ đại của thế kỉ XIX, từng được xem như là một "cây cổ thụ mênh mông" (Théophile Gautier) một "Con người có năng khiếu phi thường" (Sainte Beuve), "tiêu biểu cho sức mạnh to lớn của vũ trụ và sự đấu tranh nhịp nhàng của những sức mạnh ấy" (Baudelaire).
Kỷ niệm 200 năm sinh của đại văn hào Victor Hugo trong những ngày đầu năm thứ hai của thiên niên kỷ này; khi nhân loại đang mang nỗi đau của các cuộc chiến tranh sắc tộc tôn giáo, của tệ nạn khủng bố cùng với nỗi lầm than và những thảm họa do tình trạng bất bình đẳng tạo nên còn ngự trị trên cuộc sống con người.
Chúng ta có thể hướng về những tác phẩm của Victor Hugo, coi đó như một nguồn sáng của lòng nhân ái và ý chí đấu tranh cho Hạnh phúc, cho Hòa bình Tự do và Dân chủ của nhân loại.
Đó là những tác phẩm mãi mãi giữ được giá trị nguyên vẹn trong lòng độc giả Việt và thế giới.
TP. HCM, ngày 21 tháng 01 năm 2002
T.T.L

(nguồn: TCSH số 162 - 08 - 2002)

 

-------------------------
(1), (3) Thái Thu Lan dịch
(2), (4), (5) Trần Mai Châu dịch
(6) V. Hugo - Lời nói đầu tác phẩm Những người khốn khố (Les Misérables)
(7) Thái Thu Lan dịch - Về phương đông (Les orientales, 1829)
(8) Victor Hugo - Lời tựa tiểu thuyết Những người khốn khổ
(9) V. Hugo - Lời tựa kịch Cromwell

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN VĂN HẠNHI. Có những quan niệm khác nhau về bản chất, chức năng của văn chương, và có những cách thức khác nhau trong sáng tạo và khám phá văn chương, tuỳ theo hoàn cảnh, mục đích, trình độ, khuynh hướng nhận thức và hoạt động của con người trong lĩnh vực này.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ(Nhân kỷ niệm 50 năm thành lập Hội Nhà văn Việt Nam 1957-2007)

  • TÔN ÁI NHÂNThật ra, những điều mà nhà văn, Đại tá Tôn Ái Nhân nêu ra dưới đây không hoàn toàn mới so với “búa rìu dư luận” từng giáng xuống đầu các nhà văn đương đại. Và, bản thân chúng tôi cũng không hoàn toàn đồng tình với tất thảy những sự kiện (kể cả những vấn đề nhạy cảm) mà ông đã “diễn đạt” trong 14 trang bản thảo gửi tới Tòa soạn. Chính vì vậy, chúng tôi đã xin phép được cắt đi gần nửa dung lượng, để “THẤT TRẢM SỚ” NHÀ VĂN đến với bạn đọc một cách nhẹ nhàng hơn. Nhân đây cũng muốn gửi tới tác giả lời xin lỗi chân thành, nếu như lưỡi kéo của Sông Hương hơi “ngọt”.

  • NUNO JÚDICENhà thơ, nhà phê bình văn học Nuno Júdice (sinh 1949) là người gốc xứ Bồ Đào Nha. Ông có mối quan tâm đặc biệt đối với văn học hiên đại của Bồ Đào Nha và văn học thời Trung cổ của Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Là tác giả của khoảng 15 tuyển tập thơ và đã từng được trao tặng nhiều giải thưởng trong nước, ông cũng đồng thời là dịch giả và giảng viên đại học. Từ năm 1996, ông sáng lập và điều hành tạp chí thơ “Tabacaria” ở Lisbonne.

  • NGUYỄN VĂN DÂNNgười ta cho rằng tiểu thuyết có mầm mống từ thời cổ đại, với cuốn tiểu thuyết Satyricon của nhà văn La Mã Petronius Arbiter (thế kỷ I sau CN), và cuốn tiểu thuyết Biến dạng hay Con lừa vàng cũng của một nhà văn La Mã tên là Apuleius (thế kỷ II sau CN).

  • HẢI TRUNGSông chảy vào lòng nên Huế rất sâuBản hùng ca của dãy Trường Sơn đã phổ những nốt dịu dàng vào lòng Huế, Hương Giang trở thành một báu vật muôn đời mà tạo hóa đã kịp ban phát cho con người vùng đất này. Chính dòng Hương đã cưu mang vóc dáng và hình hài xứ Huế. Con sông này là lý do để tồn tại một đô thị từ Thuận Hóa đến Phú Xuân và sau này là Kinh đô Huế, hình thành phát triển đã qua 700 năm lịch sử.

  • HÀ VĂN THỊNH Nhân dịp “Kỷ niệm 50 năm Đại học Huế (ĐHH) Xây dựng và Phát triển”, ĐHH xuất bản Tạp chí Khoa học, số đặc biệt – 36, 4.2007.

  • NGÔ ĐỨC TIẾNNăm 1959, nhân dịp vào thăm Bảo tàng Cách mạng Việt Nam, đến gian trưng bày hiện vật và hình ảnh đồng chí Phan Đăng Lưu, đồng chí Lê Duẩn phát biểu: “Đồng chí Phan Đăng Lưu là một trí thức cách mạng tiêu biểu”.

  • NGUYỄN KHẮC MAITháng 3 –1907, một số sĩ phu có tư tưởng tiến bộ của Việt Nam đã khởi xướng thành lập Đông Kinh Nghĩa Thục tại Hà Nội với mục đích “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh” hô hào xây dựng đời sống mới mà giải pháp then chốt là mở trường học, nâng dân trí, học hỏi những bài học hoàn toàn mới mẻ về dân chủ, dân quyền, dân sinh, dân trí, cả về sản xuất kinh doanh, xây dựng lối sống văn minh của cá nhân và cộng đồng.

  • HỒ THẾ HÀ Thật lâu, mới được đọc tập nghiên cứu - phê bình văn học hay và thú vị. Hay và thú vị vì nó làm thỏa mãn nhận thức của người đọc về những vấn đề văn chương, học thuật. Đó là tập Văn chương - Những cuộc truy tìm(1) của Đỗ Ngọc Yên.

  • ĐOÀN TRỌNG HUY

    Huy Cận có một quãng đời quan trọng ở Huế. Đó là mười năm từ 1929 đến 1939. Thời gian này, cậu thiếu niên 10 tuổi hoàn thành cấp tiểu học, học lên ban thành chung, sau đó hết bậc tú tài vào 19 tuổi. Rồi chàng thanh niên ấy tiếp tục về học bậc đại học ở Hà Nội.

  • NGUYỄN KHẮC THẠCHTrước hết phải thừa nhận rằng, từ ngày có quỹ hỗ trợ sáng tạo tác phẩm, công trình Văn học Nghệ thuật cho các Hội địa phương thì các hoạt động nghề nghiệp ở đây có phần có sinh khí hơn. Nhiều tác phẩm, công trình cá nhân cũng như tập thể được công bố một phần nhờ sự kích hoạt từ quỹ này.

  • THẠCH QUỲTrước hết, tôi xin liệt kê đơn thuần về tuổi tác các nhà văn.

  • TÙNG ĐIỂNLTS:  “Phấn đấu để có nhiều tác phẩm tốt hơn nữa” là chủ đề cuộc tập huấn và hội thảo của các Hội Văn học Nghệ thuật khu vực miền Trung và Tây Nguyên tại thành phố Nha Trang đầu tháng 7 vừa qua. Tuy nhiên, ngoài nội dung đó, các đại biểu còn thảo luận, đánh giá hiệu quả sử dụng quỹ hỗ trợ sáng tạo tác phẩm, công trình văn học nghệ thuật trong mấy năm gần đây.Nhiều ý kiến thẳng thắn, tâm huyết, nhiều tham luận sâu sắc chân thành đã được trình bày tại Hội nghị.Sông Hương xin trích đăng một phần nội dung trên trong giới hạn của chuyên mục này.

  • PHẠM PHÚ PHONGMột đặc điểm tương đối phổ biến của các tác giả sáng tác ở miền Nam trước đây là hầu hết các nhà văn đều là những nhà văn hoá, tác phẩm của họ không chỉ thể hiện sự am hiểu đến tường tận các lĩnh vực văn hoá, mà trong một đời văn lực lưỡng của mình, họ không chỉ sáng tác văn chương mà còn sưu tầm, dịch thuật, khảo cứu nhiều lĩnh vực văn hoá như lịch sử, địa lý, địa chí, ngôn ngữ, dân tộc học, văn học và văn hoá dân gian, như các tác giả từng toả bóng một thời là Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Nguyễn Chánh Sắt, Đông Hồ, Vương Hồng Sển, Nguyễn Văn Xuân, Sơn Nam... trong đó có Bình Nguyên Lộc.

  • PHAN KHÔILời dẫn Bài mà tôi giới thiệu dưới đây thuộc một giai đoạn làm báo của Phan Khôi còn ít người biết, − giai đoạn ông làm báo trên đất Thần Kinh, tức thành phố Huế ngày nay, những năm 1935-1937; khi ấy Huế đang là kinh đô của triều Nguyễn, của nước Đại Nam, nhưng chỉ là một trung tâm vào loại nhỏ xét về báo chí truyền thông trong toàn cõi Đông Dương thời ấy.

  • PHONG LÊÔng là người cùng thế hệ, hoặc là cùng hoạt động với Nam Cao, Nguyên Hồng, Tô Hoài, Nguyễn Huy Tưởng, Như Phong... Cùng với họ, ông có truyện trên Tiểu thuyết thứ Bảy và Trung Bắc chủ nhật trong những năm 1941-1945. Cùng hoạt động trong Hội Văn hóa cứu quốc đầu Cách mạng tháng Tám, và tham gia xây dựng văn nghệ kháng chiến, làm tờ Tạp chí Văn nghệ số 1 - tiền thân của tất cả các cơ quan ngôn luận của Hội Văn nghệ và Hội Nhà văn Việt Nam.

  • TRẦN VĂN SÁNGCó thể nói, học tập phong cách ngôn ngữ Chủ tịch Hồ Chí Minh, trước hết, là học tập cách viết và cách lập luận chặt chẽ qua từng câu chữ, mỗi trang văn chính luận. Những văn bản: “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”, “Tuyên truyền”, “Bản án chế độ thực dân Pháp”, “Tuyên ngôn Độc lập” luôn là những áng văn mẫu mực về phong cách ngôn ngữ ngắn gọn, chắc chắn, dễ hiểu, chính xác và giàu cảm xúc.

  • TRẦN THỊ MAI NHÂNNgười ta kể rằng, ở Ấn Độ, trong cái nhộn nhịp của cuộc sống, con người thường nghe văng vẳng tiếng gọi: “Hãy chở ta sang bờ bên kia”. Đó là tiếng gọi của con người khi “cảm thấy rằng mình còn chưa đến đích” (Tagore).

  • HOÀNG THỊ BÍCH HỒNGKhái niệm “Lạ hoá” (estrangemet) xuất hiện trong những năm 20 của thế kỷ XX gắn với trường phái hình thức Nga. Theo Shklovski thì nhận thức của con người luôn có xu hướng tự động hoá để giảm bớt năng lượng tư duy, “người ta thường dùng những từ quen thuộc đến sờn mòn”(1).