Nỗi đau thế kỉ và ý nghĩa nhân văn trong tác phẩm Victor Hugo

15:51 01/09/2008
THÁI THU LANThông thường, mỗi văn nhân nghệ sĩ đều có nỗi đau đời, nỗi đau nhân thế. Nỗi đau này băt nguồn từ tấm lòng nhân ái và ý thức trách nhiệm của người nghệ sĩ trước cuộc sống và số phận con người qua những biến động của xã hội.

Nhà văn Lermontov (l814 - l841) đã có một câu nói rất cảm động:
"Tôi ra đời ở đây, nhưng tâm hồn tôi không ở nơi đây" - Bi kịch của nhà văn Nga là ở mối mâu thuẫn giữa thực tại đời sống và những mong ước của người nghệ sĩ đối với thực tế. Sự dằng xé không nguôi ấy đã khiến tâm hồn ông không yên ổn, phải đi đến những nơi xa, khao khát kiếm tìm một chân trời mà ông hy vọng có thể phù hợp với khát vọng của mình.
Cùng mang một tâm trạng như thế, không nhà thơ lãng mạn của nước Pháp ở thế kỉ XIX đều lâm vào một tình cảnh tương tự. Trước một thực tại xã hội đầy biến động, khi những lí tưởng sáng chói về Tự do dân chủ của các thế hệ những nhà Bách khoa và Cách mạng trước đó bị phản bội; họ đều có tâm lí vỡ mộng một cách sâu cay. Thay cho những giá trị đã từng được cổ vũ trong thế kỉ trước, xã hội hôm nay lại dựng nên tượng đài cho đồng tiền, kích động những dục vọng thấp hèn làm con người trở nên vị kỷ và tàn nhẫn. Thế rồi giữa bãi sa mạc của tính vị kỉ (Stendhal) ấy, xuất hiện bọn người giàu sụ, bất chấp mọi thủ đoạn kiếm tiền, từ đó mà nắm quyền thống trị bằng cách thôn tính và đổi thay xã hội; tạo nên cái tình trạng mà nhà văn Flaubert đã tiên tri từ trước: "Thế là bóng đen của Chủ nghĩa tư bản đã bao phủ toàn bộ Thế kỉ XIX".
Trong bối cảnh của cuộc tranh giành về quyền lực sinh tử ấy, chưa bao giờ xã hội Pháp lại chứng kiến nhiều biến động về thể chế chính trị đến thế:
- hai nền Đế chế của:    - Napoléon I (l804 - l814).
                                                - Napoléon III (1852 - 1870)
- ba triều đại quân chủ của:. - Louis XVIII (1814 - 1824)
- Charles X (1824 - 1830)
- Louis Philippe (1830 - 1848)
- và ba lần thành lập chế độ Cộng hòa:
            - lần 1: năm 1792 (sau Cách mạng 1789)
            - lần 2: năm 1848 (trong Cách mạng tháng II)
            - lần 3: năm 1871 (sau Cách mạng Công xã Paris)
Với sự thông cảm sâu sắc trước nỗi khổ của người dân lương thiện là nạn nhân của các thảm họa chiến tranh, của tình trạng thất nghiệp, đói nghèo, bị ngược đãi v.v...; nỗi buồn vô cớ của nhà thơ lãng mạn đã trở thành nỗi buồn thế kỷ một căn bệnh thời đại được phản ánh trong tác phẩm và thể hiện tấn bi kịch của các nhà thơ, nhà văn và nghệ sĩ không hòa hợp được với một xã hội thực dụng và tàn nhẫn. Điều đó có thể thấy biểu hiện trong thơ văn của những tác giả nổi tiếng nhất trong trường phái lãng mạn Pháp thế kỉ XIX.
FranØois René de Chateaubriand chua chát thốt lên nỗi niềm tủi nhục của Con người thừa bị xã hội ruồng bỏ: "... Người ta lên án tôi là luôn bỏ qua cái đích mà tôi có thể đạt được: hỡi ôi! Tôi chỉ tìm một điều hay lẽ phải chưa từng biết mà bản năng thôi thúc tôi. Phải chăng là lỗi của tôi, nếu tôi thấy khắp nơi những giới hạn. ..?" (l) (René)
Alphonse de Lamartine khóc than nỗi đau của Con người cô đơn nơi trần thế qua các vần thơ:
". ..Bốn phương tám hướng vời trông

Nào đâu hạnh phúc giữa vòng trần ai!" (2)
(Cô đơn - L'isolement)
hoặc:
"... Hỡi đất trời, hỡi thiên nhiên êm ái.
Ta nợ người giọt nước măt bên mồ
Hương thu ngát, ánh ngày trong sáng thế,
Trong măt kẻ lìa đời, đẹp quá nắng ban mai?
(Mùa thu- L' automne)
Alfred de Vigny nêu hình tượng Con người khắc kỉ không được hiểu, không được yêu thương; hiên ngang chống chọi đến cùng với cảnh ngộ:
Giương đôi mắt sói nhìn quanh quẩn
Trên toàn thân dao vẫn căm sâu.
...Thản thiên nhắm mắt, chẳng kêu nửa lời.
... Ôi con người sao ta thấy nhục
Danh cao sang, bạc nhược trăm đường" (4)

(Cái chết của con sói - La mort du loup)
Và Alfred de Musset phác họa nên Con người tuẫn tiết mang sứ mệnh cao cả của người nghệ sĩ, trong những lời thơ:
"Đập vỡ tim, não nùng chết thảm
Chào từ ly giữa khoảng canh trường" (5)
(Đêm tháng năm - Nuit de Mai)
và những dòng tuyên ngôn:
"Hỡi nhân dân các thời đại tương lai... Hỡi những con người tự do!... Hãy nghĩ đến chúng tôi lúc ấy không còn nữa, hãy tự bảo mình rằng chúng tôi đã trả giá đăt cho hạnh phúc của các người, hãy thương xót chúng tôi hơn tất cả các thế hệ cha anh, bởi vì chúng tôi cũng có nhiều nỗi thống khổ như họ trước đây, nhưng lại đã mất những thứ còn an ủi được họ!..."
(Lời thú tội của đứa con thế kỉ - Les confessions d'un enfant du siècle)
Trong số những nhà văn, nhà thơ lãng mạn đương thời, Victor Hugo hiện lên như một ngôi sao sáng. Ông sinh ra khi thế kỉ này lên hai tuổi" và đi vào cõi vĩnh hằng 15 năm trước khi thế kỉ kết thúc. Với cuộc đời bao trùm gần toàn bộ thế kỉ, từ năm 1802 đến 1885; V. Hugo đã chứng kiến và trải qua mọi sự kiện xã hội và chính trị của thế kỉ XIX ở Pháp.
Tâm hồn đa cảm, lòng nhân hậu của ông đã bao phen thổn thức trước nỗi khổ của người dân vô tội. Nỗi đau thể kỉ của ông sớm được phù sa tươi tốt của cuộc sống bồi đắp và đã dần hình thành theo "cuộc hành trình từ ác đến thiện, từ bất công đến công bằng, từ giả đến thật, từ bóng tối đến ánh sáng" (6)
Khác các nhà lãng mạn cùng thời, nỗi đau thế kỉ của V. Hugo không chỉ là bi kịch trong đời sống riêng, mang nặng nỗi đau buồn lẻ loi, mà đã sớm rộng mở theo chiều sâu của nỗi đau nhân thế.
Hầu hết các tác phẩm của ông từ năm 1827 với vở kịch Cromwel có Lời tựa được xem là tuyên ngôn của Chủ nghĩa lãng mạn cho đến tập thơ Tia sáng và bóng tối (Les rayons et les ombres, 1840); đều thấm đượm chất trữ tình và lòng yêu thương con người, tình nhân ái của Hugo rất tự nhiên và sâu xa, thuộc về một bản chất nhân hậu hiếm có. Nhìn một em bé Hy Lạp thơ ngây, côi cút giữa cảnh hoang tàn, chết chóc; với tình thương sâu thẳm không biên giới, nhà thơ xót xa, thổn thức:
...Quân Thổ tràn qua: nơi nơi điêu tàn tang tóc.
...Ôi em bé đáng thương ơi, chân trần trên đá sắc,
Lệ đầm đìa đôi mắt biếc xanh!
Ôi làm sao đây để lau nước măt
Cho đôi măt em như bầu trời, như sóng nước trong xanh
Làm sao đây cho tia sáng vui tươi tràn ngập long lanh
Để mái tóc óng vàng ngẩng dậy!
...Làm sao đây cuốn gọn mái tóc vàng đẹp đẽ,
Vui chảy xuôi trên đôi vai trong trắng,
Đang khóc thầm quanh vầng trán của em!" (7)

(Em bé Hy Lạp - L'enfant grec)
Dẫu sau này khi đã gia nhập Viện Hàn lâm Pháp năm l841, rồi được phong tặng chức Nguyên lão nước Pháp (Pair de France) năm 1845; những danh nghĩa cao quí ấy chẳng làm giảm sút nỗi đau nhân thế của ông.
Cuộc Cách mạng tháng II năm 1848 chấm dứt ba triều đại quân chủ và việc thành lập Đệ nhị Cộng hòa đã nhóm thêm ngọn lửa nhiệt tình của V. Hugo đối với nền Dân chủ. Được bầu làm đại biểu Viện lập pháp - tại Nghị viện, Hugo lên tiếng đấu tranh đòi ân xá cho những người khởi nghĩa. Năm 1881, ông tham gia phong trào phản đối cuộc đảo chính đê hèn của Louis Bonaparte thiết lập nền Đế chế II. Bị truy nã, ông phải dùng căn cước của người thợ in Lanvin rời nước Pháp sang Bruxelles (Bỉ) rồi sau đó đến sống lưu vong ở các đảo Jersey và Guernesey (Anh). Trong thời kì này, Hugo có nhiều hoạt động xã hội tích cực. Tháng 8/1849 tại Đại hội Hòa bình thế giới họp ở Paris , V. Hugo được bầu làm chủ tọa. Ông nói: "Tư tưởng Hòa bình trên khắp thế giới là tài sản của các dân tộc. Mọi người đòi hỏi Hòa bình, vì Hòa bình là Hạnh phúc tối cao của họ". Năm 1859, V. Hugo gửi thư cho chính phủ Mỹ để bảo vệ lãnh tụ da đen John Brao. Và năm 1860, ông lên tiếng chống chiến tranh đế quốc chủ nghĩa, tố cáo Anh và Pháp xâm lược Trung Hoa v.v...
Chính trong giai đoạn này, nhiều áng văn kiệt tác của ông lần lượt ra đời: Tập thơ Trừng phạt (Les Châtiments, 1852) chĩa mũi nhọn công kích Napoléon "tiểu đế" (Napoléon le petit) tàn bạo bất tài, đối lập với Napoléon "đại đế" (Napoléon le grand); tập thơ Chiêm ngưỡng (Les contemplations, 1856) là những suy tư của tác giả về thân phận bất hạnh của con người bị cái ác thống trị: và đặc biệt là ba tập tiểu thuyết Những người khốn khổ (Les misérables, 1862), Những người lao động miền biển (Les travailleurs de la mer: 1866) và Người cười (L'homme qui rit, l869) đều tập trung nói về những số phận oan trái, hẩm hiu, thống khổ trong đời người.
Với niềm thương cảm sâu xa đối với nhân quần, V. Hugo sớm nhận ra nỗi đau nhân thế chính là bi kịch của con người khi bị tước đoạt nhân quyền. Thế là, từ một nghệ sĩ lãng mạn, do bản lĩnh và trí tuệ siêu việt của bản thân, V. Hugo đã đến với cách nhìn rất hiện thực, mới mẻ và hiện đại. Trong khi Stendhal lên án Quyền lực làm tha hóa con người và Balzac chỉ trích Đồng tiền phân chia xã hội thành hai loại người Giàu - Nghèo đối lập: thì V. Hugo đã sớm có được điều phát hiện quan trọng về mối mâu thuẫn gốc rễ trong xã hội đã và sẽ mãi mãi gây nên mọi đau khổ cho con người: đó là tệ nạn Bất bình đẳng (l'lnégalité).
Là một tác phẩm mang phong cách lãng mạn, Những người khốn khổ được V. Hugo viết nên với nỗi đau đời và cách nhìn con người với xã hội sâu sắc như thế.
Nhân vật chính - Jean Valjean là một cố nông chăm chỉ, phải lấy cắp chiếc bánh mì cho bảy đứa cháu mồ côi cha đói khát, do năm ấy mất mùa đói kém; đã bị kết tội cộng với tội vượt ngục cả thảy là 19 năm tù lao động khổ sai với xiềng xích, gông cùm, roi vọt...
Từ nhân vật, tác giả đặt ra những vấn đề của xã hội và lên án cái xã hội đã tác động đến số phận nhân vật một cách tàn nhẫn và bất công. Xen vào những trang văn miêu tả, tự sự, tường thuật sinh động; V. Hugo không ngần ngại có những đoạn văn bình luận gắt gao, sắc sảo:
"Xã hội có nhiệm vụ phải thấy rõ những điều mà chính xã hội đã gây ra... Một người lao động như anh mà phải thất nghiệp, một người siêng năng như anh mà phải đói khát thì có phải đó là một hiện tượng nghiêm trọng không?. .. Xử phạt nặng như thế có phải là để kẻ phạm tội chuộc tội không? Hay là lại đưa đến kết quả đảo ngược là biến cái sai lầm của kẻ phạm tội ra cái sai lầm của người đàn áp, biến thủ phạm thành nạn nhân, biến con nợ thành chủ nợ và cuối cùng đem công lí đặt về bên kẻ đã xâm phạm vào công lí?...".
Nhân vật Jean Valjean là hình tượng Con người nhân ái thánh thiện. Mặc dầu phải trải qua nhiều nỗi đau khổ thầm lặng, sống cô độc giữa cuộc đời; nhân vật này đại điện cho lí tưởng thẩm mỹ và đạo đức của tác giả, phản ánh niềm tin thiết tha của nhà văn nhân đạo: giữa xã hội bất công con người cần trở về với bản chất hướng thiện của mình mới vượt được lên thực tại để tự khẳng định mình.
Ở trường hợp Victor Hugo, hơn đâu hết chúng ta có thể thấy rõ cảm hứng sáng tạo ở ông là bắt nguồn từ tính cách và quan niệm nhân sinh của nhà văn, một quan niệm không chỉ thể hiện trong văn chương mà còn được vận dụng trong hành động và đời sống.
Năm 1869 Napoléon III ra lệnh ân xá cho V. Hugo, nhưng nhà văn từ chối. ông trả lời đanh thép:
"Giữ trọn lời thề với lương tâm, tôi chịu đến cùng số phận của Tự do. Tự do đã bị trục xuất khỏi đất Pháp, khi nào Tự do trở về Đất nước, tôi sẽ trở về cùng Tự do".
Quả như vậy, một năm sau "Napoléon tiểu đế" bị địch quân băt sống trong cuộc chiến Pháp - Phổ khiến Đế chế II phải sụp đổ. Ngày 4/9/1870, V. Hugo trở về trong lòng Tổ quốc tự do. Năm 1871, Hugo được bầu là nghị sĩ thành phố Paris và năm 1876, ông là Thượng nghĩ sĩ Quốc hội. Nhà văn có mối cảm tình nồng hậu với các chiến sĩ Công xã. Con trai ông, Charles Hugo là một chiến sĩ hy sinh trong cuộc Cách mạng Công xã Pari. V. Hugo luôn luôn đấu tranh đòi trả tự do cho những người tham gia Công xã. Ngày 3/6/1880 ông có bài diễn văn nổi tiếng về ý nghĩa Dân chủ ở Thượng nghị viện.
Riêng trong sự nghiệp sáng tác, V. Hugo còn chứng tỏ quan điểm một cách rành mạch ở trách nhiệm đối với xã hội:
Tôi đã cúi xuống đáy xã hội quan sát và đó là tất cả việc làm của tôi. Tôi muốn tiêu diệt định mệnh tàn ác đè nặng lên nhân loại. Tôi bẻ gãy ách nô lệ. Tôi săn đuổi sự nghèo đói, tôi đẩy lùi sự dốt nát, tôi làm nhẹ bớt bệnh tật. Tôi chiếu sáng cõi tối tăm. Tôi không thìn thấy sự thù hằn.
Đấy là thâm ý của tôi và vì vậy tôi đã viết Những người khốn khổ (8)
Vào thời điểm lúc bấy giờ ở thế kỉ XIX, với cao trào của Chủ nghĩa lãng mạn, khó mà có nhà văn nào khác ở nước Pháp có được một tuyên ngôn dứt khoát như lời phát biểu ấy của V.Hugo.
Mô hình về quan niệm con người và thế giới trên đây chi phối toàn bộ thi pháp tác giả. Luận điểm về một xã hội không giai cấp và một thế giới được điều hòa theo Chủ nghĩa xã hội của Saint Simon và Charles Fourrièr có ảnh hưởng đến mỹ học lạc quan thiên về đạo đức của Hugo. Như ông đã viết:
"Cần trộn lẫn cái Thô kệch với cái Cao cả trong nghệ thuật chính kịch cũng như trong tự nhiên vậy" (9)
Quan niệm này được chứng minh trong hầu hết văn phẩm của ông.
Trong tiểu thuyết Nhà thờ Đức Bà Paris (Notre Dame de Paris, l831), nhân vật chính là Quasimodo được mô tả và nhiều nét dị dạng: gù, thọt, chột, mũi to: miệng khoằm, lại vừa điếc vừa câm. .. Thế nhưng, trái hẳn cái ngoại hình xấu xí nhất thế gian ấy; anh kéo chuông khốn khổ lại có một tâm hồn tế nhị, một tình yêu sâu sắc chung thủy và cao đẹp trong thiên tình sử bi thảm: Bộ xương dị dạng của anh quấn chặt bộ xương cô vũ nữ kiều diễm Esmeralda chôn trong khu mộ chung của nhà thờ sau khi cô bị hành hình một cách tàn bạo.
Và Fantine trong Những người khốn khổ cũng vậy. "Nàng rất đẹp. Nàng cố giữ cho mình trong trắng mãi. Nàng có vàng ngọc làm của riêng như ai, nhưng vàng của nàng xếp trên mái tóc, ngọc của nàng giắt ở sau môi."... Thế mà, sóng gió đường đời đưa đẩy, khiến Fantine phải lâm vào cảnh bán tóc vàng, răng ngọc của mình rồi phải đi làm điếm trong tình trạng móm mém, đầu trọc và ho lao để lấy tiền chữa bệnh cho con. Cách hành xử của nàng quả là của một siêu mẫu về tình mẫu tử cao cả.
Hoặc như Gwynplaine ở tác phẩm Người cười, bị bọn quí tộc vụ lợi tranh chấp rạch môi anh, làm anh phải luôn luôn chua chát nói: 'Tôi cười chính là tôi khóc đấy. .."
Sử dụng nghệ thuật tương phản là một đặc trưng trong thủ pháp tiểu thuyết Hugo, nhằm làm nổi bật cái cao cả (le sublime), cái nhân phẩm tuyệt vời bị che lấp, ẩn náu trong bản thân những con người bị xã hội bất công tước đoạt quyền sống làm cho họ tha hóa, trở nên xấu xí thô kệch... Đây là đặc điểm thi pháp của nhà văn, một thủ pháp sáng tạo độc đáo gây ấn tượng sâu sắc về tính nhân đạo, có đóng góp đáng kể vào bước phát triển của nghệ thuật tiểu thuyết Pháp ở thế kỉ XIX và tạo nên tính thời đại trong những tác phẩm của V. Hugo.
Trong số những tác phẩm được xuất bản ở giai đoạn cuối đời của Hugo, từ năm 1870 đến 1885, như Năm hãi hùng (L'anneé terrible 1872); Nghệ thuật làm ông (L'art d'être grand père, l877); Đức Giáo hoàng (Le pape 1878), Nỗi khổ tối cao (La pitié suprême 1879), Bốn ngọn gió tinh thần (Les quatre vents de l'esprit l874) và tiểu thuyết Năm 93 (Quatre-vingt-treize l874) v.v... nổi bật là tập thơ Truyền kì các thể kỉ (La légende des siècles) được tác giả viết từ năm 1859 đến 1883).
Tác phẩm này dường như đúc kết lại những suy ngẫm của V. Hugo khi cuộc đời đã xế bóng. Hugo không chỉ dừng lại ở mức nhìn nhận, đề cao giá trị nhân phẩm của con người và lên án xã hội bất công nhằm khôi phục nhân quyền cho người dân và công lí bình đằng cho xã hội; mà với anh hùng ca Truyền kì các thế kỉ, chú nghĩa nhân văn của V. Hugo còn được phản ánh với cái tầm bay bổng diệu kì của tác giả trong niềm tin đối với sự chiến thắng của điều Thiện đối với cái Ac" (La victoire du Bien sur le Mal) trên toàn cầu.
Bằng những vần thơ sôi động, tác giả phác họa bức tranh hoành tráng của nhân loại trải qua các thời đại với cuộc hành trình của con người mang tinh thần của đám đông, đi từ thời hồng hoang của bà Eve - mẹ loài người, đến Cách mạng - bà mẹ của dân chúng. Đó là bước phát triển của con người từ tăm tối đến lí tưởng" (des ténèbres à l'idéal). Theo Hugo, cái ác đang tồn tại cần được xóa bỏ với niềm tin chân thành ở Đấng Tối cao, và hành động ấy sẽ đưa nhân loại đến sự hòa đồng tốt đẹp. Truyền kỳ các thế kỉ là tập anh hùng ca đồ sộ nhất của văn học Pháp với kích thước lớn lao về thời gian, không gian và những sự kiện lớn lao trong cuộc sống muôn mặt. Phần cuối tập thơ là sự trở về thời hiện đại với những bài thơ nổi tiếng như Sau trận đánh (Après la bataille), Nghĩa trang Eylau (Le cimetière d'Eylau), Những người cùng khổ (Les pauvres gens) v.v...
Các bài thơ có chung một chủ đề được nối kết với nhau bằng "sợi dây huyền diệu của mê lộ nhân thế là sự Tiến bộ" (lời tựa). Để minh họa cho ý tưởng này, trong bài thơ cuối Giữa bầu trời (Plein ciel), tác giả giới thiệu hình ảnh tuyệt đẹp của chiếc tàu thủy được chắp cánh bằng hiệu quả hiệp đồng của tri thức loài người, đang bay lên đến tận các vì sao...
Mỹ học lãng mạn kết hợp với cảm quan hiện thực tạo nên sức lôi cuốn và thuyết phục của lí tưởng thẩm mỹ V. Hugo đối với cuộc đời. Đó là Cái đẹp của Tình thương yêu hòa đồng, của Hạnh phúc bình đẳng và của sự Tiến bộ vô tận của Con người. Và đó chính là giá trị bất hủ của ý nghĩa nhân văn trong tác phẩm Victor Hugo.
Ông đã không ngần ngại xác định chức năng của nghệ sĩ như là một nhà tiên tri" (prophète), một "pháp sư" (mage), mà tác phẩm là một "âm vang" (écho sonore) của thời đại, hòa hợp cá nhân người sáng tạo với dân tộc, nhân loại và lịch sử trong nhiệm vụ cải tạo cuộc sống để do đó khẳng định vai trò và sứ mệnh cao quí của người nghệ sĩ.

Victor Hugo là một khuôn mặt vĩ đại của thế kỉ XIX, từng được xem như là một "cây cổ thụ mênh mông" (Théophile Gautier) một "Con người có năng khiếu phi thường" (Sainte Beuve), "tiêu biểu cho sức mạnh to lớn của vũ trụ và sự đấu tranh nhịp nhàng của những sức mạnh ấy" (Baudelaire).
Kỷ niệm 200 năm sinh của đại văn hào Victor Hugo trong những ngày đầu năm thứ hai của thiên niên kỷ này; khi nhân loại đang mang nỗi đau của các cuộc chiến tranh sắc tộc tôn giáo, của tệ nạn khủng bố cùng với nỗi lầm than và những thảm họa do tình trạng bất bình đẳng tạo nên còn ngự trị trên cuộc sống con người.
Chúng ta có thể hướng về những tác phẩm của Victor Hugo, coi đó như một nguồn sáng của lòng nhân ái và ý chí đấu tranh cho Hạnh phúc, cho Hòa bình Tự do và Dân chủ của nhân loại.
Đó là những tác phẩm mãi mãi giữ được giá trị nguyên vẹn trong lòng độc giả Việt và thế giới.
TP. HCM, ngày 21 tháng 01 năm 2002
T.T.L

(nguồn: TCSH số 162 - 08 - 2002)

 

-------------------------
(1), (3) Thái Thu Lan dịch
(2), (4), (5) Trần Mai Châu dịch
(6) V. Hugo - Lời nói đầu tác phẩm Những người khốn khố (Les Misérables)
(7) Thái Thu Lan dịch - Về phương đông (Les orientales, 1829)
(8) Victor Hugo - Lời tựa tiểu thuyết Những người khốn khổ
(9) V. Hugo - Lời tựa kịch Cromwell

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN KHẮC PHÊTừ lâu, ở Huế, nhiều người đã biết tiếng ba công chúa, ba nữ sĩ (Tam Khanh) con vua Minh Mạng, em gái nhà thơ nổi tiếng Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, trong đó MAI AM là người được nhắc đến nhiều nhất. Mai Am nổi tiếng trước hết vì tài thơ và cùng vì cuộc đời riêng không được may mắn của bà, tuy bà là người sống thọ nhất trong “Tam Khanh”.

  • LÊ DỤC TÚCùng với nghệ thuật tiếp cận và phản ánh hiện thực, nghệ thuật miêu tả và khắc họa chân dung nhân vật, nghệ thuật châm biếm và sử dụng ngôn ngữ cũng là một trong những nét nghệ thuật đặc sắc ta thường gặp trong các phóng sự Việt Nam 1932 - 1945.

  • NGUYỄN VĂN DÂNTrong thế kỷ XX vừa qua, thế giới, đặc biệt là thế giới phương Tây, đã sản sinh ra biết bao phương pháp phục vụ cho nghiên cứu văn học, trong đó phương pháp cấu trúc là một trong những phương pháp được quan tâm nhiều nhất.

  • AN KHÁNHHai mươi tám năm kể từ ngày chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, đủ để một thế hệ trưởng thành, một dòng thơ định vị. Tháng 3 vừa qua, Hội Văn nghệ Hà Nội và nhóm nhà thơ - nhà văn - cựu binh Mỹ có cuộc giao lưu thú vị, nhằm tìm ra tiếng nói "tương đồng", sự thân ái giữa các thế hệ Mỹ - Việt thông qua những thông điệp của văn chương.

  • TRẦN ĐÌNH SỬ Bạn đọc Việt Nam vốn không xa lạ với phê bình phân tâm học hơn nửa thế kỷ nay, bởi nó đã bắt đầu được giới thiệu vào nước ta từ những năm ba mươi, bốn mươi thế kỷ trước. Nhưng đáng tiếc nó đã bị kỳ thị rất nặng nề từ nhiều phía. Giống như nhân loại có thời phản ứng với Darwin vì không chấp nhận lý thuyết xem con người là một loài cao quý lại có thể tiến hóa từ một loài tầm thường như loài khỉ, người ta cũng không thể chấp nhận lý thuyết phân tâm học xem con người - một sinh vật có lý trí cao quý lại có thể bị sai khiến bởi bản năng tầm thường như các loài vật hạ đẳng!

  • PHẠM ĐÌNH ÂN(Nhân kỷ niệm lần thứ 20 ngày mất của Thế Lữ 3-6-1989 – 3-6-2009)Nói đến Thế Lữ, trước tiên là nói đến một nhà thơ tài danh, người góp phần lớn mở đầu phong trào Thơ Mới (1932-1945), cũng là nhà thơ tiêu biểu nhất của Thơ Mới buổi đầu. Ông còn là cây bút văn xuôi nghệ thuật tài hoa, là nhà báo, dịch giả và nổi bật là nhà hoạt động sân khấu xuất sắc, cụ thể là đưa nghệ thuật biểu diễn kịch nói nước nhà trở thành chuyên nghiệp theo hướng hiện đại hóa.

  • THÁI DOÃN HIỂUPhàm trần chưa rõ vàng thauChân tâm chẳng biết ở đâu mà tìm.                                VẠN HẠNH Thiền sư

  • HỒ THẾ HÀ  Thi ca là một loại hình nghệ thuật ngôn từ đặc biệt. Nó là điển hình của cảm xúc và tâm trạng được chứa đựng bởi một hình thức - “hình thức mang tính quan niệm” cũng rất đặc biệt. Sự “quái đản” trong sử dụng ngôn từ; sự chuyển nghĩa, tạo sinh nghĩa trong việc sử dụng các biện pháp tu từ; sự trừu tượng hoá, khái quát hoá các trạng thái tình cảm, hiện thực và khát vọng sống của con người; sự hữu hình hoá hoặc vô hình hoá các cảm xúc, đối tượng; sự âm thanh hoá theo quy luật của khoa phát âm thực nghiệm học (phonétique  expérimentale)...đã làm cho thi ca có sức quyến rũ bội phần (multiple) so với các thể loại nghệ thuật ngôn từ khác.

  • LÊ XUÂN LÍTHỏi: Mã Giám Sinh sau khi mua được Kiều, Mã phải đưa Kiều đi ròng rã một tháng tròn mới đến Lâm Tri, nơi Tú Bà đang chờ đợi. Trên đường, Mã đâm thèm muốn chuyện “nước trước bẻ hoa”. Hắn nghĩ ra đủ mưu mẹo, lí lẽ và hắn đâm liều, Nguyễn Du viết:              Đào tiên đã bén tay phàm              Thì vin cành quít, cho cam sự đờiĐào tiên ở đây là quả cây đào. Sao câu dưới lại vin cành quít? Nguyễn Du có lẩm cẩm không?

  • CHU ĐÌNH KIÊN1. Có những tác phẩm người đọc phải thực sự “vật lộn” trên từng trang giấy, mới có thể hiểu được nhà văn muốn nói điều gì. Đó là hiện tượng “Những kẻ thiện tâm” (Les Bienveillantes) của Jonathan Littell. Một “cas” được xem là quá khó đọc. Tác phẩm đã đạt hai giải thưởng danh giá của nước Pháp là: giải Goncourt và giải thưởng của Viện hàn lâm Pháp.

  • PHONG LÊSinh năm 1893, Ngô Tất Tố rõ ràng là bậc tiền bối của số rất lớn, nếu không nói là tất cả những người làm nên diện mạo hiện đại của văn học Việt Nam thời 1932-1945. Tất cả - gồm những gương mặt tiêu biểu trong phong trào Thơ mới, Tự Lực văn đoàn và trào lưu hiện thực đều ra đời sau ông từ 10 đến 20 năm, thậm chí ngót 30 năm.

  • HẢI TRUNGHiện tượng ngôn ngữ lai tạp hay gọi nôm na là tiếng bồi, tiếng lơ lớ (Pidgins và Creoles) được ngành ngôn ngữ học đề cập đến với những đặc trưng gắn liền với xã hội. Nguồn gốc ra đời của loại hình ngôn ngữ này có nhiều nét khác biệt so với ngôn ngữ nói chung. Đây không chỉ là một hiện tượng cá thể của một cộng đồng ngôn ngữ nào, mà nó có thể phát sinh gắn liền với những diễn biến, những thay đổi, sự phát triển của lịch sử, xã hội của nhiều dân tộc, nhiều quốc gia khác nhau.

  • BÙI NGỌC TẤN... Đã bao nhiêu cuộc hội thảo, bao nhiêu cuộc tổng kết, bao nhiêu cuộc thi cùng với bao nhiêu giải thưởng, văn chương của chúng ta, đặc biệt là tiểu thuyết vẫn chẳng tiến lên. Rất nhiều tiền của bỏ ra, rất nhiều trí tuệ công sức đã được đầu tư để rồi không đạt được điều mong muốn. Không có được những sáng tác hay, những tác phẩm chịu được thử thách của thời gian. Sự thất thu này đều đã được tiêu liệu.

  • NGUYỄN HUỆ CHICao Bá Quát là một tài thơ trác việt ở nửa đầu thế kỷ XIX. Thơ ông có những cách tân nghệ thuật táo bạo, không còn là loại thơ “kỷ sự” của thế kỷ XVIII mà đã chuyển sang một giọng điệu mới, kết hợp tự sự với độc thoại, cho nên lời thơ hàm súc, đa nghĩa, và mạch thơ hướng tới những đề tài có ý nghĩa xã hội sâu rộng.

  • NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNĐã nhiều sử liệu viết về cuộc xử án vua Duy Tân và các lãnh tụ khởi xướng cuộc khởi nghĩa bất thành tháng 5-1916, mà trong đó hai chí sĩ Thái Phiên - Trần Cao Vân là hai vị đứng đầu. Tất cả các sử liệu đều cho rằng, việc hành hình đối với Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu diễn ra vào sáng ngày 17-5-1916. Ngay cả trong họ tộc hai nhà chí sĩ, việc ghi nhớ để cúng kỵ, hoặc tổ chức kỷ niệm cũng được tính theo ngày như thế.

  • PHONG LÊBây giờ, sau 60 năm - với bao là biến động, phát triển theo gia tốc lớn của lịch sử trong thế kỷ XX - từ một nước còn bị nô lệ, rên xiết dưới hai tầng xiềng xích Pháp-Nhật đã vùng dậy làm một cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại, rồi tiến hành hai cuộc kháng chiến trong suốt 30 năm, đi tới thống nhất và phát triển đất nước theo định hướng mới của chủ nghĩa xã hội, và đang triển khai một cuộc hội nhập lớn với nhân loại; - bây giờ, sau bao biến thiên ấy mà nhìn lại Đề cương về văn hoá Việt Nam năm 1943(1), quả không khó khăn, thậm chí là dễ thấy những mặt bất cập của Đề cương... trong nhìn nhận và đánh giá lịch sử dân tộc và văn hoá dân tộc, từ quá khứ đến hiện tại (ở thời điểm 1943); và nhìn rộng ra thế giới, trong cục diện sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại; và gắn với nó, văn hoá, văn chương - học thuật cũng đang chuyển sang giai đoạn Hiện đại và Hậu hiện đại...

  • TƯƠNG LAITrung thực là phẩm chất hàng đầu của một người dám tự nhận mình là nhà khoa học. Mà thật ra, đâu chỉ nhà khoa học mới cần đến phẩm chất ấy, nhà chính trị, nhà kinh tế, nhà văn hoá... và bất cứ là "nhà" gì đi chăng nữa, trước hết phải là một con người biết tự trọng để không làm những việc khuất tất, không nói dối để cho mình phải hổ thẹn với chính mình. Đấy là trường hợp được vận dụng cho những người chưa bị đứt "dây thần kinh xấu hổ", chứ khi đã đứt mất cái đó rồi, thì sự cắn rứt lương tâm cũng không còn, lấy đâu ra sự tự phản tỉnh để mà còn biết xấu hổ. Mà trò đời, "đã trót thì phải trét", đã nói dối thì rồi cứ phải nói dối quanh, vì "dại rồi còn biết khôn làm sao đây".

  • MÃ GIANG LÂNVăn học tồn tại được nhiều khi phụ thuộc vào độc giả. Độc giả tiếp nhận tác phẩm như thế nào? Tiếp nhận và truyền đạt cho người khác. Có khi tiếp nhận rồi nhưng lại rất khó truyền đạt. Trường hợp này thường diễn ra với tác phẩm thơ. Thực ra tiếp nhận là một quá trình. Mỗi lần đọc là một lần tiếp nhận, phát hiện.

  • HÀ VĂN LƯỠNGTrong dòng chảy của văn học Nga thế kỷ XX, bộ phận văn học Nga ở hải ngoại chiếm một vị trí nhất định, tạo nên sự thống nhất, đa dạng của thế kỷ văn học này (bao gồm các mảng: văn học đầu thế kỷ, văn học thời kỳ Xô Viết, văn học Nga ở hải ngoại và văn học Nga hậu Xô Viết). Nhưng việc nhận chân những giá trị của mảng văn học này với tư cách là một bộ phận của văn học Nga thế kỷ XX thì dường như diễn ra quá chậm (mãi đến những thập niên 70, 80 trở đi của thế kỷ XX) và phức tạp, thậm chí có ý kiến đối lập nhau.

  • TRẦN THANH MẠILTS: Nhà văn Trần Thanh Mại (1908-1965) là người con xứ Huế. Tên ông đã được đặt cho một con đường ở đây và một con đường ở thành phố Hồ Chí Minh. Trần Thanh Mại toàn tập (ba tập) cũng đã được Nhà xuất bản Văn học phát hành năm 2004.Vừa rồi, nhà văn Hồng Diệu, trong dịp vào thành phố Hồ Chí Minh dự lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Trần Thanh Mại, đã tìm thấy trang di cảo lưu tại gia đình. Bài nghiên cứu dưới đây, do chính nhà văn Trần Thanh Mại viết tay, có nhiều chỗ cắt dán, thêm bớt, hoặc mờ. Nhà văn Hồng Diệu đã khôi phục lại bài viết, và gửi cho Sông Hương. Chúng tôi xin cám ơn nhà văn Hồng Diệu và trân trọng giới thiệu bài này cùng bạn đọc.S.H