Nỗi buồn thiếu phụ

16:57 29/12/2008
TRẦN HUYỀN SÂMNhư con thú hoang ôm vết thương lòng đi tìm nơi trú ẩn, gương mặt người thiếu phụ mang nỗi buồn tiền kiếp - tự ngàn xưa: Người thiếu phụ có đôi mắt buồnĐi lang thang trong chiều mùa hạNỗi cô đơn lây sang cả đá...

“Mang vết thương không chảy máu bao giờ”, thơ Thúy Nga là những giọt buồn vắt ra từ nỗi đau của một người đàn bà cô đơn và luôn luôn khao khát...
Mà không, hình như, đây không chỉ là thơ, mà còn là câu chuyện buồn về một cuộc kiếm tìm không dứt... của người thiếu phụ:
Có những cuộc kiếm tìm không dứt
Sợ thời gian hạn hữu vơi dần
Không dấu vết đi vào cõi nhớ...
Nếu theo triết thuyết: Đời người chỉ là một cuộc trở về, thì đây, người thiếu phụ đang đau đớn tìm lại chính mình: tìm về quá khứ, về với nỗi buồn xanh, với tiếng gọi tình xa xăm,với những giây phút thần tiên thuở xuân thì...
Nhón chân em bước vào quá khứ
Nhặt một nỗi buồn hiu hắt xanh...        
Càng kiếm tìm, người thiếu phụ càng rơi vào cõi hoang vắng, thất vọng và  cô đơn:
Ôi cuộc sống với nỗi đau quá thể
Đã bao lần
làm rạn vỡ trái tim ta!

Xưa, có một nhà hiền triết từng khuyên đồ đệ của mình: Thôi, con đừng kiếm tìm, hãy úp mặt vào đá!
Úp mặt vào để nhận ra bản thể của chính mình. Thơ Thúy Nga là một cái tôi tự cảm. Một cái tôi biết lắng nghe những bí mật thầm kín của cõi lòng. Một cái tôi ứ đầy nỗi đau, dồn nén niềm khát khao để bật lên thành tiếng: “Có phải nhiều đêm em đã khóc- Cả trong mơ tiếng nấc cũng nghẹn ngào?”
Kiếm tìm và khao khát. Khao khát rồi lại kiếm tìm... Nhưng, tàn cuộc, vẫn chỉ là một miền hoang tưởng, một gương mặt thiếu phụ buồn, úp mặt vào màn đêm  hư vô: “Và em, sau những cuộc kiếm tìm- Có chút gì để nhớ?- Chân dung em- Lấp lánh nụ cười thiếu phụ- Giọt sương tan, đêm tàn!”

Cùng với nỗi đau kiếm tìm, thơ Thúy Nga mở ra một miền không gian êm dịu của khu vườn cổ tích, hạnh phúc ngày xuân, cơn mưa đầu hạ và tiếng khóc thiên thần...
Thúy Nga là một người đàn bà biết yêu, biết sống, và biết chờ đợi... Đau đớn mà vẫn dịu dàng, thất vọng mà vẫn độ lượng: “Đôi khi em muốn quên- Để hóa thân thành đêm- Trùm lên anh- Màn đêm dịu êm...”
Thơ hay là thơ biết gọi nỗi buồn thành tên. Thơ Thúy Nga biết đốt cháy nỗi buồn để thành niềm đau: niềm đau thơ, niềm đau thiếu phụ; biết thoát xác và thăng hoa thành một cái tôi kiêu hãnh: được sống đúng là mình, cho dù đau đớn: “Cho đến lúc em về với cỏ - Linh hồn em nương náu ở trang thơ”.
Cảm ơn Thúy Nga, người thiếu phụ đã biết nói tiếng lòng của bao thiếu phụ...
                                T.H.S


THUÝ NGA

Chờ chồng

Có đợi-chờ-khuya-em mới biết
Rượu hồng chưa nhạt
chẵn mươi năm
Dằng dặc nỗi lo đêm sâu thẳm
Hiên nhà in bóng, 
dáng em nghiêng.
           
Bất chợt xô vào cơn gió lạ
Đông đã về chưa,  Thu sắp qua
Ngoài ấy sương đêm dày,        chắc lạnh
Mà anh không đội mũ  bao giờ
Mong gió hiền ngoan,
 trăng vẫn đợi
Tim em chỉ lối, dẫn anh về.

Cơn mưa đầu mùa

Em đi, mang hơi ấm đi theo
Cái lạnh Huế len vào chăn chiếu

Căn bếp nhỏ chơ vơ lạnh lẽo
Cơm bụi bên đường,
                nửa dĩa còn nguyên

Về đi em!
Người con gái Huế
Hè qua rồi trời đã sang Thu.

Em quay gót
Bên thềm xưa lá rụng
Cơn mưa đầu mùa
Xối sạch vết hờn chưa?

(nguồn: TCSH số 212 - 10 - 2006)

 

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • ĐỖ NGỌC YÊN…Thơ Hoàng Trần Cương là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa những chất liệu, hình ảnh và ngôn ngữ của đời sống, với sự đào sâu những suy tư, khát vọng sống của con người và một vùng quê mà anh đã nặng nghĩa sinh thành...

  • THỦY THANHCơn đại hồng thủy đầu tháng 11 năm 1999 được coi như "bản tổng kết thủy tặc" đầy bi tráng của thiên nhiên trong thế kỷ 20 đối với mảnh đất Thừa Thiên Huế. Nó đã gây ra nỗi kinh hoàng, đau thương, mất mát to lớn và cũng để lại không ít những hệ lụy nặng nề cho con người ở nơi đây. Và cũng chính nó - cơn lũ chưa từng có này - đã đi vào lịch sử.

  • BẾ KIẾN QUỐCNăm ấy, vào quãng mùa hè 1982, khi đang trực Ban văn xuôi của báo Văn Nghệ, tôi nhận được một bản thảo truyện ngắn kèm theo lời nhắn: “ Cái truyện này rất quan trọng đối với tôi. Rất mong được tòa soạn đọc kỹ và cho ý kiến. Mấy hôm nữa tôi sẽ quay lại”.

  • THÁI DOÃN HIỂUNgô Văn Phú là thi sĩ của đồng quê. Anh có thể viết nhiều đề tài như xây dựng, chiến tranh, lịch sử, tình yêu..., nhưng như lá rụng về cội, ngược về nguồn, Ngô Văn Phú trở lại nơi làng quê yêu dấu với một tình yêu bẩm sinh, yêu đến tận cùng gốc rễ như Nêruđa đã viết.

  • MAI VĂN HOANTrong số bạn bè cùng lứa thì Ngô Minh bước vào làng thơ muộn màng hơn cả. Nếu Lâm Thị Mỹ Dạ được chú ý ngay khi còn ngồi trên nghế nhà trường, Hải Kỳ có thơ in trên báo Văn nghệ những năm 69,70 thì Ngô Minh vẫn chưa hề có ai hay biết.

  • HOÀNG VŨ THUẬTCó những bài thơ đọc lên và bắt gặp ngay cái đẹp trong từng câu chữ. Lại có những bài thơ đọc đi đọc lại thấy hay mà không dễ gì tìm thấy ngay được. Nó như vẻ đẹp của người con gái có duyên thằm. Cái đẹp thầm kín, ẩn náu.

  • HOÀNG VŨ THUẬTTrong một bài thơ viết trên giường bệnh, trước khi mất vài hôm Thanh Hải tâm sự:     Ta làm con chim hót     Ta làm một cành hoa                                   Ta nhập trong hòa ca                                   Một nốt trầm xao xuyến                                          (Mùa xuân nho nhỏ)

  • Tiểu thuyết "Vạn Xuân" (Dix mille Printemps) của nữ văn sĩ Pháp Yveline Féray viết về cuộc đời Nguyễn Trãi và cuộc khởi nghĩa Lam Sơn dày trên 1200 trang, do Nguyễn Khắc Dương và một số cộng tác viên dịch, do Nhà xuất bản Văn học in năm 1997 đã được độc giả Việt Nam đón nhận nồng nhiệt.

  • PHAN VĂN CÁCTuy Lí Vương Nguyễn Miên Trinh (1820- 1897) là con thứ 11 vua Minh Mệnh triều Nguyễn, tự là Khôn Chương, lại có tự là Quý Trọng, hiệu là Tĩnh Phố (tên ngôi vườn ông ở) lại có hiệu là Vi Dã. Tuy Lí Vương là tước phong cuối cùng của ông (trước đó từng có tước Tuy Quốc công năm 19 tuổi).

  • HOÀNG CẦM(Lời Bạt cho tập thơ ĐÓA TẦM XUÂN của Trịnh Thanh Sơn - Nhà Xuất bản Văn học 1999)

  • NGUYỄN KHẮC PHÊTác phẩm đầu tay của tôi - tập ký sự “Vì sự sống con đường” (NXB Thanh Niên, Hà Nội, 1968) viết về những đồng đội của tôi trong cuộc chiến đấu anh hùng bảo vệ tuyến đường 12A lên đèo Mụ Dạ, một đoạn đường trọng yếu trong hệ thống đường Hồ Chí Minh giai đoạn 1965-1966, được xuất bản năm 1968, nhưng bài viết đầu tiên của tôi được in trên báo chí khi tôi vừa tròn 20 tuổi và đang học tại Hà Nội.

  • Thanh Hải tên thật là Phạm Bá Ngoãn. Anh sinh ngày 4 tháng 11 năm 1930, quê ở xã Phong Bình, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Nhà thơ mất ngày 15 tháng 12 năm 1980, tại thành phố Huế.

  • LÊ VĂN DƯƠNG1. Quý II năm 2005, Nhà xuất bản Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh phát hành, nói đúng ra là tái bản lần thứ nhất cuốn Tản mạn nhớ và quên của Nguyên Ngọc. Cuốn sách dày 560 trang, tập hợp 15 bài viết của tác giả ở những thời điểm khác nhau nhưng đa phần là vào những năm 90 của thế kỷ XX và một vài năm mở đầu thế kỷ XXI.

  • PHAN CHÍNSau khi làm tròn vai một nhà chính trị, không giống như nhiều người khác, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm rời Thủ đô Hà Nội về Huế sinh sống.

  • NGUYỄN THỊ KIM THANH(Nhân đọc Tập thơ Ngày đầu tiên của Trần Hữu Lục - NXB Hội Nhà Văn, 01-2010)

  • HOÀNG NHƯ MAI - NGUYỄN VĂN HẤN Cùng với những tập quán cổ truyền ngày Tết dân tộc, từ cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến nay, nhân dân ta đã có thêm một tập quán quý báu nữa: đọc thơ chúc Tết của Bác Hồ.

  • NGÔ MINHTôi đọc và để ý đến thơ Đông Hà khi chị còn là sinh viên khoa văn Trường Đại học Sư phạm Huế. Thế hệ này có rất nhiều nữ sinh làm thơ gây được sự chú ý của bạn đọc ở Huế và miền Trung như Lê Thị Mỹ Ý, Nguyễn Thanh Thảo, Huỳnh Diễm Diễm.v.v... Trong đó có ấn tượng đối với tôi hơn cả là thơ Đông Hà.

  • NGUYỄN ANH TUẤNKhông gian trữ tình không là một địa danh cụ thể. Mặc dù có một “thôn Vĩ” luôn hiện hữu hết sức thơ mộng trên toàn đồ trực diện thẩm mỹ của bài thơ, với những màu sắc, hình ảnh, đường nét:…

  • KHÁNH PHƯƠNGNhân cách văn hóa của nhà văn có thể được biểu hiện bằng những hành động, thái độ trong đời sống, nhưng quan trọng hơn, nó chi phối nhân cách sáng tạo của nhà văn.

  • HỒNG DIỆUTrương Mỹ Dung đời Đường (Trung Quốc) có một bài thơ tình yêu không đề, được nhiều nhà thơ Việt Nam chú ý.