Nobel Văn học 2011: Khi thơ ca là những bản hoan ca

15:53 31/10/2011
TRẦN HUYỀN SÂMGiản dị, nhưng lay động và ám gợi một cách siêu hình, nhà thơ sống ẩn dật Tomas Transtromer đã được Hội đồng Hàn lâm Thụy Điển vinh danh giải Nobel văn học 2011.> Những nét gạch xóa của lửa

Chân dung Tomas Transtromer

[if gte mso 9]> Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 <![endif][if gte mso 9]> <![endif][if gte mso 10]> <![endif]

Giới bình luận báo chí trên Le Figaro đã thốt lên: “Đấy là một sự ngạc nhiên đối với người Pháp chúng tôi!(1). Vì sao? Bởi họ chờ đợi một cái tên như Bob Dylan - nhà thơ, họa sĩ và huyền thoại âm nhạc, hay Adonis - nhà thơ kiêm nhà hoạt động chính trị Syrie…

Kỳ thực, Tomas Transtromer đã nổi tiếng từ lâu. Những năm của thập niên 80, thơ ông đã được dịch ra hơn sáu mươi thứ tiếng trên thế giới. Dù ông sống ẩn dật, lặng lẽ trên một hòn đảo, sau cơn bạo bệnh vào năm 1990, nhưng những vần thơ sâu sắc, giàu tính suy tưởng, cách luận giải mới mẻ về con người và cuộc sống đã vang khắp thế giới. Người ta đọc thơ ông trên
métro, trong giáo đường…

Transtromer được giới thiệu ở Pháp bằng tuyển tập OEuvres complètes (1954-1994) de Tomas Transtromer, chuyển dịch từ tiếng Thụy Điển bởi Jarques Outin, do Nxb Le Castor Astral ấn hành vào năm 1996, với lời giới thiệu trang trọng của Marc Blanchet: “Đấy là một trong những nhà thơ lớn nhất của thế kỷ XX”(2). Còn ở Việt Nam, chúng ta được biết đến T.Transtromer từ năm 2000, qua bản dịch tiếng Pháp của nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh, do Nxb Văn học ấn hành. Và Tạp chí Sông Hương cũng đã từng hân hạnh giới thiệu một chùm thơ của ông vào năm 2006. Như vậy, T.Transtromer đâu phải là nhà thơ xa lạ với chúng ta!?

Viện Hàn lâm Thụy Điển vinh danh Nobel cho Tomas Transtromer bởi tác phẩm của ông đã đặt ra những vấn đề lớn lao của thời đại: “về cái chết và lịch sử, về ký ức và thiên nhiên”. Transtromer được mệnh danh là bậc thầy của phép ẩn dụ/ Maitre de la métaphore. Thơ ông là kết hợp siêu hình, ám ảnh “Những bí ẩn của thơ ca cư trú trong sự kết hợp bất ngờ của một tầm nhìn rộng lớn và một giác quan chính xác” (Terre à ciel des poètes/ Poésie d'aujourdhui)(3).

Hình như Tomas Transtromer đã quyến rũ bạn đọc bởi ba điều đặc biệt: sự khắc khoải của nỗi đau tội lỗi; sự dồn nén của ngôn ngữ câm lặng; sự du dương của những bản thánh ca tràn đầy nhục cảm trần thế?

Khi thơ ca là lời sám hối cho những tâm hồn tội lỗi


Tomas Transtromer là một nhà thơ, kiêm nhà tâm lý học. Ông từng làm việc trong các tổ chức từ thiện để giúp đỡ cho những người bệnh tật và lầm lỗi. Đối diện với nỗi đau của mặc cảm tội lỗi, thơ ông là niềm thấu hiểu sâu sắc về cuộc đời và con người. Những hoạt động trong trại tập trung Roxtuna (cải tạo trẻ em phạm tội, giới nghiện ma túy) là dịp để Transtromer thể nghiệm thơ ca. Thơ ông đã cất lên từ những nỗi đau sám hối của loài người

Như khi ai đó đã chìm quá sâu trong giấc mơ
sẽ không bao giờ hắn có thể nhớ mình đã ở đó
lúc trở lại căn phòng.
Như khi ai đó đã ở quá sâu trong bệnh tật
những ngày tháng cũ trở thành những điểm nhấp nháy, một chùm,
lạnh lẽo và yếu ớt ở chân trời

(Đường ray)

Khi thơ ca vang lên từ chốn câm lặng…


Với T. Transtromer thơ ca là sự dồn nén của thế giới ngôn ngữ câm lặng (4). Trong chốn thâm u, huyền bí, thơ ca gợi ra niềm ẩn mật của tâm linh. Đối thoại với thế giới nội tâm, thơ ông đã đúc kết thành những triết lý sâu thẳm về thiên nhiên, con người giữa cõi nhân thế…

Ban đêm, bầu trời gào thét.
Không cho ai biết, chúng ta rút sữa từ hoàn vũ, để sống còn

(Những nét gạch xóa của lửa)

Phải chăng, cuộc sống ẩn dật khiến cho thơ ca của Tomas Transtromer có một sức quyến rũ riêng? Cú ngã đột quỵ vào năm 1990, làm cho Transtromer không còn diễn đạt ngôn ngữ như một người bình thường. Bàn tay phải cũng không thể cầm bút để sáng tạo như xưa. Trong nỗi đau câm lặng của bệnh tật, trong sự bất lực của niềm khát khao giao cảm với cuộc đời, thơ Transtromer đã vang lên bằng một thứ ngôn ngữ dồn nén khắc khoải. Đó chính là sự bí ẩn, kỳ thú, mà chỉ những nghệ sĩ tài hoa, thượng đế mới ban tặng cho đặc ân này. Nỗi đau, sự khốn cùng, thường là nơi chốn để thơ ca, nghệ thuật thăng hoa. Ít ai viết thành công trong niềm hân hoan hạnh phúc. Đó cũng là một nghịch lý thú vị của nghệ thuật với cuộc đời này: Dostoievski viết trong cơn động kinh man rợ, Balzac viết trong chốn nợ nần vây quanh, Nietzsche viết trong sự khốn cùng của nỗi đau bị đàn bà chối từ…

Hơn một phần tư cuộc đời, Transtromer phải đối diện với cuộc sống bệnh tật. Lánh xa chốn nhân gian ồn ào, Transtromer đã biến nỗi đau riêng tư thành sức mạnh của ngôn ngữ thơ ca. Ám gợi, siêu hình và mang tầm triết học, thông qua những biểu tượng, Transtromer đã biểu đạt sự phong phú, kỳ bí của thiên nhiên và tâm hồn con người. Đó có thể là một thế giới bên kia, ngăn cách niềm giao cảm giữa nhà thơ với cuộc đời:

“Tôi đã viết cho các bạn thật ít ỏi. Nhưng những gì tôi không thể viết
đã phồng lên và phồng lên như một khinh khí cầu kiểu xưa
và cuối cùng trôi đi qua bầu trời đêm”

(Gửi những người bạn ở bên kia một biên giới)

Đôi lúc, trong những khoảnh khắc xao động, Transtromer đã hình dung về thế giới bằng một thứ ngôn ngữ mang màu sắc hiện sinh:

…Những kỷ niệm mơ hồ chìm xuống đáy đại dương
để sững lại dưới ấy - những pho tượng dị kỳ. - Xanh rêu
là cây nạng của mi. Kẻ
đi biển trở lại hóa đá.

(Trầm tư xao động)

Khi thơ ca cất lên giai điệu của âm nhạc…


Tomas Transtromer từng là một cây piano tài hoa. Ông am hiểu sâu sắc lĩnh vực âm nhạc, vì thế, thơ Transtromer tràn đầy nhạc tính. Có những câu thơ dìu dặt, réo rắt. Có những câu thơ kéo dài, ngân nga như những bản sérénade. Có những câu thơ đứt gãy, vỡ vụn, tan ra trong không trung…

…Rơi rơi
mọi hành động của chúng ta
trong như pha lê
không vào một đáy sâu nào hết
ngoại trừ ở bên trong chính chúng ta.

(Đá)

Tính triết lý, biểu tượng và sự du dương âm nhạc, là những đặc điểm làm nên phong cách thơ của Transtromer như các nhà phê bình Tây âu nhận xét.

Về con người Tomas Transtromer?


Chào đời vào năm 1931 tại Stockholm, nhưng lại sống gần như ẩn dật tại một hòn đảo, sau cơn đột quỵ oan nghiệt vào năm 1990. Trường trung học Latin Sodra và tấm lòng nhân ái của người mẹ là nơi nuôi dưỡng tâm hồn thi ca của Tomas Transtromer. Những vần thơ nhen nhóm, khi còn tuổi ấu thơ. Tập thơ gây chú ý với độc giả, khi Transtromer đang là sinh viên tâm lý học, 17 poèmes (17 Diker), do Nxb Bonners ấn hành 1954. Đó cũng là khởi phát cho sự nghiệp và niềm đam mê thi ca của Tomas. Năm 1956, ông nhận bằng cử nhân tâm lý học và được tuyển dụng vào Viện Kỹ thuật tâm lý của trường Đại học Stockholm. Tuy nhiên, Transtromer luôn bận tâm đến vấn đề nghệ thuật, thi ca và lịch sử. Chính điều này đã tạo ra một phong cách đa diện, phong phú trong nghiệp tác của Transtromer.

Mặc dù đau đớn trong bệnh tật, Transtromer vẫn miệt mài đam mê sáng tạo. Năm 2004, ông cho ra đời tác phẩm Bí mật của đời tôi. Ngoài ra, ông còn viết hồi ký. Tập Những kỷ niệm đang nhìn tôi, đã được bạn đọc quan tâm bởi hình tượng tự thuật là tác giả.

Ngoài giải thưởng Nobel cao quí vừa được vinh danh 10 - 2011, Tomas Transtromer đã từng nhận được nhiều giải thưởng đặc biệt khác, như giải: Bellmanpriset (1966), Prarque của Đức (1981), giải thưởng văn học quốc tế Neustadt của Mỹ (1990), giải Augustpriset năm 1996... Với những giá trị đã đạt được, Tomas Transtromer được đánh giá là một trong những thơ đương đại lớn nhất của thế kỷ XX. Transtromer đã góp phần quan trọng để làm nên diện mạo thơ ca của dân tộc Thụy Điển và thế giới.

Trên hết, thơ Tomas Transtromer là bản hoan ca về cõi nhân thế. Bằng tính quyền uy của ngôn ngữ, Transtromer đã mở ra những giới hạn về con người và cuộc đời. Lay động, run rẩy và khắc nghiệt, thơ ông đã đánh thức từng giác quan của chúng ta trong thế giới vô cảm của xã hội hậu hiện đại. Viện Hàn lâm đã trao giải cho Tomas Transtromer, vì lời xưng tụng con người bằng một thứ ngôn ngữ tuyệt đẹp đó.

T.H.S.
(273/11-11)


----------------
(1) Transtromer: “Une surprise pour nous les Francais”, Le Figaro, htt://www.lefigaro.fr/livres Các tư liệu trong bài được tổng hợp từ nguồn tiếng Pháp. Các bài thơ là bản dịch của Nguyễn Xuân Sanh. Chúng tôi có xem thêm bản tiếng Pháp của Jacque Outin trong tuyển tập OEuvres complètes (1954- 1994) de Tomas Transtromer, Éditions du Castor Astra, 1996.
(2) Le mensuel de la littérature contemporaine, htt://www.lmda.net/din/tit
(3) Terre à ciel des poètes -Tomas Transtrosmer, htt://terreaciel.free.fr/poetes/poetesttanstromer
(4) Le poète du silence, nguồn hh:/www.critiqueslibres.com






Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LÝ VIỆT DŨNGThiền tông, nhờ lịch sử lâu dài, với những Thiền ngữ tinh diệu kỳ đặc cùng truyền thuyết sinh động, lại chịu ảnh hưởng sâu sắc văn hóa Á đông xưa và thấm nhuần văn hóa Tây phương ngày nay nên đã cấu thành một thế giới Thiền thâm thúy, to rộng.

  • TRẦN HUYỀN SÂM1. Theo tôi, cho đến nay, chúng ta chưa có những đánh giá xác đáng về hiện tượng Xuân Thu nhã tập: Cả trên phương diện lý thuyết lẫn thực tiễn sáng tác. Có phải là nguyên do, nhóm này đã bị khoanh vào hai chữ “BÍ HIỂM”?

  • PHI HÙNGĐỗ Lai Thuý đã từng nói ở đâu đó rằng, anh đến với phê bình (bài in đầu tiên 1986) như một con trâu chậm (hẳn sinh năm Kỷ Sửu?).Vậy mà đến nay (2002), anh đã có 4 đầu sách: Con mắt thơ (Phê bình phong cách thơ mới, 1992, 1994, 1998, 2000 - đổi tên Mắt thơ), Hồ Xuân Hương - hoài niệm phồn thực (Nghiên cứu thơ Hồ Xuân Hương từ tín ngưỡng phồn thực, 1999), Từ cái nhìn văn hoá (Tập tiểu luận, 2000), Chân trời có người bay (Chân dung các nhà nghiên cứu, 2002), ngoài ra còn một số sách biên soạn, giới thiệu, biên dịch...

  • TRẦN ĐỨC ANH SƠNCuối tuần rảnh rỗi, tôi rủ mấy người bạn về nhà làm một độ nhậu cuối tuần. Rượu vào lời ra, mọi người say sưa bàn đủ mọi chuyện trên đời, đặc biệt là những vấn đề thời sự nóng bỏng như: sự sa sút của giáo dục; nạn “học giả bằng thật”; nạn tham nhũng...

  • HỒ VIẾT TƯSau buổi bình thơ của liên lớp cuối cấp III Trường Bổ túc công nông Bình Trị Thiên, dưới sự hướng dẫn của thầy Trần Văn Châu dạy văn, hồi đó (1980) thầy mượn được máy thu băng, có giọng ngâm của các nghệ sĩ là oai và khí thế lắm. Khi bình bài Giải đi sớm.

  • PHAN TRỌNG THƯỞNGLTS: Trong hai ngày 02 và 03 tháng 3 năm 2006, tại thủ đô Hà Nội đã diễn ra Hội nghị lý luận – phê bình văn học nghệ thuật toàn quốc. Trên 150 nhà nghiên cứu, lý luận, phê bình đã tham dự và trình bày các tham luận có giá trị; đề xuất nhiều vấn đề quan trọng, thiết thực của đời sống lý luận, phê bình văn học nghệ thuật hiện đại ở nước ta, trong đối sánh với những thành tựu của lý luận – phê bình văn học nghệ thuật thế giới.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO1. Con người không có thơ thì chỉ là một cái máy bằng xương thịt. Thế giới không có thơ thì chỉ là một cái nhà hoang. Octavio Paz cho rằng: “Nếu thiếu thơ thì đến cả nói năng cũng trở nên ú ớ”.

  • PHẠM PHÚ PHONGTri thức được coi thực sự là tri thức khi đó là kết quả của sự suy nghĩ tìm tòi, chứ không phải là trí nhớ.                       L.Tonstoi

  • TRẦN THANH HÀTrong giới học thuật, Trương Đăng Dung được biết đến như một người làm lý luận thuần tuý. Bằng lao động âm thầm, cần mẫn Trương Đăng Dung đã đóng góp cho nền lý luận văn học hiện đại Việt đổi mới và bắt kịp nền lý luận văn học trên thế giới.

  • PHẠM XUÂN PHỤNG Chu Dịch có 64 quẻ, mỗi quẻ có 6 hào. Riêng hai quẻ Bát Thuần Càn và Bát Thuần Khôn, mỗi quẻ có thêm một hào.

  • NGÔ ĐỨC TIẾNPhan Đăng Dư, thân phụ nhà cách mạng Phan Đăng Lưu là người họ Mạc, gốc Hải Dương. Đời Mạc Mậu Giang, con vua Mạc Phúc Nguyên lánh nạn vào Tràng Thành (nay là Hoa Thành, Yên Thành, Nghệ An) sinh cơ lập nghiệp ở đó, Phan Đăng Dư là hậu duệ đời thứ 14.

  • HỒ THẾ HÀLTS: Văn học Việt về đề tài chiến tranh là chủ đề của cuộc Toạ đàm văn học do Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế tổ chức ngày 20 tháng 12 năm 2005. Tuy tự giới hạn ở tính chất và phạm vi hẹp, nhưng Toạ đàm đã thu hút đông đảo giới văn nghệ sĩ, nhà giáo, trí thức ở Huế tham gia, đặc biệt là những nhà văn từng mặc áo lính ở chiến trường. Gần 20 tham luận gửi đến và hơn 10 ý kiến thảo luận, phát biểu trực tiếp ở Toạ đàm đã làm cho không khí học thuật và những vấn đề thực tiễn của sáng tạo văn học về đề tài chiến tranh trở nên cấp thiết và có ý nghĩa. Sông Hương trân trọng giới thiệu bài Tổng lược và 02 bài Tham luận đã trình bày ở cuộc Toạ đàm.

  • TRẦN HUYỀN SÂM1. Tại diễn đàn Nobel năm 2005, Harold Pinter đã dành gần trọn bài viết của mình cho vấn đề chiến tranh. Ông cho rằng, nghĩa vụ hàng đầu của một nghệ sĩ chân chính là góp phần làm rõ sự thật về chiến tranh: “Cái nghĩa vụ công dân cốt yếu nhất mà tất cả chúng ta đều phải thi hành là... quyết tâm dũng mãnh để xác định cho được sự thật thực tại...

  • NGUYỄN HỒNG DŨNG"HỘI CHỨNG VIỆT NAM"Trong lịch sử chiến tranh Mỹ, thì chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến tranh mà người Mỹ bị sa lầy lâu nhất (1954-1975), và đã để lại những hậu quả nặng nề cho nước Mỹ. Hậu quả đó không chỉ là sự thất bại trong cuộc chiến, mà còn ở những di chứng kéo dài làm ảnh hưởng trầm trọng đến đời sống Mỹ, mà người Mỹ gọi đó là "Hội chứng Việt Nam".

  • BÍCH THUNăm 2005, GS. Phong Lê vinh dự nhận giải thưởng Nhà nước về Khoa học với cụm công trình: Văn học Việt Nam hiện đại - những chân dung tiêu biểu (Nxb ĐHQG, H, 2001, 540 trang); Một số gương mặt văn chương - học thuật Việt hiện đại (Nxb GD, H, 2001, 450 trang); Văn học Việt hiện đại - lịch sử và lý luận (Nxb KHXH. H, 2003, 780 trang). Đây là kết quả của một quá trình nghiên cứu khoa học say mê, tâm huyết và cũng đầy khổ công, vất vả của một người sống tận tụy với nghề.

  • THÁI DOÃN HIỂU Trong hôn nhân, đàn bà lấy chồng là để vào đời, còn đàn ông cưới vợ là để thoát ra khỏi cuộc đời. Hôn nhân tốt đẹp tạo nên hạnh phúc thiên đường, còn hôn nhân trắc trở, đổ vỡ, gia đình thành bãi chiến trường. Tình yêu chân chính thanh hóa những tâm hồn hư hỏng và tình yêu xấu làm hư hỏng những linh hồn trinh trắng.

  • NGUYỄN THỊ MỸ LỘCLà người biết yêu và có chút văn hóa không ai không biết Romeo and Juliet của Shakespeare, vở kịch được sáng tác cách ngày nay vừa tròn 410 năm (1595 - 2005). Ngót bốn thế kỷ nay Romeo and Juliet được coi là biểu tượng của tình yêu. Ý nghĩa xã hội của tác phẩm đã được thừa nhận, giá trị thẩm mĩ đã được khám phá, hiệu ứng bi kịch đã được nghiền ngẫm... Liệu còn có gì để khám phá?

  • NGUYỄN VĂN HẠNH1. Từ nhiều năm nay, và bây giờ cũng vậy, chúng ta chủ trương xây dựng một nền văn nghệ mới ngang tầm thời đại, xứng đáng với tài năng của dân tộc, của đất nước.

  • HỒ THẾ HÀ(Tham luận đọc tại Hội thảo Tạp chí văn nghệ 6 tỉnh Bắc miền Trung)