Năm mươi năm văn học xứ Huế, từ sau ngày đất nước thống nhất (1975 - 2025)

15:10 24/06/2025
PHẠM PHÚ PHONG

1. Hòa bình, thống nhất và kỷ nguyên sáng tạo

Lịch sử văn học thành văn của nước ta không mấy suôn sẻ. Tính từ sau Công nguyên, chúng ta đã mất đi một nghìn năm Bắc thuộc, không có văn học viết bằng văn tự. Một nghìn năm tiếp theo thì có đến chín trăm năm phải dùng văn tự nước ngoài - chữ Hán, hoặc sau đó các trí thức yêu nước có sáng tạo thêm chữ Nôm, một hình thức dùng chữ Hán để ký âm tiếng Việt, gọi là văn chương quốc âm - và chỉ vỏn vẹn một trăm năm tiếp theo chúng ta mới có văn chương Quốc ngữ. Bởi vậy, ý nghĩa lịch sử những năm vắt ngang giữa hai thế kỷ XX và XXI, là vô cùng quan trọng đối với tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội, trong đó có tiến trình văn học. Càng có ý nghĩa lớn lao hơn, vì đó còn là quãng thời gian đất nước vừa trải qua hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ, vừa hòa bình thống nhất chưa được bao lâu, lại phải đối đầu với hai cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc. Những gì chúng ta có được hôm nay, sau nửa thế kỷ nhìn lại, là sự nỗ lực của toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã đem lại sự an vui và phát triển cho đất nước, trong đó có đời sống xã hội và văn chương xứ Huế.

1.1. Đất nước thống nhất và công cuộc đổi mới

Hòa bình, thống nhất là khát vọng của cả dân tộc và chúng ta phải gánh chịu nhiều hy sinh mất mát mới giành được. Nhưng sau năm 1975 với bao ngổn ngang của thời hậu chiến, cùng với niềm vui hân hoan, đoàn tụ của cả hai miền Nam Bắc là những khó khăn về kinh tế bao cấp thời chiến tranh còn tồn đọng, những thiếu thốn trăm bề. Xứ Huế nói chung và văn chương xứ Huế nói riêng, cũng không là ngoại lệ. Cũng vẫn phát huy tinh thần yêu nước vốn có của con người ở vùng đất trầm tích nhiều vỉa tầng văn hóa, tiếp tục đưa con em ra chiến trường, tích cực tham gia khắc phục hậu quả chiến tranh, thực hiện công cuộc đổi mới, mà trong đó không thể thiếu vai trò của người cầm bút, lực lượng quan trọng trong việc xây dựng diện mạo đời sống tinh thần của một vùng đất.

Từ bức tranh hiện thực của đất nước đang quẩn quanh trước thực trạng bao cấp, với những thiếu thốn và đòi hỏi bức bách cần phải đổi thay để phát triển, người lãnh đạo cao nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam lúc bấy giờ là Tổng Bí thư Trường Chinh, đã có tầm nhìn chiến lược về quy luật vận động của lịch sử và nhận ra vấn đề cốt tử của vận mệnh đất nước, đề ra một quyết sách có ý nghĩa chiến lược Đổi mới là đòi hỏi bức thiết của đất nước và thời đại và chuyển giao cho người kế nhiệm chức vụ Tổng Bí thư là Nguyễn Văn Linh. Có thể nói, đó là một cuộc “cách mạng” làm thay đổi toàn bộ các lĩnh vực đời sống kinh tế - xã hội, mà trước hết là thay đổi cái nhìn, tầm nhìn làm lay chuyển tâm tư nguyện vọng của toàn dân. Trong đề án thiết kế của mình, về văn học, nghệ thuật Tổng Bí thư Trường Chinh còn nêu rõ: “Ngoài việc thể hiện những con người tốt, việc tốt thì cũng phải nêu lên, phải vẽ ra những con người xấu, việc xấu để mọi người khinh ghét, tránh xa những cái xấu, làm như vậy không phải là để lên án chế độ mà để chống lại những con người, những sự việc làm trái với lý tưởng cao đẹp của chủ nghĩa xã hội (...), cần chú ý xây dựng trong tác phẩm của mình những hình tượng chân thực, truyền cảm, có sức thuyết phục cao về những người lao động chân chính đang lao động chân tay và trí óc quên mình, dũng cảm vượt qua mọi thiếu thốn, khó khăn, vượt qua sự cám dỗ ma quỷ để xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đóng góp tích cực vào sự nghiệp đổi mới mà Đảng ta đã đề ra...”1. Đó là tiếng nói lương tâm của thời đại, là chân trời rộng mở, đánh thức cảm quan và tài năng sáng tạo cho văn nghệ sĩ cả nước, trong đó có xứ Huế vốn là nơi có truyền thống, là hằng số tự nhiên như thảm cỏ xanh ươm đầy nhựa sống sẵn dành cho văn chương nghệ thuật thăng hoa.

1.2. Đội ngũ sáng tạo - hòa chung một dòng

Có thể nói, chưa có thời điểm nào trong lịch sử văn chương xứ Huế, lại có một đội ngũ những người viết đông đảo như nửa thế kỷ qua, kể cả thời Huế còn là trung tâm của cả nước, với những thành tựu của văn chương chữ Hán, chữ Nôm và chứng kiến bước chuyển giao trong buổi giao thời của văn chương Quốc ngữ.

Nửa thế kỷ qua có đến mấy thế hệ cầm bút xuất hiện, gối đầu, đồng hành và tiếp tục bổ sung cho nhau. Thế hệ trước 1975, là những người viết đến từ nhiều nguồn, thậm chí có tính đa cực, nhưng khác với nhiều nơi ở các đô thị miền Nam, người viết văn ở Huế hội nhập, nhanh chóng hòa chung một dòng và cùng chung niềm mong ước: Xây dựng một nền văn học, văn hóa tinh thần giàu bản sắc dân tộc, đậm đà văn hóa Huế; cho dẫu ở thời điểm mười mấy năm đầu trong môi trường văn nghệ Bình Trị Thiên, hoặc sau này là văn nghệ Thừa Thiên Huế. Nguồn lực đông nhất là những người từ trên chiến khu và từ miền Bắc trở về, hoặc từ hai tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị nhập lại, như: Nguyễn Khoa Bội Lan, Thanh Hải, Xuân Hoàng, Lương An, Nguyễn Khoa Điềm, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Tô Nhuận Vỹ, Tống Hoàng Nguyên, Hải Bằng, Hoài Nguyên, Trần Phương Trà, Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn Khắc Phê, Nguyễn Quang Hà, Hà Khánh Linh, Trần Vàng Sao, Vĩnh Nguyên, Nguyễn Trọng Tạo, Trần Công Tấn, Thái Ngọc San, Võ Quê, Mai Văn Tấn, Hoàng Vũ Thuật, Lâm Thị Mỹ Dạ, Lê Thị Mây, Vũ Mạnh Lập, Xuân Đức, Hồng Thế, Lê Đình Ty... hội nhập cùng với các tác giả sáng tác trong Nội thành, như: Phan Văn Dật, Bửu Ý, Trần Duy Phiên, Trần Hữu Lục, Trần Hồng Quang, Tần Hoài Dạ Vũ, Huỳnh Ngọc Sơn, Lê Văn Ngăn, Ngụy Ngữ, Trần Phá Nhạc, Tiêu Dao Bảo Cự, Nguyễn Xuân Hoa, Trần Đại Vinh, Phan Thuận An, Lê Nhược Thủy, Nguyễn Đông Nhật, Lê Gành, Trần Đình Sơn Cước, Phạm Tấn Hầu, Văn Hữu Tứ, Trần Văn Hội, Kiều Trung Phương, Ngàn Thương, Nguyễn Thiền Nghi,... tạo nên một dòng chảy ào ạt, mênh mang theo bến bãi, bờ xa. Ngoài một số tác giả cũng sáng tác tại Nội thành, nhưng tự mình đã phân cực đối lập hoặc do hoàn cảnh cá nhân/gia đình đã bỏ đi nước ngoài, trong số phần lớn những tác giả ở lại, hầu hết đều là người từng tham gia phong trào đấu tranh đô thị, nên hầu như không có sự chững lại, mà nhanh chóng tiếp tục bắt nhịp với dòng chảy văn chương thời kỳ hòa bình, thống nhất của cả dân tộc.

Thế hệ người viết trưởng thành từ sau năm 1975 như: Nhất Lâm, Lê Gia Ninh, Nguyễn Văn Vũ, Phạm Phú Phong, Nguyễn Quang Lập, Mai Văn Hoan, Ngô Minh, Hải Kỳ, Nguyễn Thị Bích Hải, Trần Hoàng, Dương Thành Vũ, Nguyễn Văn Phương, Nguyễn Hới Thọ, Hồ Thế Hà, Phạm Xuân Phụng, Lê Viết Xuân, Trần Tịnh Yên, Lê Ngã Lễ, Nguyễn Việt, Phạm Ngọc Túy, Trần Hạ Tháp, Tô Vĩnh Hà, Nguyễn Nguyên An, Nguyễn Đức Sĩ Tiến, Văn Công Toàn, Nguyễn Đức Sơn, Tôn Nữ Ngọc Hoa, Lê Thị Hoài Nam, Đỗ Văn Khoái, Lê Thị Hường, Dương Phước Thu, Nguyễn Loan, Hà Văn Lưỡng, Thúy Nga, Nguyên Quân, Việt Hùng, Ngô Cang, Nguyễn Tuất, Lê Viết Tường, Nguyễn Thị Thái,... Sự kiện chia tách và tái lập tỉnh Thừa Thiên Huế vào năm 1989, cũng gây ít nhiều xáo trộn về đội ngũ. Những người quê gốc ở hai tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị trở về quê để xây dựng quê hương. Một số người tình nguyện ở lại, nhận Huế là quê hương thứ hai, trong đó có cả nhiều người ở các tỉnh khác ven biển miền Trung. Ngược lại, thời gian này cũng có nhiều tác giả từ Huế, do hoàn cảnh công tác/đời sống, đã lan tỏa đến nhiều vùng đất khác nhau và tiếp tục có những đóng góp quan trọng cho đời sống văn học cả nước như: Tố Hữu, Phùng Quán, Trần Phương Trà, Nguyễn Thị Ngọc Trai, Trần Thanh Đạm, Thái Vũ, Lê Trọng Sâm, Trần Duy Phiên, Trần Hữu Lục, Lê Văn Ngăn, Lê Gành, Tiêu Dao Bảo Cự, Lê Nhược Thủy, Trần Văn Hội, Trần Chi...

Một thế hệ đông đảo và sung sức, là sản phẩm của công cuộc đổi mới, đang dần trở thành chủ nhân của đời sống văn học thế kỷ XXI. Họ là những người được đào tạo tử tế, đến với văn học không phải do sự thúc bách của đời sống mà do ý thức từ trong sâu thẳm của tâm hồn, ý thức trong việc chọn đường và có thể hành nghiệp lâu dài đối với văn chương. Đó là các tác giả Lê Công Doanh, Trần Bá Đại Dương, Phạm Nguyên Tường, Nguyễn Thành, Nguyên Du, Thái Cẩm Thủy, Hà Ngọc Hòa, Nguyễn Khoa Diệu Hà, Tôn Nữ Diệu Hạnh, Nguyễn Duy Tờ, Hồ Đăng Thanh Ngọc, Nguyễn Văn Quang, Đặng Thị Ngọc Phượng, Bạch Lê Quang, Nguyễn Phước Hải Trung, Phạm Thị Cúc, Nguyễn Thị Duyên Sanh, Từ Nguyễn, Hoàng Thu Thủy, Hoàng Thị Huế, Trần Huyền Sâm, Phi Tân, Nguyễn Lãm Thắng, Lê Vĩnh Thái, Lê Tấn Quỳnh, Nguyễn Văn Thuấn, Nguyễn Thống Nhất, Châu Thu Hà, Đông Hà, Lưu Ly, Trang Thùy, Nhụy Nguyên, Ngô Công Tấn, Lê Minh Phong, Nguyễn Văn Hùng, Phan Tuấn Anh, Đặng Văn Sử, Lê Vũ Trường Giang, Nguyễn Vũ Tuấn, Trần Băng Khuê, Phan Trọng Hoàng Linh, Meggie Phạm, Nguyễn Thùy Trang, Hồ Tiểu Ngọc, Triệu Nguyên Phong, Trường Thắng, Lãng Hiển Xuân,...

Theo thống kê chưa đầy đủ của chúng tôi, có đến hàng trăm tác giả đang sinh sống bằng nhiều ngành nghề khác nhau, và đang rong ruổi trên con đường sáng tạo văn học. Họ vừa lao động kiếm sống vừa miệt mài sáng tạo, ngày càng bồi đắp cho nền văn chương xứ sở, để không phụ lòng thế hệ những người đi trước và không thua kém bất kỳ vùng đất nào trên cả nước, kể cả hai trung tâm lớn là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Thành tựu về nhiều thể loại

Có thể nhận ra, cảm hứng chủ đạo của văn học xứ Huế nửa thế kỷ qua là bài ca hân hoan chào đón sự kiện thống nhất non sông, những hồi ức đau thương về chiến tranh, những ngợi ca công cuộc xây dựng đời sống trong tiến trình đổi mới. Điều đó không chỉ là nội dung mỹ cảm có ý nghĩa tập trung, mà còn hướng đến những khám phá mới về hình thức, tuân thủ những quy luật sáng tạo mới, đem lại những thành tựu có ý nghĩa căn cốt trên các lĩnh vực chủ yếu của lãnh địa văn chương như thơ, văn xuôi và nghiên cứu, lý luận, phê bình.

2.1. Thơ

Chắc là khi phát hiện ra đẳng thức Huế, đẹp và thơ (1939) từ những năm khởi đầu của văn chương Quốc ngữ, Nam Trân không căn cứ trên số lượng đội ngũ những người làm thơ ở Huế thuở ấy, mà căn cứ trên những rung động từ trong sâu thẳm của tâm hồn trước cảnh vật và con người, núi sông và cây cỏ... những tác động không ngừng của vùng sinh quyển đậm đặc chất liệu mỹ cảm, mà tự nó như nó vốn có, tự nhiên đã là nghệ thuật. Nhưng nếu tính về số lượng, vào thời điểm đó, Huế cũng áp đảo. Chỉ tính riêng trong số 46 tác giả được Hoài Thanh “bầu” vào Thi nhân Việt Nam (1942) đã có 18 tác giả trưởng thành từ Huế, lúc ấy đang sống và sáng tác tại Huế (trong đó có 7 người sinh ra và lớn lên ở Huế). Vậy là, Nam Trân đã đúng khi khẳng định nơi đây là vùng sinh quyển của mỹ cảm, của cái đẹp, cái dành cho nghệ thuật thơ.

Mỗi nhà thơ ở xứ thơ đều là chủ nhân của một gia sản giàu có, khó mà thống kê cho thật đầy đủ. Trong sự am hiểu có giới hạn của mình, mỗi tác giả chúng tôi chỉ nêu vài ba tác phẩm tiêu biểu được sáng tác trong năm mươi năm qua, như sau: Nguyễn Khoa Điềm với Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (1986), Cõi lặng (2007); Vĩnh Nguyên với Mây đá nhớ nhau (1989), Chòi ngắm sóng (2004); Võ Quê với Mười thương em bé (1993), Một thuở xuống đường (2001); Lâm Thị Mỹ Dạ với Bài thơ không năm tháng (1983), Đề tặng một giấc mơ (1998), Hồn đầy hoa cúc dại (2007); Ngô Minh với Chân dung tự họa (1989), Chân sóng (1995), Thơ tặng (2007); Nguyễn Thiền Nghi với Thuở biết yêu người (1994), Giấc mơ chữ (2010); Ngàn Thương với Nến chiều (2002), Giấc khuya (2013); Lê Ngã Lễ với Chiêm bao (1998), Lục bát bồng bềnh (2003); Triệu Nguyên Phong với Say nắng (2004), Rơm rạ chiều quê (2011); Trần Tịnh Yên với Nẻo quyên ca (2000), Gai sen (2014); Nguyễn Khắc Thạch với Dòng sông một bờ (1989), Mưa hai mặt (2002); Mai Văn Hoan với Ảo ảnh (1988), Lục bát thơ (2006); Đức Sơn với Dấu lạ (2005); Văn Công Toàn với Khúc ru tình (2014); Huỳnh Dung với Dấu yêu tình đầu (2021), Chợt tỉnh mơ hoa (2023); Lê Viết Xuân với Thơ viết cho em (1988), Gió kể (2014); Từ Nguyễn với Như một nỗi đời riêng (2009), Nhặt lá mùa xưa (2011); Nguyễn Duy Tờ với Huế mùa đông 1999 (trường ca, 2019), Đất thiêng (trường ca, 2023); Nguyễn Văn Quang với Vay mượn trần gian (2005), Trở dạ (2014); Bạch Diệp với Vũ điệu lam (2011), Mùa Bạch Diệp (2020); Phạm Nguyên Tường với Hoa cúc mùa thu (1994), Quang gánh và những bài thơ khác (2006); Nguyễn Lãm Thắng với Điệp ngữ tình (2007), Đầu non cuối bãi (2014); Lê Vĩnh Thái với Ký ức xanh (2004), Ngày không nhớ (2010); Lê Tấn Quỳnh với Linh ngọc (1998), Những giỏ hoa của thời gian (2014); Đông Hà với Người đàn bà che mặt (2010), Đi ngược đám đông (2014); Châu Thu Hà với Khúc đêm (2002); Nhận mặt thời gian (2023); Lưu Ly với Gọi em ở cuối thiên đường (2007); Ngô Công Tấn với Vòng tay mưa (2013)...

Cũng từ góc độ số lượng, thời kỳ này những nhà thơ ở Huế không những đông, số lượng tác phẩm được ấn hành khá nhiều, mà còn có cả những cây bút văn xuôi có tham gia làm thơ và loại thể nào cũng hay, không thua kém gì nhau. Các cây bút văn xuôi như Hồng Nhu có các tập thơ Ngẫu hứng về chiều (1988), Nước mắt đàn ông (1992), Chiếc tàu cau (1995), Rêu đá (1998); Hoàng Phủ Ngọc Tường có Dấu chân qua thành phố (1976), Người hái phù dung (1992); Nguyễn Quang Hà có Nghe tiếng gà trên điểm chốt (1976), Gửi em cô gái đỏng đảnh (2019); Hà Khánh Linh có Trăng cứu rỗi (1995), Những bọt bóng màu (1998); Nhất Lâm có Vú đá (2009); Nguyễn Nguyên An có Cơn mê của gió (2011); Phạm Xuân Phụng có Nỗi buồn của Chúa (2010); Nguyên Quân có Nhảy múa cùng smartphone (2021); Nguyễn Quang Lập có Kỷ niệm thời trai trẻ (1988); Hồ Đăng Thanh Ngọc có Đi qua cánh rừng (2009), Chiếc ô đi lẻ (2013); Nhụy Nguyên có Lập thiền (2011), Khi người ta cúi mặt (2016)... Chưa kể các nhà nghiên cứu lý luận, phê bình cũng có những tập thơ hay, đạt các giải thưởng cao như: Nguyễn Xuân Hoa, Hồ Thế Hà, Nguyễn Phước Hải Trung, Phan Tuấn Anh.

Nhìn chung, những tác giả tiêu biểu cho giọng điệu thơ Huế, được bạn đọc quan tâm và đạt các giải thưởng cao ở Trung ương và địa phương trong thời gian qua là Nguyễn Khoa Điềm, Hồng Nhu, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Khắc Thạch, Lâm Thị Mỹ Dạ, Ngô Minh và nhiều người khác nữa. Trong thơ của những tác giả này không chỉ thể hiện tâm thức của con người xứ Huế với nhiều vỉa tầng văn hóa, những nội dung mỹ cảm của sông núi, cỏ cây, hoa lá, mà còn hướng đến những vấn đề mà cả nước quan tâm, trong xu thế đổi mới và hội nhập với thế giới, trong vòng khí quyển của hòa bình, độc lập, thống nhất, với tư thế: “Ta lớn lên bằng niềm tin rất thật/ Biết bao nhiêu hạnh phúc có trên đời” (Nguyễn Khoa Điềm). Thơ Huế bây giờ không chỉ thể hiện sự vận động của lý tưởng thẩm mỹ, mà còn đổi mới một cách triệt để về thi pháp biểu hiện.

2.2. Văn xuôi

Đối với văn chương tưởng tượng, nói đến văn xuôi là chủ yếu gồm ba thể văn chủ lực của văn học hiện đại là tiểu thuyết, truyện ngắn và các tiểu loại ký. Về đặc trưng thể loại, các thể văn này có mối quan hệ gần gũi, có sự giao thoa, tích hợp và xuyên thấm lẫn nhau, cũng có người thành công với nhiều thể văn, nhưng cũng tùy thuộc vào “cái tạng” của mỗi người, trong từng thời kỳ sáng tạo có thể có những thành công khác nhau. Ví như, đối với nhà viết ký tài hoa Hoàng Phủ Ngọc Tường, cho dù có khi ông viết truyện dài như Bản di chúc của cỏ lau (1986) nhưng vẫn phảng phất “mùi” bút ký. Với cây bút truyện ngắn xuất sắc Hồng Nhu, thì các truyện dài Vẫn chuyện phiêu lưu (1985), Đồi trở gió (2008) cũng chỉ là những truyện ngắn viết dài. Ngược lại, cây bút nữ mang đậm tâm thức xứ Huế như Trần Thùy Mai, đã định hình khi gặt hái nhiều thành công với thể loại truyện ngắn từng được bạn đọc chú ý lâu nay, mấy năm gần đây lại nổi bật với tiểu thuyết dài tập, khi chị cho công bố các tiểu thuyết lịch sử Từ Dụ Thái hậu (2 tập, 2018), Công chúa Đồng Xuân (2 tập, 2023).

Các tác giả tiểu thuyết có nhiều thành công tiêu biểu như Nguyễn Khắc Phê với Chỗ đứng người kỹ sư (1980), Biết đâu địa ngục thiên đường (2010); Tô Nhuận Vỹ với Dòng sông phẳng lặng (3 tập, 1973 - 1984), Vùng sâu (2012); Nguyễn Quang Hà với Thời tôi mặc áo lính (1990), Vùng lõm (2008); Hà Khánh Linh với Chiến tranh và sau chiến tranh (1989), Lửa kinh đô (2010); Dương Thành Vũ với Nguyệt thực (1999); Phạm Ngọc Túy với Bình minh ơi trở lại (2008); Nguyễn Nguyên An với Trường Đại học của tôi (2007), Bầu trời cổ tích (2010); Nguyễn Việt với Đằng sau hồ sơ chết (1987), Người lính đào hoa (2000); Tô Vĩnh Hà với Tro và lửa lạnh (1998), Em biết anh là ai (2001); Meggie Phạm với Hoàng tử và em (2010), Tôi và em (2013)... Ở thể loại này, những người có đóng góp sung sức nhất là Hà Khánh Linh với 21 tác phẩm, Nguyễn Quang Hà với 17 tác phẩm, Nguyễn Khắc Phê với 10 tác phẩm và cây bút trẻ Meggie Phạm với 5 tác phẩm. Các tác giả truyện ngắn tiêu biểu như Hồng Nhu với Thuyền đi trong mưa ngâu (1995), Lễ hội ăn mày (2001); Phạm Xuân Phụng với Câu chuyện bên hồ (1997), Nghệ thuật lửa (2000); Nguyễn Thị Duyên Sanh với Nơi ấy sẽ là nhà (2019), Vẫn còn nắng trên đồi (2022); Việt Hùng với Cô gái hoàng hôn (1997), Sứ giả (2010); Bạch Lê Quang với Thõng tay vào chợ (2010); Lê Minh Phong với Chưa đủ để gọi là khoảnh khắc (2011), Trong tiếng reo của lửa (2014); Lê Vũ Trường Giang với Ngủ giữa trùng sơn (2013), Bạc màu áo ngự (2023)... Ở các tiểu loại ký, nổi bật là Hoàng Phủ Ngọc Tường với Rất nhiều ánh lửa (1979), Ai đã đặt tên cho dòng sông (1986); Nguyễn Văn Dũng với Linh Sơn mây trắng (2006), Lời tự tình của một dòng sông (2013); Hồ Đăng Thanh Ngọc với Chuyện Huế (2008), Đôi triêng gióng của mạ (2011); Nguyễn Xuân Hoàng với Ký ức quỳnh hương (2007), Cõi tạm phù hoa (2011); Nguyên Du với Nhất Huế nhì Sịa (2020), Sông Hương đôi bờ thương nhớ (2021); Phi Tân với Về Huế ăn cơm (2021), Bên sông Ô Lâu (2022)...

Đặc biệt, xứ Huế có nhiều tác giả đa tài, thành công với nhiều thể loại, như Hồng Nhu, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Quang Hà, Vĩnh Nguyên, Nhất Lâm, Hà Khánh Linh, Ngô Minh, Nguyên Quân, Phạm Nguyên Tường...

2.3. Nghiên cứu, lý luận, phê bình

Cứ nhìn vào bảng lược đồ văn học cả nước, trong năm mươi năm qua, sau Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, thì Huế vẫn là một trong ba trung tâm văn chương của cả nước. Bởi, Huế là trung tâm đào tạo đại học có truyền thống lâu đời, có các tạp chí nghiên cứu chuyên sâu như: Huế xưa và nay, Nghiên cứu Huế, Khoa học và phát triển, và nhất là Tạp chí Sông Hương - cơ quan ngôn luận của Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế, ra đời trước thềm của công cuộc đổi mới (1983).

Có đến mấy thế hệ những người viết nghiên cứu, lý luận, phê bình hành nghiệp trên đất Huế mấy mươi năm qua. Đó là lực lượng tại chỗ từng có những đóng góp nghiên cứu, dịch thuật trong Nội thành trước năm 1975, trong đó có cả những người hoạt động trong phong trào yêu nước đô thị như: Bửu Ý,... lại được bổ sung bởi đội ngũ các tác giả từ miền Bắc và trên chiến khu trở về như: Lương An, Nguyễn Văn Hạnh, Phạm Văn Sĩ, Phan Ngọc Thu, Trường Ký, Lê Xuân Việt, Tạ Đình Nam, Khải Phong... Ở thời kỳ mở đầu sau ngày đất nước thống nhất, cuộc sống còn bao cấp, giấy in cũng khan hiếm, hoạt động nghiên cứu, lý luận, phê bình chưa có gì nổi bật, chỉ có mấy công trình tác phẩm, những bài phê bình, điểm sách in trên các báo của Lê Xuân Việt là đáng chú ý.

Lực lượng nghiên cứu, lý luận, phê bình nhanh chóng phát triển trong đội ngũ giảng viên ở hai Trường Đại học Sư phạm và Đại học Tổng hợp (nay là Đại học Khoa học), nhằm nâng cao trình độ của những thầy cô giáo thành các nhà khoa học, thông qua hoạt động nghiên cứu, lý luận, phê bình. Về tuổi tác có thể chênh nhau dăm ba tuổi, nhưng họ xuất hiện gần như cùng lúc, tự đào tạo/ hoàn thiện trở thành những cây bút chủ lực trong hoạt động học thuật với nhiều hình thức tọa đàm, hội nghị, hội thảo, in ấn và công bố công trình, tác phẩm đầy sôi động gần nửa thế kỷ qua: Phan Hứa Thụy, Triều Nguyên, Nguyễn Thị Bích Hải, Trần Hoàng, Trần Thái Học, Lê Thị Bích Lộc, Phạm Phú Phong, Hồ Thế Hà, Nguyễn Thành, Lê Thị Hường, Dương Phước Thu, Phan Thị Đào, Hà Văn Lưỡng, Đặng Thị Ngọc Phượng... Những người viết khỏe như Hồ Thế Hà, Phạm Phú Phong, Dương Phước Thu, Trần Hoàng, đã là chủ nhân của vài chục đầu sách, tuân thủ theo một hệ thống quan niệm và phong cách riêng, khẳng định tư cách chuyên gia về một số lĩnh vực nhất định. Hồ Thế Hà vận dụng phân tâm học vào nghiên cứu, phê bình thơ Việt Nam hiện đại; Phạm Phú Phong vận dụng thi pháp học hiện đại vào giải mã văn xuôi và tiến trình văn học; Dương Phước Thu vận dụng văn bản học vào nghiên cứu báo chí, văn hóa Huế; Trần Hoàng thành công với công việc sưu tầm, nghiên cứu văn học dân gian miền Trung... Bên cạnh đó, còn phải kể đến các nhà sáng tác có tham gia vào lĩnh vực nghiên cứu, phê bình và đã đem lại những thành công đáng ghi nhận như: Nguyễn Khắc Phê, Mai Văn Hoan, Meggie Phạm, Lưu Ly.

Đặc biệt, từ sau đổi mới (1986) đến những năm đầu của thế kỷ XXI, đã xuất hiện các nhà nghiên cứu, lý luận, phê bình văn học trẻ, một thế hệ mới với phương pháp và góc nhìn, giọng điệu và cảm thức đều mới mẻ - thế hệ những người được đào tạo bài bản, có khả năng làm thay đổi diện mạo tương lai văn học của xứ sở và đất nước: Trần Huyền Sâm, Hoàng Thị Huế, Nguyễn Văn Thuấn, Thái Phan Vàng Anh, Nguyễn Văn Hùng, Phan Tuấn Anh, Thanh Tâm Nguyễn, Phan Trọng Hoàng Linh... Cùng với các nhà sáng tác trẻ, lớp người này mang lại những tín hiệu mới và kỳ vọng cho người đọc trong tương lai.

3. Những tín hiệu mới với nhiều kỳ vọng

Nghệ thuật và đổi mới có cùng một bản thể không chia cắt. Từ trong bản thể của nghệ thuật luôn thể hiện quy luật không lặp lại. Đành là vậy, nhưng nhìn chung không chỉ có nghệ thuật, mà sự sáng tạo nào cũng là sáng tạo cái mới. Nhưng ở đây, những tín hiệu mới đáng để người ta kỳ vọng, là những nhân tố mới mang bản lĩnh văn hóa triệt để một cách toàn diện, đáp ứng sự mong đợi và kỳ vọng của mọi người trong tiến trình vận động của đời sống xã hội và lịch sử nghệ thuật. Khác với các lĩnh vực khác, lịch sử là cái đã qua/thuộc về quá khứ, còn đối với nghệ thuật, lịch sử là cái còn lại/thuộc về hiện tại và tương lai.

3.1. Tín hiệu mới từ phía người sáng tạo

Không khí đổi mới đã mở ra cả một chân trời cao rộng cho sáng tạo nghệ thuật. Đổi mới cũng bắt đầu từ những con người cũ. Thật khó mà vượt qua những thói quen cũ, trong cách nghĩ, cách làm với cái nhìn và cảm quan đã từng ăn sâu trong tâm thức, nên không thiếu những lực cản, những lúng túng, bùng nhùng đôi khi khó gỡ. Nhưng đối với thế hệ trẻ, đổi mới vẫn nguyên vẹn giá trị và không thể đảo ngược. Họ được tiếp thu một cách cẩn trọng và có chọn lọc các trào lưu mới một cách chính đáng, từ việc nhận thức đúng bản chất của các trào lưu hiện đại, tiếp thu chủ nghĩa hậu hiện đại, tân hình thức, liên văn bản, liên văn hóa, nữ quyền luận, phê bình sinh thái... Cái mới đến với người trẻ là trinh nguyên, tươi mới và nguyên vẹn, được tiếp thu bởi những cảm quan không vướng phải những bụi bặm của cuộc đời, lại phù hợp với giọng điệu mới mẻ của người mới bước chân vào con đường hành nghiệp. Sinh thời, cố họa sĩ Bửu Chỉ có câu nói lặp đi lặp lại cửa miệng như một tuyên ngôn nghệ thuật rằng: “Bằng chính tôi, tôi đến với cuộc đời!” Câu này, xem ra rất phù hợp với những người sáng tạo trẻ hôm nay.

Chỉ riêng với lĩnh vực văn chương nghệ thuật, một lĩnh vực mà tự thân nó đã luôn phải mới, thì dường như về mặt chủ thể, khi đề ra đổi mới là nhằm hướng đến những con người cũ, đòi hỏi họ phải nghĩ khác, xoay nhìn theo hướng khác, đi theo con đường khác, nói bằng một giọng điệu khác... Còn đối với thế hệ trẻ, những người trưởng thành trong vòng sinh quyển của công cuộc đổi mới, từ hơi thở đến giọng điệu tâm hồn đều thấm đẫm cái mới, là sản phẩm của thời đại, họ đích thị là nhân tố mới của thời đại hôm nay.

Điều đáng mừng là những tín hiệu mới, đến từ cả những người sáng tác lẫn nghiên cứu, lý luận, phê bình. Ở phía những người sáng tác, nổi lên những gương mặt trẻ như: Nhụy Nguyên, Lê Minh Phong, Lê Vũ Trường Giang, Trần Băng Khuê, Nguyễn Vũ Tuấn, trong đó có cả những người tuổi đời không còn trẻ, nhưng chỉ mới chạm tay vào cánh cửa văn chương là trở thành nhà văn như: Nguyễn Thị Duyên Sanh, Nguyên Du, Nguyễn Khoa Diệu Hà, Phi Tân. Ở phía những người nghiên cứu, phê bình đội ngũ đông hơn, nhờ có môi trường học thuật của xứ Huế, như câu nói đã quá cũ, rằng: “Lý luận có khi đi trước một bước”, nhưng lại đúng trong trường hợp này. Đó là các tác giả như: Trần Huyền Sâm, Nguyễn Văn Thuấn, Thái Phan Vàng Anh, Nguyễn Văn Hùng, Thanh Tâm Nguyễn... Cá biệt, có những người nổi bật cả sáng tác lẫn nghiên cứu, phê bình như Phan Tuấn Anh, tác giả của các tập thơ Người ngủ muộn, Đoản khúc và các công trình Gabriel Garcia Márquez và nỗi cô đơn huyền thoại, Văn học Việt Nam đổi mới - từ những điểm nhìn tham chiếuNhững khu vực văn học ngoại biên; hoặc trường hợp Meggie Phạm, tác giả của bộ truyện dài liên hoàn 5 tập Hoàng tử và em, Giám đốc và em, Chàng và em, Người xa lạ và em, Tôi và em, đã được tái bản nhiều lần và công trình nghiên cứu về văn học đô thị miền Nam Chút nắng phương Nam (in chung). Cần phải nói thêm, cũng có một vài cây bút, mới xuất hiện chưa được bao lâu đã báo hiệu về bản lĩnh và tài năng, như những cơn mưa đầu mùa có tia chớp, tiếc rằng đã sớm vội đi xa, như trường hợp Lê Viết Tường, hoặc Nguyễn Xuân Hoàng.

Mỗi người chỉ sống và làm việc trong một thời đại nhất định. Nhà văn là người phát ngôn cho thời đại của mình. Không ai có khả năng nói thay cho tất cả mọi thời. Vì vậy, điều quan trọng không chỉ là ở con người/nhân vật, ở cách nhìn và cảm quan nằm sâu trong tâm thức sáng tạo, mà còn ở giọng điệu tâm hồn, được biểu hiện thành sức mạnh của ngôn từ có thể làm lung lay tâm tưởng của nhiều thế hệ người đọc, soi chiếu nguồn sáng văn hóa nhân văn lên bức tường vách của thời gian, đang cần có sự đổi thay một cách bức thiết và triệt để, và dường như, cũng đang thao thiết gọi mời tiếng nói của tri âm. Những tín hiệu mới được phát ra, có sức vẫy gọi mạnh mẽ đối với mọi người, cũng là sức sống lâu bền trong tâm tưởng của người đọc văn chương. Nhìn từ phía khác, những tín hiệu mới không chỉ phát ra từ chân trời rộng rinh của sáng tạo, mà còn tạo ra từ môi sinh cuồn cuộn chảy một cách có ý thức của người thưởng thức nghệ thuật, là sự tự giác đòi hỏi riết róng về những kỳ vọng mới của chính họ, trước một thiết chế xã hội mới, trong thời đại mới - một thế giới phẳng có ý nghĩa toàn cầu.

3.2. Kỳ vọng của người đọc

Nửa thế kỷ văn học hòa bình, thống nhất cũng là thời gian vắt ngang cân đối giữa hai thế kỷ XX và XXI. Đó cũng là thời gian mà cả thế giới đã trải qua những biến động dữ dội chưa từng có, có sự chia phe, phân luồng, phân cực một cách phức tạp, với bao cuộc đối thoại, đối đầu, thậm chí có cả những cuộc chiến tranh đẫm máu giữa các láng giềng. Tình hình đó chi phối mạnh mẽ đến tâm thức sáng tạo của nhà văn. Hơn ai hết, nhà văn là người nhạy bén với cái mới, phải có một phép ứng xử văn hóa nhằm đánh thức thiện lương con người, đưa con người trở lại với bản chất văn hóa nhân văn vốn có của nó.

Huế hôm nay, trong thời điểm nhìn lại năm mươi năm đất nước thống nhất, Huế thành phố trực thuộc Trung ương, tình hình đó đặt ra bao nhiêu vấn đề về kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng, an sinh xã hội, môi trường sinh thái, hệ hình văn hóa... Ngay cả những thiết chế xã hội liên quan đến văn hóa, nghệ thuật cũng buộc phải có những đổi thay, nhằm bảo lưu và làm giàu có thêm đời sống văn hóa - nghệ thuật ở một vùng đất có bề dày truyền thống lâu đời. Người viết văn không thể không quan tâm đến những đòi hỏi và kỳ vọng của người đọc trước tình hình mới. Ví như, khi chạm đến những yêu cầu theo tiêu chí đạt chuẩn về các lĩnh vực dân số, diện tích, y tế, giáo dục, văn hóa, môi trường, đô thị hóa, cơ sở hạ tầng, thu nhập bình quân đầu người, mức tăng trưởng, xây dựng Nông thôn mới... không phải là những con chữ lạnh lùng, như đàn kiến bò qua dưới con mắt vô cảm, lạnh lùng của người sáng tạo, mà tự nó đã tượng hình thành những hình tượng/sinh thể nghệ thuật, không chỉ ghi dấu một thời điểm quan trọng trong lịch sử thành phố mà còn có sức sống lâu bền trong tâm tưởng nhiều thế hệ người đọc trong tương lai. Hình tượng là bản chất trừu tượng của sự vật, hiện tượng. Hình tượng văn học sáng lấp lánh từ ngôn từ. Ngôn từ sinh ra từ con chữ. Chữ chỉ là cái vỏ ngữ âm vật chất của ngôn từ. Nhưng chữ có hồn của chữ. Chữ qua tay người cầm bút hoặc gõ trên bàn phím, chữ đều mang hơi ấm, khí chất từ tâm hồn người sản sinh ra nó. Huế là vùng đất đậm đặc tài hoa thẩm mỹ. Người viết ở xứ Huế giàu có về sự tinh tế và sức mạnh về ngôn từ, trong những thời điểm lịch sử sang trang mới như hiện nay, người đọc có quyền kỳ vọng vào lực lượng cầm bút đông đảo nơi đây, nhất là những người viết trẻ. Họ chính là những người gánh trên vai trọng trách thực hiện những gì mà thế hệ đi trước chưa làm được hoặc không làm được. Có thể tiên cảm được về hình tượng một xứ Huế đẹp lung linh, rực rỡ sẽ hiện ra qua bức màn nhung thắm đỏ của tâm hồn những người viết trẻ.

Văn chương xứ Huế đã chung kết năm mươi năm với bài ca thống nhất, để bước sang một giai đoạn/ thời kỳ mới, trước một vận hội mới của một thành phố Huế trực thuộc Trung ương không ít khó khăn nhưng rực rỡ sắc màu. Mọi kỳ tích/sắc diện thẩm mỹ và những quầng sáng tương lai đang lấp lánh cuối chân trời, có sức vẫy gọi âm vang trước tầm đón đợi của mọi người. Trong bao la vô cùng tận, từng đợt sóng ngôn từ sẽ dựng cao những hình tượng kỳ vỹ cho một thời đại mới, thỏa bao nỗi khát khao, ước muốn, mong chờ.

P.P.P
(TCSH436/06-2025)

--------------
1 Trường Chinh (1987), Đổi mới là đòi hỏi bức thiết của đất nước và thời đại, Nxb. Sự thật, tr.66.

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Tin nổi bật
  • NGÔ TỰ LẬP(Tiếp theo TCSH số 127/9-99)

  • NGÔ TỰ LẬP1.Platon nói rằng không thể có sự bình đẳng của những kẻ vốn không bình đẳng về mặt năng lực tự nhiên. Đó là xã hội người, nhưng chúng ta cũng có thể nói tương tự như vậy về xã hội từ ngữ.

  • ĐÀO DUY HIỆP    “Hội làng mở giữa mùa thu     Giời cao gió cả giăng như ban ngày”                                            (Nguyễn Bính)

  • YURI BONDAREVTên tuổi của nhà văn Nga Yuri Bônđarép rất gần gũi với bạn đọc Việt Nam qua những tác phẩm nỗi tiếng của ông đã được dịch ở ta vào thập kỷ 80 như: "Các tiểu đoàn xin chi viện", "Tuyết bỏng", "Bến bờ", "Lựa chọn", "Trò chơi"... Là một trong những nhà văn Xô Viết hàng đầu miêu tả hùng hồn và chân thực chủ nghĩa anh hùng cách mạng của quân và dân Liên Xô trong cuộc chiến tranh vệ quốc thần thánh chống phát xít Đức 1941- 1945, Bônđarép đã được phong Anh hùng lao động xã hội chủ nghĩa, được tặng giải thưởng Lênin, các giải thưởng Quốc gia, giải thưởng Lép Tônxtôi và M.Sôlôkhốp, giải thưởng toàn Nga "Xtalingrát"...

  • TRẦN ĐÌNH SỬVăn học Trung Quốc trong cơ chế thị trường đã có những biến đổi khá lớn. Theo các tác giả của sách Văn học Trung Quốc thế kỷ XX xuất bản tại Quảng Châu năm 1988 có thể nắm được một đôi nét diện mạo, chứng tỏ văn học Trung Quốc không còn có thể tồn tại theo phương thức cũ. Cơ chế thị trường đã làm cho nhà văn và nhà phê bình phải suy tính lại về sách lược sinh tồn và phương hướng phát triển nghề nghiệp.

  • ĐOÀN TUẤNThạch Lam qua đời cách đây đã hơn nửa thế kỉ. Ông để lại cho chúng ta một khối lượng tác phẩm không lớn nhưng chúng đã trở thành một mẫu số vĩnh hằng trong văn học Việt Nam. Tiếc rằng chúng ta đã không thể lưu giữ một bức chân dung nào của Thạch Lam. Thậm chí mộ ông được chôn cất nơi nào, cũng không ai biết.

  • NHẬT CHUNG       (Đọc bài thơ XÓM LỤT của anh Phạm Xuân Phụng)Anh Phụng là bác sĩ ở Bệnh viện Trung ương Huế. Tôi tìm hết trong tuyển tập HAI THẬP KỶ THƠ HUẾ, chỉ duy nhất bài thơ này viết về cảnh lụt lội hàng năm vẫn xảy ra ở mảnh đất nghèo khó. Trong những ngày đau buồn, khi nước vừa rút, trắng bợt trước mắt tôi những bài thơ tình èo uột nỉ non ẻo lả, và đứng dậy trước mắt tôi một bài thơ XÓM LỤT.

  • PHONG  LÊBến không chồng - Giải thưởng Hội Nhà văn năm 1991 đưa nhanh Dương Hướng lên một vị trí cao trong thành tựu văn học Đổi mới. Không thuộc đội ngũ “tiền trạm” xuất hiện từ đầu những năm 80 như Ma Văn Kháng, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Mạnh Tuấn (sinh năm 1948) - người cùng thế hệ với anh (sinh 1949), đến tuổi 40 mới bắt đầu trình làng với tập truyện ngắn Gót son (1989), thế mà chỉ 2 năm sau, Dương Hướng bỗng trở thành một “tên tuổi” với Bến không chồng, góp mặt cùng Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh làm nên một bộ ba sáng giá trong văn học mở đầu thập niên 90, năm năm sau khởi động của công cuộc Đổi mới.

  • HÀ QUANG MINHLTS: Liệu có phải văn hóa chỉ đơn thuần là văn hóa hay nói cách khác là chỉ chứa đựng các yếu tố văn hóa không? Câu trả lời chắc chắn là không. Văn hóa mang cả trong nó tính chính trị và kinh tế. Trong khuôn khổ bài viết này, chỉ nhắc tới tính kinh tế trong văn hóa mà thôi nhưng hy vọng nó sẽ đóng góp nhiều cho công cuộc xây dựng một xã hội văn minh hơn, công bằng hơn.

  • ĐỖ LAI THÚYVề Kinh Bắc với những hội hè, chùa chiền, với đồng chiều cuống rạ, dây bìm bìm, bí lông tơ, giun đất, con gà trụi, châu chấu.. làm người đọc nhớ đến dòng thơ viết về nông thôn, nhất là thơ Nguyễn Bính. “ Trong các nhà thơ cùng thời viết về nông thôn như Bàng Bá Lân, Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ... có lẽ chỉ có Nguyễn Bính là nhận thức sâu sắc được sự thay đổi của thôn quê trước “ cuộc xâm lăng” của đô thị.

  • TRẦN VĂN TOÀN - NGUYỄN XUÂN DIÊN1. Ảnh hưởng của Thơ Đường đối với Thơ Mới là một vấn đề từ lâu đã được đề cập tới. Ngay từ năm 1942, Hoài Thanh- Hoài Chân trong Thi nhân Việt Nam mặc dù giành nhiều trang để miêu tả ảnh hưởng của thơ Pháp (đặc biệt là trường phái Tượng trưng) nhưng các ông đã trân trọng và có một chút hứng thú đặc biệt về ảnh hưởng của Thơ Đường đối với Thơ Mới (điều này được bộc lộ qua công phu miêu tả, khảo cứu và cụ thể hơn từ chính số lượng trang viết). Khi phân chia các dòng mạch Thơ Mới, Hoài Thanh- Hoài Chân nói tới dòng mạch chịu ảnh hưởng của thơ Pháp, dòng mạch mang tính cách Việt, đồng thời cũng nói tới dòng mạch chịu ảnh hưởng từ Đường thi.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN…Trong thời kỳ đổi mới xuất hiện nhiều tác phẩm cảm hứng phê phán rất mạnh. Có những quan điểm và giọng điệu phê phán rất khác nhau: xót xa và lo thương, căm uất và hằn học, tỉnh táo và điềm đạm... Cảm hứng phê phán mang tinh thần hài hước khoan hòa sẽ tạo một vị trí đặc biệt cho Nguyễn Việt Hà trong văn xuôi Việt Nam đương đại…

  • ALEXANDER GENISTrên thị trường Mỹ đã xuất hiện những cuốn sách điện tử đầu tiên. “Softbook” - một đĩa điện tử có màn hình bọc da. Sức chứa - 100 000 trang, trọng lượng - 15 kg, giá cả - 300 đôla cộng 10 đôla kết nối mỗi tháng. “Paketbook” giá 500 đôla, nhưng đi kèm với nó phải có máy tính cá nhân. “Dedicate Reader” - một sổ tay điện tử. Nó giống như một cuốn sách thực sự, có một màn hình kép chứa các bản vẽ, bản đồ, sơ đồ, bảng biểu. Giá là 1500 đôla. Như kinh nghiệm cho thấy, không ai thích đọc văn bản theo màn hình, vì thế tại viện nghiên cứu “Media-lab” người ta đang tìm cách chế tạo thứ “mực điện tử” - những cái bao hết sức nhỏ có thể tùy theo cường độ và hướng của dòng điện sắp xếp lại với nhau để tạo thành văn bản. Theo cách đó, gần như loại sách bằng giấy thông thường có thể được in lại - thay một nội dung này bằng một nội dung khác. Tờ “New York Times” viết: “Ngay giờ đây đã thấy rõ sách điện tử là điều tất yếu. Nếu như không phải là sự thay thế sách in, thì cũng là sự luân phiên nó”. (Theo báo chí)

  • TRẦN ANH PHƯƠNGCầm trên tay tập thơ "Người hái phù dung" của Hoàng Phủ Ngọc Tường tôi như đọc với chính mình giữa đêm khuya lặng lẽ bên ngọn đèn. Cảm nhận đầu tiên về thơ anh không phải thơ để đọc giữa chốn đông người hay ở trong hội trường lớn, thơ anh chỉ đến với người đọc khi chỉ còn lại một mình đối diện với chính mình, tìm lại mình trong những con chữ lan toả như từng đợt sóng, xâm chiếm choáng ngợp lòng người...

  • TRẦN THIỆN KHANH Inrasara nhập cuộc văn chương từ rất sớm. Ngòi bút của Inrasara chạm được vào những vấn đề cốt tử của nghệ thuật. Inrasara đã sống thực sự với đời sống văn chương đương thời.

  • HUYỀN SÂM - NGỌC ANH 1. Umberto Eco - nhà ký hiệu học nổi tiếng.Umberto Eco chiếm một vị trí rất đặc biệt trong nền lý luận đương đại của Châu Âu. Ông là một triết - mỹ gia hàn lâm, một nhà ký hiệu học uyên bác, một tiểu thuyết gia nổi tiếng và là giáo sư danh dự của trường Đại học Bologne ở Italia. Tư tưởng học thuật của ông đã tác động mạnh mẽ, tích cực đến đời sống trí tuệ của sinh viên và giới nghiên cứu trong suốt nửa thế kỷ qua. Ông có mặt trong danh sách của hai mươi nhà tư tưởng đương đại lớn nhất thế giới, và cũng là ứng cử viên thường trực của Viện Hàn lâm Thụy điển về việc bình chọn giải Nobel văn học.

  • ĐỖ NGUYỄN VIỆT TƯ         (Nhân đọc thơ Hoàng Vũ Thuật)Trong con người cũng như trong vũ trụ luôn luôn hiện diện một mâu thuẫn bất biến, nhờ cái khối mâu thuẫn này mà nó tồn tại, phát triển và trở nên thống nhất. Con người luôn đi tìm chính mình trong một cuộc phiêu lưu vô định, không bao giờ bằng lòng với những cái đã có, bản ngã lúc nào cũng thôi thúc sáng tạo để tìm ra cái mới. Nhà thơ luôn đồng hành với cuộc phiêu lưu của những con chữ để đi đến những miền đất lạ, những vùng cảm xúc.

  • NGUYỄN KHOA BỘI LANSau mấy tháng mưa tầm tã và lạnh thấu xương, qua đầu tháng chạp âm lịch, toàn khu Hạ Lào bắt đầu tạnh. Mặt trời lại hiện ra đem ánh sáng sưởi ấm những khu rừng bạt ngàn từ Trường Sơn lượn xuống. Ở các suối nước không còn chảy như thác đổ, ở Xê Công dòng nước cũng đã trở lại hiền hòa. Các con đường lớn, đường nhỏ bắt đầu khô ráo.

  • TRẦN ĐƯƠNGTôi được làm quen và có quan hệ cởi mở với nhà thơ Tố Hữu từ mùa thu năm 1973, sau khi ông dẫn đầu Đoàn đại biểu Đảng ta đi dự Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Đức (DKP) họp tại thành phố cảng Hăm-bugr). Từ  miền Tây, ông sang Béc-lin, Cộng hòa Dân chủ Đức, theo lời mời của Bộ chính trị Đảng xã hội chủ nghĩa thống nhất Đức (SED) với mục đích thăm, nghiên cứu và trao đổi về công tác tư tưởng giữa hai Đảng.

  • TRẦN THÁI HỌCĐến nay, vấn đề giá trị nghệ thuật không còn là vấn đề thời sự được nhiều người trong giới phê bình quan tâm bàn cãi. Sự lắng lại trong không khí phê bình về vấn đề này, vốn đã trải qua một thời kì tranh luận sôi nổi kéo dài hàng chục năm trên văn đàn gắn liền với những quan điểm triết học và mỹ học khác nhau, thậm chí đối lập nhau.