Nhụy Nguyên “lập thiền”

15:21 25/12/2008
MAI VĂN HOANNgười đời thì lập ngôn còn Nhụy Nguyên thì “lập thiền”. Thú thực tôi chưa hiểu hết dụng ý của Nhụy Nguyên khi đặt tên cho tập thơ đầu tay của mình là Lập thiền. Bản thân từ Hán Việt vốn ẩn chứa nhiều tầng nghĩa.

“Lập” theo tôi hiểu là chỗ đứng, là cơ sở tư tưởng để nhìn nhận, đánh giá sự vật, hiện tượng trong đời sống tự nhiên và xã hội. “Thiền” là cách sống, là quan niệm sống của đạo Phật. Một trong những tư tưởng chủ yếu của đạo Phật là hết mực yêu thương con người và vạn vật. Đó là lòng từ bi, bác ái mà đạo Phật muốn truyền bá cho mọi người. Tôi chưa biết Nhụy Nguyên có phải phật tử hay không nhưng đọc thơ anh tôi nhận thấy thơ anh thấm đẫm chất Thiền. Người làm thơ trẻ này có tấm lòng cảm thông sâu sắc đối với con người và vạn vật. Có thể khẳng định chất thiền đã góp phần làm nên nét riêng trong phong cách thơ của Nhụy Nguyên.
Với tôi, thơ trước hết là tiếng nói tình cảm. Vì thế đọc Lập thiền tôi rất đồng cảm. Mặc dù trong Lập thiền, Nhụy Nguyên ít đề cập đến người thân nhưng chỉ một đôi câu thoáng qua chúng ta cũng có thể hiểu được phần nào tình yêu thương và niềm cảm thông sâu sắc của anh đối với ông bà, cha mẹ: “Tôi về chốn cũ, rào thưa / Tìm trong vườn vắng dáng xưa nội còm” (Tiễn nội về xa). Một chữ “còm” thôi mà hàm chứa bao nhiêu thương cảm. Và đây là hai câu anh viết về cha mẹ: “Mẹ giờ thân đã xanh xao / Cha giờ tóc đã phai màu trước năm”. Hiện nay, khi lối sống thực dụng làm băng hoại ít nhiều những tình cảm máu mủ, thiêng liêng thì niềm thương cảm của Nhụy Nguyên đối với cha mẹ thật đáng cho thế hệ trẻ suy ngẫm. Không chỉ đối với người thân, ngay cả đối với láng giềng anh cũng hết sức quan tâm. Sáng nào Nhụy Nguyên cũng ra trước sân ngước nhìn lên tầng ba ngôi nhà đối diện để chia sẻ với người đàn bà ngồi khuất sau khung cửa sổ có gương mặt “dịu dàng. Buồn. Và cam chịu”. Anh biết nàng đang nếm trải bao nhiêu cay đắng vì gặp phải người chồng phàm tục. Nhụy Nguyên nhìn nàng với ánh nhìn “thâm tím” như những vết roi trên da thịt của nàng. Đó là ánh nhìn giàu lòng trắc ẩn. Anh thương dòng sông quê vắng những chuyến đò ngang. Anh thương một mảnh “trăng gầy”. Anh thương vạt cải em gieo trước vườn nhà “cứ vươn lên được vài phân lại bị mưa đông vật xuống”. Anh thương những giọt sương “bị ngọn cỏ đâm xuyên vào ngực”. Anh thương tháng sáu: “Nắng bòn rút mạch nước ngầm trong đất / Đời thêm nhiều cát bụi mịt mù bay...”.

Nhụy Nguyên thường dùng cách nói ẩn dụ. Nếu chỉ đọc lướt qua rất khó nắm bắt cách nói ẩn dụ của anh. Chẳng hạn khi Nhụy Nguyên viết về những cánh hoa đào sau khi đã dâng hết sự “trinh nguyên” đành phải lìa cành rơi “quằn quại trên mặt đất” thì chúng ta nên hiểu đó là anh đang diễn tả tâm trạng đau đớn của những cô gái bị ép phải bán đi cái quý giá nhất. Bài “Một phút với ngàn mai” cũng thuộc dạng những bài thơ có nhiều tầng nghĩa như vậy. Những nhành mai nở sớm ấy “Mở lối đón mùa vàng / Không đủ sức nuôi nhụy / Rụng bên thềm xuân sang...”. Đó chính là Nhụy Nguyên mượn những cánh mai vàng để chia sẻ, cảm thông với những người đi tiên phong trong mọi lĩnh vực, những người dám hy sinh mở đường cho nhân loại tiến lên.

Nhụy Nguyên “lập thiền “cả khi anh viết thơ tình. Điều này chứng tỏ tuy ảnh hưởng ít nhiều tư tưởng Phật giáo nhưng anh vẫn có kiểu “thiền” riêng của mình. Theo quan niệm đạo Phật “tu là cõi phúc, tình là dây oan” (Nguyễn Du). Nhụy Nguyên không tu để được lên cõi phúc mà anh lại yêu - dẫu biết có thể vướng vào dây oan. Đọc thơ anh tôi biết anh có một mối tình hết sức sâu nặng. Mặc dù mối tình ấy đã vùi chôn “dưới đáy mồ dĩ vãng” nhưng “khăn tang còn giăng trước tầm nhìn”. Nhụy Nguyên hỏi người mình yêu: “Em à, bể khổ nông sâu? / Để anh lội xuống vớt câu thơ tình” (Đối thoại tình ta). Người anh yêu cũng giàu lòng trắc ẩn như anh. Cho nên “Dường như trong phút giận hờn / Mắt em vẫn giấu lệ buồn giùm tôi” (Dường như). Ngày họ chia tay nhau thật ảm đạm: “Em đi hồn cỏ xanh xao / Trời liu riu gió điểm vào hư không / Ba năm chiếu cói nằm chung / Ấm hơi ủ lại cất chưng giọt buồn”. Và mặc dù đã chia tay người ấy, Nhụy Nguyên vẫn luôn quan tâm đến nàng “Anh chừ đứng giữa muôn phương / Dõi theo gót mỏng phía đường em đi” (Gọi tôi). Bài Thiền tình là một trong những bài thơ chứa đầy tâm trạng:
Tìm em trong cõi nhân duyên
Đốt ngày thắp sáng trời đêm, tôi tìm
Em thời con gái...
Vô tình                                                           
trăng tà rọi vỡ
Vầng trinh ai cầm!?
          
Một lời than? Một lời trách? Hay một câu hỏi? Tất cả được dồn nén trong vài câu thơ. Nhụy Nguyên vừa thương tiếc vừa đau đớn, xót xa cho nàng vừa ngậm ngùi cho mình. Chính tôi cũng đã từng rơi vào hoàn cảnh tương tự: “Em nhặt được bao nhiêu vỏ ốc, vỏ sò / Cái vừa ý thì chẳng còn nguyên vẹn / Bởi tại em hay tại vì sóng biển? / Em lặng im và sóng biển trầm tư...” (Chuyện vỏ ốc, vỏ sò). Vì vậy tôi rất hiểu tâm trạng của nhân vật trữ tình trong Thiền tình.
Nhụy Nguyên tuy còn trẻ nhưng vốn sống hết sức phong phú. Anh là người từng trải và bản lĩnh. Dẫu chịu nhiều đau thương, mất mát; dẫu chứng kiến không ít những bất công ngang, trái trên cõi đời nhưng anh vẫn tự tin, vẫn luôn nuôi hy vọng. Nhụy Nguyên nói với cô gái gieo cải “Vạt cải em gieo trước vườn nhà / sẽ lên xanh ngày tới / Níu bầu trời gần với xa xăm...” (Tinh sương với cải). Anh an ủi cô gái thôn quê “Tôi về gom hết cổ xưa / Gieo lên đồng ruộng em vừa cấy xong” (Gửi đất mẹ). Anh nhìn thấy trên cánh đồng “những hạt lúa còn sót lại sau mùa gặt / giãy giụa dưới ánh trăng / nảy mầm...” (Trăng quê). Thực tế đã chứng minh niềm tin ấy của Nhụy Nguyên là có cơ sở. Đó chính là trường hợp nhà thơ Phùng Quán. Chỉ vì cương quyết làm theo “Lời mẹ dặn”, chỉ vì can đảm lên tiếng “chống tham ô, lãng phí”... mà trong một thời gian khá dài nhà thơ phải lâm vào cảnh “rượu nợ, văn chui, cá trộm”. Dẫu vậy nhà thơ vẫn vững tin mình sẽ được hồi sinh. Và điều đó đã trở thành hiện thực: “Mấy chục năm có lẻ / Trăng mới tỏ Hoàng thành” (Về quê nội Phùng Quán).            
     
Tôi đã ngồi “thiền” suốt mấy ngày để đọc Lập thiền của Nhụy Nguyên. Phải nghiền ngẫm mãi tôi mới phát hiện được cái chất thiền xuyên suốt tập thơ. Trong Lập thiền có sự kết hợp giữa truyền thống và hiện đại. Những cách nói mới mẻ của anh không đi lạc khỏi quỹ đạo của thơ. Tuy là tập thơ đầu tay nhưng Nhụy Nguyên đã sớm có giọng riêng. Đó là điều mà không phải ai cũng làm được. Trong Lập thiền nhiều bài có tứ nhưng cách viết còn hơi khô nên ít truyền cảm. Một đôi bài lối dùng từ, đặt câu còn hơi cầu kỳ... Mỗi người có một cách thưởng thức thơ. Riêng tôi, tôi thích sự bình dị, trong sáng và tinh tế. Vì vậy, tôi rất quý những bài thơ bình dị, trong sáng, tinh tế trong Lập thiền như “Tiễn nội về xa!”, “Thiền tình”, “Một phút với ngàn mai”... đó là những bài thơ đậm đặc chất thiền theo cách của Nhụy Nguyên.
Huế, tháng 7 - 2006
 M.V.H

(nguồn: TCSH số 211 - 09 - 2006)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HỒNG DIỆUNhà thơ Cao Bá Quát (1809-1854) được người đời hơn một thế kỷ nay nể trọng, với cả hai tư cách: con người và văn chương. "Thần Siêu, thánh Quát", khó có lời khen tặng nào cao hơn dành cho ông và bạn thân của ông: Nguyễn Văn Siêu (1799-1872).

  • HÀ VĂN THỊNHI. Có lẽ trong nhiều chục năm gần đây của lịch sử thế giới, chưa có một nhà sử học nào cũng như chưa có một cuốn sách lịch sử nào lại phản ánh những gì vừa xẩy ra một cách mới mẻ và đầy ấn tượng như Bob Woodward (BW). Hơn nữa đó lại là lịch sử của cơ quan quyền lực cao nhất ở một cường quốc lớn nhất mọi thời đại; phản ánh về những sự kiện chấn động nhất, nghiêm trọng nhất đã diễn ra trong ba năm đầu tiên của thiên niên kỷ mới: sự kiện ngày 11/9, cuộc chiến tranh Afganistan và một phần của cuộc chiến tranh Iraq.

  • ĐẶNG TIẾN     (Đọc Hồi ức của Đại tướng Võ Nguyên Giáp)Một tờ báo ở ngoài nước đã giới thiệu bốn cuốn hồi ức của Đại tướng Võ Nguyễn Giáp mới xuất bản. Dĩ nhiên là một bài báo không thể tóm lược được khoảng 1700 trang hồi ký viết cô đúc, nhưng cũng lảy ra được những đặc điểm, ý chính và trích dẫn dồi dào, giúp người đọc không có sách cũng gặt hái được vài khái niệm về tác phẩm.

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO       (Đọc tập truyện ngắn “Trà thiếu phụ” của nhà văn Hồng Nhu – NXB Hội Nhà văn 2003)Tôi đã được đọc không ít truyện ngắn của nhà văn Hồng Nhu và hầu như mỗi tập truyện đều để lại trong tôi không ít ấn tượng. Trải dài theo những dòng văn mượt mà, viết theo lối tự sự của nhà văn Hồng Nhu là cuộc sống muôn màu với những tình cảm thân thương, nhiều khi là một nhận định đơn thuần trong cách sống. Nhà văn Hồng Nhu đi từ những sự việc, những đổi thay tinh tế quanh mình để tìm ra một lối viết, một phong cách thể hiện riêng biệt.

  • ĐỖ QUYÊN…Đọc thơ Bùi Giáng là thuốc thử về quan niệm thơ, về mỹ học thi ca. Đã và sẽ không ai sai nhiều lắm, cũng không ai đúng là bao, khi bình bàn về thơ họ Bùi. Nhắc về cái tuyệt đỉnh trong thơ Bùi Giáng, độ cao sâu tư tưởng ở trước tác Bùi Giáng nhiều bao nhiêu cũng thấy thiếu; mà chỉ ra những câu thơ dở, những bài thơ tệ, những đoạn văn chán trong chữ nghĩa Bùi Giáng bao nhiêu cũng bằng thừa…

  • LÊ THỊ HƯỜNGTrong căn phòng nhỏ đêm khuya, giai điệu bản sonat của Beethoven làm ta lặng người; một chiều mưa, lời nhạc Trịnh khiến lòng bâng khuâng; trong một quán nhỏ bên đường tình cờ những khúc nhạc một thời của Văn Cao vọng lại làm ta bất ngờ. Và cũng có thể giữa sóng sánh trăng nước Hương Giang, dìu dặt, ngọt ngào một làn điệu ca Huế khiến lòng xao xuyến.

  • NGÔ MINHĐến tập thơ chọn Giếng Tiên (*), nhà thơ - thầy giáo Mai Văn Hoan đã gửi đến bạn yêu thơ 5 tập thơ trữ tình, trong đó có hai tập thơ được tái bản. Đó là tập đầu tay Ảo ảnh, in năm 1988, tái bản 1995 và tập Hồi âm, in năm 1991, tái bản năm 2000. 15 năm xuất bản 7 đầu sách (2 tập tiểu luận) và đang có trong ngăn kéo vài tập bản thảo tiểu luận nữa, chứng tỏ sức sáng tạo sung mãn đáng nể trọng của một thầy giáo vừa dạy học vừa sáng tác văn chương.

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO        (Đọc tập thơ ''Độc thoại trước mặt trời'' của Trần Lan Vinh- NXB Văn học Hà Nội- 2003)Trên thi đàn văn học Việt Nam hiện đại, sự thiếu vắng những cây bút nữ đã trở thành một vấn đề cần được chú trọng. Hầu như mỗi khi phụ nữ cầm bút, điều họ quan tâm nhất đó là sự giải bày tâm sự với ngàn ngàn nỗi niềm trắc ẩn. Nếu viết là một cách để sẻ chia tâm sự thì Trần Lan Vinh là một trường hợp như thế.

  • NGUYỄN THANH TÚMùa đông năm ngoái, anh Đoàn Tuấn từ Hà Nội vào Huế giảng dạy lớp đạo diễn điện ảnh. Dù công việc khá bận rộn nhưng anh vẫn dành cho tôi không ít thời gian tâm sự, bởi ngoài tình cảm thân thiết anh còn là cấp trên của tôi ở toà soạn tạp chí Thế Giới Điện Ảnh. Trong những lần trò chuyện ấy, tôi thật sự bất ngờ khi nghe anh kể chuyện về cuốn sách anh sắp in ở Nhà xuất bản Trẻ mà nội dung của nó là câu hỏi hơn 20 năm nay vẫn luôn canh cánh trong tôi. Vốn dĩ Đoàn Tuấn là nhà biên kịch điện ảnh tên tuổi, anh đã có nhiều kịch bản phim nổi tiếng như: Chiếc chìa khoá vàng (1998), Ngõ đàn bà (1992), Đường thư (2003)...

  • MAI VĂN HOANNguyễn Khoa Điềm đến với thơ hơi muộn nhưng đã sớm định hình một phong cách riêng. Qua các tập Đất ngoại ô (1972), Mặt đường khát vọng (trường ca, 1974), Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (1986), Thơ Nguyễn Khoa Điềm (1990), Cõi lặng (2007) ta bắt gặp những suy ngẫm của anh đối với nhân dân, đất nước; những chiêm nghiệm của anh về đời sống xã hội, nhân tình thế thái. Những chiêm nghiệm và suy ngẫm đó được thể hiện bằng một giọng thơ trầm tĩnh, bình dị, sâu lắng và khá hiện đại.

  • NGUYỄN QUANG HÀ       (Đọc Nỗi niềm để ngỏ của Lê Lâm Ứng - Nhà xuất bản Văn học 2002)Đọc thơ Lê Lâm Ứng để tìm những câu mượt mà thì hơi khó. Thảng hoặc lắm mới bắt gặp ở anh tâm trạng thư thái này:                Biết rằng trong cõi nhớ thương                Lạc nhau âu cũng lẽ thường vậy thôi

  • MAI VĂN HOANNguyễn Đắc Xuân không chỉ có chân trong Hội Nhà văn Việt Nam mà anh còn là hội viên Hội Lịch sử Việt Nam, hội viên Hội Nhà báo Việt Nam... Nhưng dù ở cương vị nào thì điều mà anh tâm huyết nhất vẫn là lịch sử và văn hóa Huế.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG   (Nhân đọc sách "Gió về Tùng Môn Trang" của Nguyễn Xuân Dũng)Tác giả cuốn sách này là một võ sư đệ bát đẳng huyền đai thuộc phái không thủ đạo, vừa là một nhà hoạt động thương trường nổi tiếng ở Mỹ. Nhưng cuốn sách này không hề bàn đến chuyện đấm đá hơn kém hoặc là chuyện mua bán lời lỗ mà bàn về cái TÂM. Tác giả tỏ ra hết sức chú trọng vũ đạo; nhất cử nhất động đều phải xuất phát từ cái TÂM, cái TÂM viết hoa.

  • TRẦN THUỲ MAI            (Đọc Uẩn khúc, tiểu thuyết của Hoàng Văn Bàng, NXB Thuận Hoá 2002)Câu chuyện xảy ra ở một vùng quê không xa lắm, với một tầm mức tai hại không lớn, gây một ảnh hưởng mới xem qua tưởng chừng không đáng kể. Một ông trưởng phòng ở huyện tham ô vài chục triệu thì đã thấm gì so với những câu chuyện động trời hàng ngày trên các báo, mà thủ phạm mang những chức tước lớn lao hơn, với những số tiền khổng lồ tới hàng nghìn tỉ!

  • MAI VĂN HOAN         (Giới thiệu các tác giả thuộc chi hội nhà văn Việt Nam tại Huế)Ngô Minh là một trong những nhà văn Việt Nam ở Huế được Đài truyền hình Cáp Việt Nam chọn giới thiệu tới 45 phút trong chương trình “Người của công chúng”. Tôi cũng được mời nói đôi lời về anh. Với tôi, Ngô Minh là người làm việc “tới số” và chơi cũng... “tới số”!

  • PHẠM XUÂN NGUYÊNCùng một kiếp bên trời lận đận                  (Bạch Cư Dị - Tỳ bà hành)Nhà văn Bùi Ngọc Tấn vừa cho ra mắt tác phẩm Rừng xưa xanh lá (Mười chân dung văn nghệ sĩ) tại Nhà xuất bản Hải Phòng (1/2003).

  • TÔ VĨNH HÀNhững trang viết sau cùng của một con người luôn luôn là điều thiêng liêng và không bao giờ hết bí ẩn. Vì sao lại dùng từ ấy chứ không phải là chữ kia; đề cập đến cái này chứ không phải là cái khác..? Rất nhiều câu hỏi sẽ đến với người đọc khi trước mắt ta là những ý tưởng hiện hữu sau cùng của một đời người - đặc biệt ở con người vĩ đại như Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh là cái tên mà mỗi người Việt lúc đọc hay nói, không chỉ diễn đạt một quan niệm gần như vô hạn của nhận thức, mà hơn nhiều thế nữa - là âm sắc tuyệt vời của sự kết tụ những tinh hoa quý giá nhất của trái tim mình.

  • NGUYỄN TỐNGQuê hương đất nước và con người luôn có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau trong suốt chiều dày của lịch sử dựng nước và giữ nước. Nó tự nhiên chan hoà đến mức như cá bơi quẫy giữa đại dương, chim tung cánh vô tư giữa bầu trời bát ngát. Đến lúc nào đó, khi con người rơi vào cảnh cá chậu chim lồng, tình cảm, ý thức về đất nước thiêng liêng mới trở nên ám ảnh day dứt.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ           (Đọc “Thân Trọng Một – con người huyền thoại” của Nguyễn Quang Hà)Đã từ lâu, tên tuổi anh hùng Thân Trọng Một trở nên thân quen với mọi người, nhất là với quân dân Thừa Thiên Huế; những “sự tích” về ông đã thành truyện “truyền kỳ” trong dân chúng và đã được giới thiệu trên nhiều sách báo. Tuy vậy, với “THÂN TRỌNG MỘT – CON NGƯỜI HUYỀN THOẠI”, lần đầu tiên, chân dung và những chiến công của ông đã được tái hiện một cách đầy đủ và sinh động nhất.

  • Nhà văn Nguyễn Quang Hà tâm sự với tôi rằng anh có hai món nợ rất lớn mà chắc đến khi nhắm mắt xuôi tay cũng không thể nào trả xong. Hai món nợ mà anh đang gánh trên đôi vai của mình là món nợ đối với nhân dân và món nợ đối với đồng đội. Gần bốn mươi năm cầm bút, anh đã viết 9 tập tiểu thuyết; 7 tập truyện ngắn, ký, truyện ký; 2 tập thơ cùng với hàng trăm bài báo cũng chỉ mong sao trả được hai món nợ ấy.