ĐỖ THU THỦY
1.
Trường ca Ngang qua bình minh là ấn phẩm thứ ba của nhà thơ Lữ Mai, sau hai tập tản văn và ký sự: Nơi đầu sóng, Mắt trùng khơi viết về đề tài biển đảo.
Nhà thơ Lữ Mai và tác phẩm của chị
Đây là kết quả từ chuyến đi Trường Sa năm 2019 của chị và các đồng nghiệp, một hải trình với đầy ắp những ấn tượng và xúc cảm mãnh liệt như chính tác giả từng chia sẻ: “Câu chuyện về biển đảo mênh mông quá, tinh thần hy sinh của biết bao người lính cùng thân nhân của họ và vô số con người đau đáu lặng thầm bảo vệ cột mốc chủ quyền Tổ quốc không giấy mực nào tả xiết”. Tâm thế của người “đứng trước biển” với bao mới lạ, kỳ thú, ngỡ ngàng xen lẫn sự cảm phục, biết ơn những chiến sĩ hải quân “nơi đầu sóng” ngày đêm canh giữ biển trời Tổ quốc đã tạo nên điểm nhìn nghệ thuật mới, có sự mở rộng của phạm vi hiện thực, chiều sâu của cảm xúc, suy tưởng và sự linh hoạt trong hình thức biểu đạt ở các tác phẩm về biển đảo của Lữ Mai so với một số sáng tác trước đây của chị. Xét trên phương diện này, có thể xem Ngang qua bình minh là một dấu mốc cho thấy sự trưởng thành trong trải nghiệm đời sống và tư duy nghệ thuật, một trưởng thành đầy ý thức, đáng trân trọng ở những người viết trẻ như Lữ Mai.
Sinh năm 1988, Lữ Mai thuộc thế hệ những người viết văn trẻ được đào tạo một cách bài bản, có niềm đam mê, kiên trì theo đuổi con đường viết văn chuyên nghiệp và bước đầu đã gặt hái những thành công nhất định với 3 tập thơ: Giấc (2010), Mở mắt rồi mơ (2015), Thời cách ngăn trống rỗng (2019); 1 tập truyện ngắn: Linh hồ (2019), 4 tập tản văn và ký sự: Hà Nội không vội được đâu (2014), Những mùa hoa còn lại, Nơi đầu sóng, Mắt trùng khơi (2019) trước khi tiếp tục có thêm trường ca Ngang qua bình minh. Dẫu vậy thì với người viết trẻ, trường ca vẫn luôn là một hấp dẫn đầy thách đố bởi sự “vạm vỡ” của thể loại, xét ở cả hai đặc tính: khả năng biểu đạt những cảm xúc lớn, tư tưởng lớn về cộng đồng, dân tộc, đời sống nói chung và khả năng thể nghiệm phong phú các hình thức nghệ thuật: thể thơ, ngôn ngữ, thi tứ, hình ảnh… Lựa chọn viết trường ca sau khi đã có ít nhiều thành công ở thơ, truyện ngắn, tản văn, ký sự, vì thế, dường như là một “liều lĩnh” dấn thân của Lữ Mai. Thêm nữa, nhìn ở “lãnh địa” trường ca về biển đảo, Lữ Mai cũng không phải trường hợp đầu tiên và duy nhất. Trước chị, từng có những trường ca của các cây bút dày dặn kinh nghiệm trên thi đàn thơ Việt: Những người trên cửa biển (Văn Cao); Trường ca biển (Hữu Thỉnh), Hạ thủy những giấc mơ (Nguyễn Hữu Quý), Biển mặn (Nguyễn Trọng Tạo), Lòng hải lý (Đỗ Quyên), Tổ quốc - Đường chân trời (Nguyễn Trọng Văn); Người sau chân sóng (Lê Thị Mây)… và gần đây là Sóng trầm biển dựng (Đoàn Văn Mật). Đó là chưa kể hàng loạt những bài thơ từng gây sóng thi đàn ngay khi xuất hiện ở những thời điểm “nước sôi lửa bỏng”, chủ quyền biển đảo bị đe dọa: Trường Sa hành (Tô Thùy Yên), Tổ quốc nhìn từ biển (Nguyễn Việt Chiến), Mộ gió (Trịnh Công Lộc), Tổ quốc ba nghìn cây số biển (Nguyễn Ngọc Phú)… Là một người viết chuyên nghiệp, Lữ Mai hẳn nhiên ý thức về những cái bóng trường ca đã phủ xuống thơ Việt cũng như hiểu rõ cả áp lực mà một người viết trẻ như chị phải đối diện trước đòi hỏi thể loại cần nhiều trải nghiệm sống, trải nghiệm viết. Vì thế trong trường ca này, thấy rõ những nỗ lực, gắng gỏi để tạo nên cái riêng khác của tác giả, dựa trên chính việc khai thác tối đa ưu thế của thể loại và “vốn liếng” thực tế quí giá của những ngày ra với biển, với người lính cũng như trải nghiệm sống và tạng riêng của chị.
2.
Ở góc nhìn khái quát mang tính chỉnh thể, có thể thấy trong Ngang qua bình minh, Lữ Mai đã lựa chọn bố cục chương đoạn thường thấy của trường ca với 8 chương theo thứ tự: Khởi tại Điêu Lương, Linh thoại, Ảo giác, Vẽ lại bình minh, Giấc mơ trổ vào thân sóng, Chuỗi ngày sao biển, Miền trong suốt, Trở về. Mỗi chương tựa như một câu chuyện nhỏ lồng trong câu chuyện lớn, được nối kết qua/ bằng hình thức những “đối thoại biển” với chủ âm là “linh thoại” giữa người lính và đồng đội, người thân. Những người lính đến từ mọi miền đất nước nhưng có chung một sứ mệnh thiêng liêng: bảo vệ bình yên biển đảo Tổ quốc. “Chiến chinh ở tận đáy sâu”! Rất nhiều người trong số họ, thế hệ này nối tiếp thế hệ kia, đã mãi mãi nằm lại giữa lòng biển cả, lỡ hẹn chuyến tàu về… Ngang qua bình minh là khúc ca bi tráng về những người lính kiên trung, bất khuất ấy ở cả chiều kích rộng lớn, hào sảng: tình yêu Tổ quốc, biển cả, tinh thần quyết tử bảo vệ chủ quyền đất nước lẫn những xúc cảm riêng tư, sâu lắng cắt cứa thịt da với mẹ, em và người thân yêu nơi quê nhà… Nhờ đặc trưng bao quát và “ôm chứa” thể loại, bố cục này tạo cơ hội cho tác giả triển khai mạch tư tưởng, cảm xúc và hình tượng trữ tình trong sự phong phú, linh hoạt, uyển chuyển, đan xen giữa chất sử thi và thế sự, hùng ca và bi ca, giữa câu chuyện “thời sự” có tính thời điểm liên quan tới những tranh chấp chủ quyền trên hai quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa thời gian gần đây và suy tư liên tưởng rộng dài về dân tộc, nhân dân trong dòng chảy thăng trầm của lịch sử, về những gian khó khổ đau, hy sinh mất mát vừa lặng thầm vừa kiêu hãnh của những người lính và nhân dân nói chung trong sứ mệnh gìn giữ chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc: “Nơi biển cả đang dềnh ngơ ngác/ có gì rất sắc và sâu/ rất ngọt và đau/ phiêu bạt giữa trùng khơi muối mặn”; “Mỗi chúng tôi hóa một lá cờ/ bay vụt lên giữa biển/ dẫu cắn răng đau, dẫu lặng im tan nát/ vẫn mãi đứng đây và hát/ lời nhân dân non nước của mình”; “Mẹ ơi! Nếu mẹ ra tới biển/ có những ngày biển bỗng sáng lên/ ánh sáng ấy từ nghìn năm mở cõi/ từ những ngọn đèn vời vợi trước gian lao/ từ những kiếp người chưa bao giờ yên ngủ nổi/ từ những cuộc đời như mẹ mòn trông”… Trên nền mạch tự sự được tạo bởi tính kết nối của các chi tiết, sự kiện về hành trình sống - chiến đấu - hy sinh của những người lính đất Điêu Lương, người lính trên mọi miền đất nước nói chung, những ý tưởng, cảm xúc được triển khai và tự do tuôn chảy, nhiều khi lấn át mạch tự sự. Đây là một trong những đặc điểm thuộc về “hiện đại tính” của trường ca sau 1975 so với các giai đoạn trước, từng được thể hiện trong một số trường ca về biển đảo: Trường ca biển (Hữu Thỉnh), Hạ thủy những giấc mơ (Nguyễn Hữu Quý), Tổ quốc - Đường chân trời (Nguyễn Trọng Văn),… Điều này khiến cho việc phản ánh và biểu đạt nội dung trữ tình trong các trường ca giai đoạn này được mở rộng chiều kích trong sự kết hợp linh hoạt của ngôi kể, giọng điệu, ngôn ngữ, thủ pháp… giúp phát huy tối đa năng lực sáng tạo và sở trường của mỗi người viết. Tuy nhiên, sự mở rộng những chiều kích này trong trường ca cũng là thử thách không nhỏ với những người viết trẻ như Lữ Mai. Bởi lẽ ở dạng đề tài mang “hơi hướng” sử thi, có khả năng ôm chứa cả những vấn đề lớn của lịch sử dân tộc lẫn thân phận con người như đề tài biển đảo, nếu không đủ độ đằm chín của suy tư, cảm xúc, sự chắc chắn vững vàng về bút lực thì dễ rơi vào tình trạng “hô khẩu hiệu” hoặc các diễn đạt đã trở nên sáo mòn, công thức, đi ngược với nguyên tắc có tính sinh tử của thơ ca. Lữ Mai hẳn cũng ý thức một cách nghiêm túc, đầy cẩn trọng về điều này. Vì thế trong việc triển khai cấu trúc bên trong của trường ca, đã thấy những dụng công đầy chủ ý với nỗ lực đem tới cách thức biểu đạt có nhiều riêng khác ở đề tài dường như đã quen thuộc. Điều này thể hiện qua cách tác giả xử lý, kết hợp một cách khéo léo chất liệu đời sống hiện thực gắn với không gian, con người, câu chuyện, sự kiện về biển đảo và chất liệu văn hóa, tín ngưỡng dân gian, từ đó mở rộng phạm vi và trường liên tưởng về hiện thực, sự cộng hưởng của những cảm xúc suy tư, sự linh hoạt trong các thể nghiệm ngôn từ, thi ảnh, giọng điệu… giúp việc thể hiện thông điệp nghệ thuật trở nên rộng mở, sâu sắc hơn.
3.
Nhìn từ liên kết bề sâu, cấu trúc của Ngang qua bình minh được tạo dựng bởi sự gắn kết giữa cái thực: rừng núi, biển cả, trận mạc, người lính…, các tình tiết, câu chuyện về con người, sự việc diễn ra trong thời gian, không gian cụ thể, xác định với cái huyền bí, hư ảo của những linh thoại, ảo giác, giấc mơ… gắn với không gian tâm tưởng, được tạo dựng từ huyền tích về những “vùng đất thiêng”, từ ý niệm và niềm tin về sự tồn tại của thế giới tâm linh bên ngoài thế giới thực tại đầy hữu hạn của con người. Cái thiêng như một biểu đạt nghệ thuật đầy dụng ý ngầm diễn giải, cắt nghĩa về những gì diễn ra trong thực tại, một thực tại vừa kỳ vĩ, lớn lao, rộng dài liên quan tới vận mệnh dân tộc, vừa riêng tư cá nhân liên quan tới số phận mỗi con người. Sự trưng dụng các lớp ý nghĩa của trầm tích văn hóa trong trường ca này, do thế, thường nương theo mạch cảm xúc, góp phần thể hiện thông điệp nghệ thuật của tác giả. Câu chuyện về “bùa ngải”, “bùa yêu” nơi đồng rừng Điêu Lương là một ví dụ. Từ lời truyền tụng đầy bí ẩn, ma mị, đôi lúc nhuốm vẻ rùng rợn về một thứ phép thuật mang “yêu lực” khiến người ta vừa tò mò vừa sợ hãi, trong Ngang qua bình minh, chỉ dấu văn hóa đậm màu sắc tín ngưỡng vùng miền này được tác giả khai thác ở ý nghĩa khởi nguyên đầy tích cực và nhân bản: niềm khao khát hạnh phúc lứa đôi, mong ước được gắn bó “trọn đời trọn kiếp” bên người mình yêu thương. Vì thế những người đàn bà Điêu Lương khi sở hữu (hay cố gắng để sở hữu) bùa ngải, bùa yêu là đã “đặt cược” số mệnh mình vào đó với niềm tin vào sức mạnh đầy linh nghiệm có thể “dẫn dụ”, “chỉ lối đưa đường” linh hồn những người chồng, người con, người đàn ông của mình từ thăm thẳm trùng khơi trở về đất mẹ: “Bếp lạnh. Nhà lạnh. Chiếu chăn lạnh. Chiếc áo bạc màu run rẩy tái xanh. Mây đổ xuống Điêu Lương như biển trắng. Những linh hồn sóng sánh ngả vào nhau/ Người càng đớn đau, ngải càng linh nghiệm. Tình yêu từ tiền kiếp sẽ sinh sôi”; “Cùng khi đó những người đàn bà trở dậy nhóm bếp. Rót rượu hạ thổ từ chum sành, gọi ngải. Bùa yêu ơi, xin mở lại con đường”… Hình ảnh những người đàn bà Điêu Lương “ngậm ngùi nuôi những mùa ngải đắng/ gửi kẻ tha hương hình bóng một vầng trăng” trở thành một day dứt, ám ảnh, gợi ý niệm về sự cô đơn, mất mát, bi kịch: “Vùng Điêu Lương nổi tiếng bùa yêu. Nhưng chỉ để trao cho những vùng đất khác. Còn xứ này, đàn bà tóc xanh hay tóc bạc, đều cô đơn”. Từ trầm tích văn hóa, câu chuyện bùa ngải, bùa yêu trở thành một tín hiệu thẩm mĩ mang thông điệp về thân phận con người, thân phận phụ nữ trong dòng chảy thăng trầm của lịch sử: “rồi chợt ta thấy mẹ/ người suốt đời trồng ngải gọi bùa yêu/ vườn ngải già thành nơi trông cậy/ sau cuối chỉ còn đắng đót giọt đau”; “Những kiếp đàn bà nuôi ngải đắng gọi bùa/ trò thiêng cũ phiêu linh theo đời lính/ hạnh phúc hình hài hoa bão táp/ năm cánh trắng mong manh một phía xếp về”… Trong thơ Lữ Mai từng xuất hiện những bài thơ, câu thơ đầy ám ảnh về “phận đàn bà” với nỗi đau hậu chiến, “nỗi đau nhang khói”: “Người đàn bà tháng bảy/ theo hồi chuông mang ký ức quay về/ âm dương tìm nhau khói nhang cách biệt/ trong cơn khóc trẻ thơ/ hương huệ trắng vẫn còn thảng thốt” (Những hồi chuông cỏ dại). Dường như trái tim phụ nữ với sự yếu mềm cố hữu khiến những vần thơ của chị ở trường ca này, dù trong hào sảng ngân vang vẫn có những quãng lắng sâu da diết, buốt nhói một niềm xót đau, thương cảm: “mẹ chôn chiếc ba lô đắp thành mộ gió/ chôn tuổi xuân mình/ chôn mái tóc xanh”; “tóc mẹ buốt sương khuya/ lạnh từng mũi kim suốt đời vá víu/ chạm mặt vải thêu nhóng nhánh trăng vàng/ hoang mang kéo vào ngày rạng”; “nước mắt em chôn vội rặng tóc tiên/ chẳng tiễn kẻ đi chỉ đăm đăm theo đường mòn lũ kiến/ tưởng tượng ta bé mọn đủ để em nhìn”… Đó là những quãng lặng quý giá, chạm tới giá trị cốt tủy và vĩnh hằng của thi ca.
Huyền tích đồng rừng về bùa ngải, bùa yêu bên cạnh linh thoại, ảo giác, giấc mơ trong cõi tâm linh vô thức, nơi trùng khơi thăm thẳm “tiếng chuyện trò lẫn lời sóng gió”, “người đã khuất thức cùng người sống” đã tạo nên một không gian nghệ thuật đậm chất huyền hoặc, ở đó diễn ra câu chuyện vừa thiêng liêng hào sảng, vừa “bình dị từ tâm” về những người lính và cuộc chiến giữ gìn, bảo vệ, khẳng định chủ quyền đất nước. Ở đó, “mỗi số phận chứa một phần lịch sử” giúp ta thức nhận rõ hơn ý nghĩa của những nỗi đau, sự hy sinh, dâng hiến, để thêm gắn bó, tha thiết hơn với con người, với cuộc đời này.
Chia sẻ về sứ mệnh của thơ ca, nhà thơ Nguyễn Hữu Quý cho rằng: “Dù chiến tranh hay hòa bình, thơ cũng phải có trách nhiệm với Tổ quốc và nhân dân, đó vừa là nghĩa vụ, vừa là tình cảm của người cầm bút. Nhưng để chuyển tải được tư tưởng, nội dung lớn, thơ cần có chất lượng nghệ thuật cao”. Trong một tương quan và đòi hỏi như vậy, việc lựa chọn những thể loại “nặng ký” như trường ca để biểu đạt tư tưởng, cảm xúc lớn về dân tộc, nhân dân ở các tác giả trẻ như Lữ Mai, tuy có chút “liều lĩnh” song thật đáng quý, đáng trân trọng. Chúng ta mong chờ và tin tưởng sự “liều lĩnh” ấy, cùng nội lực và khát vọng dấn thân sẽ tạo nên nguồn năng lượng và sinh khí mới cho những bứt phá sáng tạo trong tương lai của chị.
Đ.T.T
(SHSDB41/06-2021)
BÙI ĐỨC VINH(Nhân đọc tập thơ “RỖNG NGỰC” của Phan Huyền Thư, NXB Văn học 2005)
PHAN THUẬN AN"Khóc Bằng phi" hay "Khóc Thị Bằng" là một bài thơ nổi tiếng xưa nay, nhưng tác giả của nó là ai thì chưa được xác minh một cách cụ thể. Người ta thường cho rằng bài thơ trữ tình này là do vua Tự Đức (1848-1883) làm ra để thương tiếc một bà cung phi tên là Thị Bằng còn rất trẻ đẹp nhưng chết sớm.
HÀ VĂN LƯỠNGTrong văn học Nga thế kỷ XX, Aleksandr Solzhenitsyn là một trong những nhà văn lớn, nổi tiếng có nhiều đóng góp cho nền văn học Nga trên nhiều phương diện, một người suốt đời tận tụy và kiên trì đấu tranh cho sự chiến thắng của nghệ thuật, của sự thật đối với những cái xấu, cái ác. Nhưng ông cũng là một nhà văn có cuộc đời đầy thăng trầm, bất hạnh và phức tạp.
BÙI LINH CHIAnnemarie Selinko (1914-1986) là một nhà báo, nhà tiểu thuyết gặt hái được một số thành công trong sự nghiệp tại Tổ quốc của mình là nước Áo. Trong những tháng ngày chạy nạn 1943, bà đã cùng chồng đến Thụy Điển, đã chứng kiến những làn sóng người tị nạn phải rời bỏ quê hương trước ý chí ghê gớm của kẻ độc tài khát máu Himler gây ra.
TRẦN HUYỀN SÂM1. Nobel là một giải thưởng danh giá nhất, nhưng cũng chứa đựng nhiều nghịch lý nhất trong tất cả các giải thưởng. Riêng giải Nobel văn học, bao giờ cũng gây tranh cãi thú vị. Bởi vì, Hội đồng Viện Hàn Lâm Thụy Điển phải trung thành với lời di chúc của Alffred Nobel: trao tặng giải thưởng cho người sáng tạo ra tác phẩm văn học xuất sắc nhất, có khả năng định hướng lý tưởng cho nhân loại.
NGUYỄN THỊ MAI(Nhân đọc tập thơ “Ra ngoài ngàn năm” của nhà thơ Trương Hương - NXB Văn học – 2008)
LÊ HUỲNH LÂMDạo này, thỉnh thoảng tôi nhận được tin nhắn “nhìn đời hiu quạnh”, mà theo lời thầy Chạy đó là câu của anh Định Giang ở Vỹ Dạ mỗi khi ngồi nhâm nhi. Khi mắc việc thì thôi, còn rảnh rang thì tôi đến ngồi lai rai vài ly bia với thầy Chạy và nhìn cổ thành hắt hiu, hoặc nhìn cội bồ đề đơn độc, nhìn một góc phố chiều nguội nắng hay nhìn người qua kẻ lại,… tất cả là để ngắm nhìn cõi lòng đang tan tác.
THU NGUYỆTLTS: Tập truyện Cánh đồng bất tận của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư được giới chuyên môn đánh giá cao như một hiện tượng văn học trong thời gian gần đây. Giữa lúc đông đảo bạn đọc đang hứng vị với hiện tượng này thì có một hiện tượng khác “ngược chiều” đã gây sốc dư luận.Để bạn đọc Sông Hương có thêm thông tin, chúng tôi xin trích đăng một số ý kiến sau đây.
HIỀN LƯƠNGVậy là Nguyễn Ngọc Tư sẽ bị kiểm điểm thật. Cầm tờ biên bản của Ban Tuyên giáo tỉnh Cà Mau trên tay, trong tôi trào dâng nhiều cảm xúc: giận, thương, và sau rốt là buồn...
BÙI VIỆT THẮNGTôi có theo dõi “vụ việc Nguyễn Ngọc Tư” đăng tải trên báo Tuổi trẻ (các số 79, 80, và 81 tháng 4 năm 2006) thấy các ý kiến khen chê thật ngược chiều, rôm rả và quyết liệt. Kể ra không có gì lạ trong thời đại thông tin mọi người đều có quyền cập nhật thời sự, nhất là trong lĩnh vực văn chương vốn rất nhạy cảm.
NGUYỄN KHẮC PHÊ“Người kinh đô cũ” (NKĐC - NXB Hội Nhà văn, 2004) là tác phẩm thứ 14 của nhà văn Hà Khánh Linh, cũng là tác phẩm văn học dày dặn nhất trong số tác phẩm văn học của các nhà văn ở Thừa Thiên - Huế sáng tác trong khoảng 20 năm gần đây.
HỒ THẾ HÀ Trong cuộc đời mỗi con người, điều sung sướng nhất là được hiểu biết, khám phá và sáng tạo để ý nghĩa tồn sinh không ngừng được khẳng định và nâng lên những tầm cao mới. Theo đó, những thang bậc của nhận thức, nhân văn, của thành quả lao động lại biến thành những giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể lấp lánh lời giải đáp.
TÔ VĨNH HÀNếu có thể có một miền thơ để mà nhớ mong, khắc khoải; tôi tin mình đã tìm được rồi, khi đọc Mưa Kim Cương của nhà thơ Đông Hà (Nxb Thuận Hoá, Huế, tháng 11.2005). Sợi dây mảnh mục như các khớp xương đan chằng, xéo buốt, chơi vơi; được giăng giữa hai bờ lở xói của cuộc đời. Trên cao là “hạt” kim cương thô ráp và gan lỳ hơn cả là đá nữa, nhưng lại giống với thân hình thần Vệ Nữ đang rơi, đang rơi, nhọn sắc, dữ dằn... Minh hoạ ở trang bìa xanh và sâu thẳm như những trang thơ.
TRẦN THANH HÀLGT: Có thể nói rằng, “Tiểu thuyết và tiểu luận về tiểu thuyết của Milan Kundera được xem như là một trong những hiện tượng độc đáo đáng được chú ý trong văn học Châu Âu hiện đại”. Mỗi cuốn tiểu thuyết cô đọng của nhà văn, mang lại cho độc giả một cái nhìn độc đáo về thế giới hiện đại và vị trí con người trong đó, một thứ triết học riêng về cuộc sống và mối quan hệ liên cá nhân, “các chủ đề sắc sảo và các tính cách con người sinh động được kết hợp với những suy tư về các đề tài triết học và hiện sinh mang tính toàn cầu”.
HOÀNG VĂN Đọc Hoang thai ta có thể hình dung ra xã hội Ba Lan đương đại và những vấn đề nẩy sinh trong xã hội này.
NGUYỄN KHẮC PHÊGặp nhà văn - dịch giả Đoàn Tử Huyến - một người “chơi” sách có hạng ở đất Hà Thành - tại nhà sách lớn của Trung tâm văn hoá ngôn ngữ Đông Tây mới khai trương trên khu Cầu Giấy, trước ngày hội thảo về tiểu thuyết “Mẫu Thượng ngàn” của Nguyễn Xuân Khánh, tôi hỏi: “Có đúng là ông đã nói trên một tờ báo rằng “Một tác phẩm kiệt xuất như “Nghệ nhân và Margarita” (NNVM) mà chưa có một nhà phê bình Việt Nam nào sờ đến cả! “Đúng vậy không?” Đoàn Tử Huyến cười nhăn cả mũi: “Thì đúng vậy chứ sao!”
HOÀNG VŨ THUẬT(Đọc Hoạ mi năm ngoái - Thơ Trần Kim Hoa, NXB Văn học, 2006)
LTS: Sông Hương vừa nhận được lá thư của ông Tế Lợi Nguyễn Văn Cừ gửi cho nhà nghiên cứu Phan Thuận An nhằm cung cấp lại bản gốc của bài thơ “Cầu ngói”. Xin nói thêm, ông Nguyễn Văn Cừ là con của ông Nguyễn Văn Lệ, tác giả bài thơ.Sông Hương xin đăng lá thư này để hầu mong rộng đường trao đổi.
HOÀNG VŨ THUẬT(Đọc Ngày không ngờ - thơ Nguyễn Bình An, NXB Thuận Hóa 2007)
VĨNH NGUYÊN(Nhân xem tập thơ Nhật thực của Nhất Lâm, Nxb Thanh Niên, 2008)