ĐỖ THU THỦY
1.
Trường ca Ngang qua bình minh là ấn phẩm thứ ba của nhà thơ Lữ Mai, sau hai tập tản văn và ký sự: Nơi đầu sóng, Mắt trùng khơi viết về đề tài biển đảo.
Nhà thơ Lữ Mai và tác phẩm của chị
Đây là kết quả từ chuyến đi Trường Sa năm 2019 của chị và các đồng nghiệp, một hải trình với đầy ắp những ấn tượng và xúc cảm mãnh liệt như chính tác giả từng chia sẻ: “Câu chuyện về biển đảo mênh mông quá, tinh thần hy sinh của biết bao người lính cùng thân nhân của họ và vô số con người đau đáu lặng thầm bảo vệ cột mốc chủ quyền Tổ quốc không giấy mực nào tả xiết”. Tâm thế của người “đứng trước biển” với bao mới lạ, kỳ thú, ngỡ ngàng xen lẫn sự cảm phục, biết ơn những chiến sĩ hải quân “nơi đầu sóng” ngày đêm canh giữ biển trời Tổ quốc đã tạo nên điểm nhìn nghệ thuật mới, có sự mở rộng của phạm vi hiện thực, chiều sâu của cảm xúc, suy tưởng và sự linh hoạt trong hình thức biểu đạt ở các tác phẩm về biển đảo của Lữ Mai so với một số sáng tác trước đây của chị. Xét trên phương diện này, có thể xem Ngang qua bình minh là một dấu mốc cho thấy sự trưởng thành trong trải nghiệm đời sống và tư duy nghệ thuật, một trưởng thành đầy ý thức, đáng trân trọng ở những người viết trẻ như Lữ Mai.
Sinh năm 1988, Lữ Mai thuộc thế hệ những người viết văn trẻ được đào tạo một cách bài bản, có niềm đam mê, kiên trì theo đuổi con đường viết văn chuyên nghiệp và bước đầu đã gặt hái những thành công nhất định với 3 tập thơ: Giấc (2010), Mở mắt rồi mơ (2015), Thời cách ngăn trống rỗng (2019); 1 tập truyện ngắn: Linh hồ (2019), 4 tập tản văn và ký sự: Hà Nội không vội được đâu (2014), Những mùa hoa còn lại, Nơi đầu sóng, Mắt trùng khơi (2019) trước khi tiếp tục có thêm trường ca Ngang qua bình minh. Dẫu vậy thì với người viết trẻ, trường ca vẫn luôn là một hấp dẫn đầy thách đố bởi sự “vạm vỡ” của thể loại, xét ở cả hai đặc tính: khả năng biểu đạt những cảm xúc lớn, tư tưởng lớn về cộng đồng, dân tộc, đời sống nói chung và khả năng thể nghiệm phong phú các hình thức nghệ thuật: thể thơ, ngôn ngữ, thi tứ, hình ảnh… Lựa chọn viết trường ca sau khi đã có ít nhiều thành công ở thơ, truyện ngắn, tản văn, ký sự, vì thế, dường như là một “liều lĩnh” dấn thân của Lữ Mai. Thêm nữa, nhìn ở “lãnh địa” trường ca về biển đảo, Lữ Mai cũng không phải trường hợp đầu tiên và duy nhất. Trước chị, từng có những trường ca của các cây bút dày dặn kinh nghiệm trên thi đàn thơ Việt: Những người trên cửa biển (Văn Cao); Trường ca biển (Hữu Thỉnh), Hạ thủy những giấc mơ (Nguyễn Hữu Quý), Biển mặn (Nguyễn Trọng Tạo), Lòng hải lý (Đỗ Quyên), Tổ quốc - Đường chân trời (Nguyễn Trọng Văn); Người sau chân sóng (Lê Thị Mây)… và gần đây là Sóng trầm biển dựng (Đoàn Văn Mật). Đó là chưa kể hàng loạt những bài thơ từng gây sóng thi đàn ngay khi xuất hiện ở những thời điểm “nước sôi lửa bỏng”, chủ quyền biển đảo bị đe dọa: Trường Sa hành (Tô Thùy Yên), Tổ quốc nhìn từ biển (Nguyễn Việt Chiến), Mộ gió (Trịnh Công Lộc), Tổ quốc ba nghìn cây số biển (Nguyễn Ngọc Phú)… Là một người viết chuyên nghiệp, Lữ Mai hẳn nhiên ý thức về những cái bóng trường ca đã phủ xuống thơ Việt cũng như hiểu rõ cả áp lực mà một người viết trẻ như chị phải đối diện trước đòi hỏi thể loại cần nhiều trải nghiệm sống, trải nghiệm viết. Vì thế trong trường ca này, thấy rõ những nỗ lực, gắng gỏi để tạo nên cái riêng khác của tác giả, dựa trên chính việc khai thác tối đa ưu thế của thể loại và “vốn liếng” thực tế quí giá của những ngày ra với biển, với người lính cũng như trải nghiệm sống và tạng riêng của chị.
2.
Ở góc nhìn khái quát mang tính chỉnh thể, có thể thấy trong Ngang qua bình minh, Lữ Mai đã lựa chọn bố cục chương đoạn thường thấy của trường ca với 8 chương theo thứ tự: Khởi tại Điêu Lương, Linh thoại, Ảo giác, Vẽ lại bình minh, Giấc mơ trổ vào thân sóng, Chuỗi ngày sao biển, Miền trong suốt, Trở về. Mỗi chương tựa như một câu chuyện nhỏ lồng trong câu chuyện lớn, được nối kết qua/ bằng hình thức những “đối thoại biển” với chủ âm là “linh thoại” giữa người lính và đồng đội, người thân. Những người lính đến từ mọi miền đất nước nhưng có chung một sứ mệnh thiêng liêng: bảo vệ bình yên biển đảo Tổ quốc. “Chiến chinh ở tận đáy sâu”! Rất nhiều người trong số họ, thế hệ này nối tiếp thế hệ kia, đã mãi mãi nằm lại giữa lòng biển cả, lỡ hẹn chuyến tàu về… Ngang qua bình minh là khúc ca bi tráng về những người lính kiên trung, bất khuất ấy ở cả chiều kích rộng lớn, hào sảng: tình yêu Tổ quốc, biển cả, tinh thần quyết tử bảo vệ chủ quyền đất nước lẫn những xúc cảm riêng tư, sâu lắng cắt cứa thịt da với mẹ, em và người thân yêu nơi quê nhà… Nhờ đặc trưng bao quát và “ôm chứa” thể loại, bố cục này tạo cơ hội cho tác giả triển khai mạch tư tưởng, cảm xúc và hình tượng trữ tình trong sự phong phú, linh hoạt, uyển chuyển, đan xen giữa chất sử thi và thế sự, hùng ca và bi ca, giữa câu chuyện “thời sự” có tính thời điểm liên quan tới những tranh chấp chủ quyền trên hai quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa thời gian gần đây và suy tư liên tưởng rộng dài về dân tộc, nhân dân trong dòng chảy thăng trầm của lịch sử, về những gian khó khổ đau, hy sinh mất mát vừa lặng thầm vừa kiêu hãnh của những người lính và nhân dân nói chung trong sứ mệnh gìn giữ chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc: “Nơi biển cả đang dềnh ngơ ngác/ có gì rất sắc và sâu/ rất ngọt và đau/ phiêu bạt giữa trùng khơi muối mặn”; “Mỗi chúng tôi hóa một lá cờ/ bay vụt lên giữa biển/ dẫu cắn răng đau, dẫu lặng im tan nát/ vẫn mãi đứng đây và hát/ lời nhân dân non nước của mình”; “Mẹ ơi! Nếu mẹ ra tới biển/ có những ngày biển bỗng sáng lên/ ánh sáng ấy từ nghìn năm mở cõi/ từ những ngọn đèn vời vợi trước gian lao/ từ những kiếp người chưa bao giờ yên ngủ nổi/ từ những cuộc đời như mẹ mòn trông”… Trên nền mạch tự sự được tạo bởi tính kết nối của các chi tiết, sự kiện về hành trình sống - chiến đấu - hy sinh của những người lính đất Điêu Lương, người lính trên mọi miền đất nước nói chung, những ý tưởng, cảm xúc được triển khai và tự do tuôn chảy, nhiều khi lấn át mạch tự sự. Đây là một trong những đặc điểm thuộc về “hiện đại tính” của trường ca sau 1975 so với các giai đoạn trước, từng được thể hiện trong một số trường ca về biển đảo: Trường ca biển (Hữu Thỉnh), Hạ thủy những giấc mơ (Nguyễn Hữu Quý), Tổ quốc - Đường chân trời (Nguyễn Trọng Văn),… Điều này khiến cho việc phản ánh và biểu đạt nội dung trữ tình trong các trường ca giai đoạn này được mở rộng chiều kích trong sự kết hợp linh hoạt của ngôi kể, giọng điệu, ngôn ngữ, thủ pháp… giúp phát huy tối đa năng lực sáng tạo và sở trường của mỗi người viết. Tuy nhiên, sự mở rộng những chiều kích này trong trường ca cũng là thử thách không nhỏ với những người viết trẻ như Lữ Mai. Bởi lẽ ở dạng đề tài mang “hơi hướng” sử thi, có khả năng ôm chứa cả những vấn đề lớn của lịch sử dân tộc lẫn thân phận con người như đề tài biển đảo, nếu không đủ độ đằm chín của suy tư, cảm xúc, sự chắc chắn vững vàng về bút lực thì dễ rơi vào tình trạng “hô khẩu hiệu” hoặc các diễn đạt đã trở nên sáo mòn, công thức, đi ngược với nguyên tắc có tính sinh tử của thơ ca. Lữ Mai hẳn cũng ý thức một cách nghiêm túc, đầy cẩn trọng về điều này. Vì thế trong việc triển khai cấu trúc bên trong của trường ca, đã thấy những dụng công đầy chủ ý với nỗ lực đem tới cách thức biểu đạt có nhiều riêng khác ở đề tài dường như đã quen thuộc. Điều này thể hiện qua cách tác giả xử lý, kết hợp một cách khéo léo chất liệu đời sống hiện thực gắn với không gian, con người, câu chuyện, sự kiện về biển đảo và chất liệu văn hóa, tín ngưỡng dân gian, từ đó mở rộng phạm vi và trường liên tưởng về hiện thực, sự cộng hưởng của những cảm xúc suy tư, sự linh hoạt trong các thể nghiệm ngôn từ, thi ảnh, giọng điệu… giúp việc thể hiện thông điệp nghệ thuật trở nên rộng mở, sâu sắc hơn.
3.
Nhìn từ liên kết bề sâu, cấu trúc của Ngang qua bình minh được tạo dựng bởi sự gắn kết giữa cái thực: rừng núi, biển cả, trận mạc, người lính…, các tình tiết, câu chuyện về con người, sự việc diễn ra trong thời gian, không gian cụ thể, xác định với cái huyền bí, hư ảo của những linh thoại, ảo giác, giấc mơ… gắn với không gian tâm tưởng, được tạo dựng từ huyền tích về những “vùng đất thiêng”, từ ý niệm và niềm tin về sự tồn tại của thế giới tâm linh bên ngoài thế giới thực tại đầy hữu hạn của con người. Cái thiêng như một biểu đạt nghệ thuật đầy dụng ý ngầm diễn giải, cắt nghĩa về những gì diễn ra trong thực tại, một thực tại vừa kỳ vĩ, lớn lao, rộng dài liên quan tới vận mệnh dân tộc, vừa riêng tư cá nhân liên quan tới số phận mỗi con người. Sự trưng dụng các lớp ý nghĩa của trầm tích văn hóa trong trường ca này, do thế, thường nương theo mạch cảm xúc, góp phần thể hiện thông điệp nghệ thuật của tác giả. Câu chuyện về “bùa ngải”, “bùa yêu” nơi đồng rừng Điêu Lương là một ví dụ. Từ lời truyền tụng đầy bí ẩn, ma mị, đôi lúc nhuốm vẻ rùng rợn về một thứ phép thuật mang “yêu lực” khiến người ta vừa tò mò vừa sợ hãi, trong Ngang qua bình minh, chỉ dấu văn hóa đậm màu sắc tín ngưỡng vùng miền này được tác giả khai thác ở ý nghĩa khởi nguyên đầy tích cực và nhân bản: niềm khao khát hạnh phúc lứa đôi, mong ước được gắn bó “trọn đời trọn kiếp” bên người mình yêu thương. Vì thế những người đàn bà Điêu Lương khi sở hữu (hay cố gắng để sở hữu) bùa ngải, bùa yêu là đã “đặt cược” số mệnh mình vào đó với niềm tin vào sức mạnh đầy linh nghiệm có thể “dẫn dụ”, “chỉ lối đưa đường” linh hồn những người chồng, người con, người đàn ông của mình từ thăm thẳm trùng khơi trở về đất mẹ: “Bếp lạnh. Nhà lạnh. Chiếu chăn lạnh. Chiếc áo bạc màu run rẩy tái xanh. Mây đổ xuống Điêu Lương như biển trắng. Những linh hồn sóng sánh ngả vào nhau/ Người càng đớn đau, ngải càng linh nghiệm. Tình yêu từ tiền kiếp sẽ sinh sôi”; “Cùng khi đó những người đàn bà trở dậy nhóm bếp. Rót rượu hạ thổ từ chum sành, gọi ngải. Bùa yêu ơi, xin mở lại con đường”… Hình ảnh những người đàn bà Điêu Lương “ngậm ngùi nuôi những mùa ngải đắng/ gửi kẻ tha hương hình bóng một vầng trăng” trở thành một day dứt, ám ảnh, gợi ý niệm về sự cô đơn, mất mát, bi kịch: “Vùng Điêu Lương nổi tiếng bùa yêu. Nhưng chỉ để trao cho những vùng đất khác. Còn xứ này, đàn bà tóc xanh hay tóc bạc, đều cô đơn”. Từ trầm tích văn hóa, câu chuyện bùa ngải, bùa yêu trở thành một tín hiệu thẩm mĩ mang thông điệp về thân phận con người, thân phận phụ nữ trong dòng chảy thăng trầm của lịch sử: “rồi chợt ta thấy mẹ/ người suốt đời trồng ngải gọi bùa yêu/ vườn ngải già thành nơi trông cậy/ sau cuối chỉ còn đắng đót giọt đau”; “Những kiếp đàn bà nuôi ngải đắng gọi bùa/ trò thiêng cũ phiêu linh theo đời lính/ hạnh phúc hình hài hoa bão táp/ năm cánh trắng mong manh một phía xếp về”… Trong thơ Lữ Mai từng xuất hiện những bài thơ, câu thơ đầy ám ảnh về “phận đàn bà” với nỗi đau hậu chiến, “nỗi đau nhang khói”: “Người đàn bà tháng bảy/ theo hồi chuông mang ký ức quay về/ âm dương tìm nhau khói nhang cách biệt/ trong cơn khóc trẻ thơ/ hương huệ trắng vẫn còn thảng thốt” (Những hồi chuông cỏ dại). Dường như trái tim phụ nữ với sự yếu mềm cố hữu khiến những vần thơ của chị ở trường ca này, dù trong hào sảng ngân vang vẫn có những quãng lắng sâu da diết, buốt nhói một niềm xót đau, thương cảm: “mẹ chôn chiếc ba lô đắp thành mộ gió/ chôn tuổi xuân mình/ chôn mái tóc xanh”; “tóc mẹ buốt sương khuya/ lạnh từng mũi kim suốt đời vá víu/ chạm mặt vải thêu nhóng nhánh trăng vàng/ hoang mang kéo vào ngày rạng”; “nước mắt em chôn vội rặng tóc tiên/ chẳng tiễn kẻ đi chỉ đăm đăm theo đường mòn lũ kiến/ tưởng tượng ta bé mọn đủ để em nhìn”… Đó là những quãng lặng quý giá, chạm tới giá trị cốt tủy và vĩnh hằng của thi ca.
Huyền tích đồng rừng về bùa ngải, bùa yêu bên cạnh linh thoại, ảo giác, giấc mơ trong cõi tâm linh vô thức, nơi trùng khơi thăm thẳm “tiếng chuyện trò lẫn lời sóng gió”, “người đã khuất thức cùng người sống” đã tạo nên một không gian nghệ thuật đậm chất huyền hoặc, ở đó diễn ra câu chuyện vừa thiêng liêng hào sảng, vừa “bình dị từ tâm” về những người lính và cuộc chiến giữ gìn, bảo vệ, khẳng định chủ quyền đất nước. Ở đó, “mỗi số phận chứa một phần lịch sử” giúp ta thức nhận rõ hơn ý nghĩa của những nỗi đau, sự hy sinh, dâng hiến, để thêm gắn bó, tha thiết hơn với con người, với cuộc đời này.
Chia sẻ về sứ mệnh của thơ ca, nhà thơ Nguyễn Hữu Quý cho rằng: “Dù chiến tranh hay hòa bình, thơ cũng phải có trách nhiệm với Tổ quốc và nhân dân, đó vừa là nghĩa vụ, vừa là tình cảm của người cầm bút. Nhưng để chuyển tải được tư tưởng, nội dung lớn, thơ cần có chất lượng nghệ thuật cao”. Trong một tương quan và đòi hỏi như vậy, việc lựa chọn những thể loại “nặng ký” như trường ca để biểu đạt tư tưởng, cảm xúc lớn về dân tộc, nhân dân ở các tác giả trẻ như Lữ Mai, tuy có chút “liều lĩnh” song thật đáng quý, đáng trân trọng. Chúng ta mong chờ và tin tưởng sự “liều lĩnh” ấy, cùng nội lực và khát vọng dấn thân sẽ tạo nên nguồn năng lượng và sinh khí mới cho những bứt phá sáng tạo trong tương lai của chị.
Đ.T.T
(SHSDB41/06-2021)
HOÀNG NHƯ MAI - NGUYỄN VĂN HẤN Cùng với những tập quán cổ truyền ngày Tết dân tộc, từ cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến nay, nhân dân ta đã có thêm một tập quán quý báu nữa: đọc thơ chúc Tết của Bác Hồ.
NGÔ MINHTôi đọc và để ý đến thơ Đông Hà khi chị còn là sinh viên khoa văn Trường Đại học Sư phạm Huế. Thế hệ này có rất nhiều nữ sinh làm thơ gây được sự chú ý của bạn đọc ở Huế và miền Trung như Lê Thị Mỹ Ý, Nguyễn Thanh Thảo, Huỳnh Diễm Diễm.v.v... Trong đó có ấn tượng đối với tôi hơn cả là thơ Đông Hà.
NGUYỄN ANH TUẤNKhông gian trữ tình không là một địa danh cụ thể. Mặc dù có một “thôn Vĩ” luôn hiện hữu hết sức thơ mộng trên toàn đồ trực diện thẩm mỹ của bài thơ, với những màu sắc, hình ảnh, đường nét:…
KHÁNH PHƯƠNGNhân cách văn hóa của nhà văn có thể được biểu hiện bằng những hành động, thái độ trong đời sống, nhưng quan trọng hơn, nó chi phối nhân cách sáng tạo của nhà văn.
HỒNG DIỆUTrương Mỹ Dung đời Đường (Trung Quốc) có một bài thơ tình yêu không đề, được nhiều nhà thơ Việt Nam chú ý.
NGUYỄN KHOA BỘI LANMột hôm chú Văn tôi (Hải Triều Nguyễn Khoa Văn) đọc cho cả nhà nghe một bài thơ mà không nói của ai.
NGUYỄN QUANG HÀTôi nhớ sau thời gian luyện tập miệt mài, chuẩn bị lên đường chi viện cho miền Nam, trong lúc đang nơm nớp đoán già đoán non, không biết mình sẽ vào Tây Nguyên hay đi Nam Bộ thì đại đội trưởng đi họp về báo tin vui rằng chúng tôi được tăng viện cho chiến trường Bác Đô.
LÊ HUỲNH LÂM(Đọc tập truyện ngắn “Thõng tay vào chợ” của Bạch Lê Quang, NXB Thuận Hóa, 11/2009)
LÊ VŨ(Đọc tập thơ Nháp của Ngọc Tuyết - NXB Thanh niên 2009)
NGÔ MINHÐọc lại Chiếu Dời đô, tôi bỗng giật mình trước sự vĩ đại của một quyết sách. Từng câu từng chữ trong áng văn chương bất hủ này đều thể hiện thái độ vừa quyết đoán dứt khoát với một lý lẽ vững chắc, vừa là một lời kêu gọi sự đồng thuận của triều thần với lời lẽ rất khoan hòa, mềm mỏng.
LÊ HUỲNH LÂMThơ không thể tách rời đời sống con người. Điều đó đã được thời gian minh chứng. Từ lời hát ru của mẹ, những giọng hò trên miền sông nước,… đã đánh thức tình yêu thương trong mỗi chúng ta.
KHÁNH PHƯƠNGNgay từ thuở cùng Trần Mai Châu, Vũ Hoàng Địch, Vũ Hoàng Chương viết tuyên ngôn Tượng trưng, Trần Dần đã mặc nhiên khảng khái công bố quan niệm, thơ bỏ qua những biểu hiện đơn nghĩa của sự vật, sự kiện, đời sống, mà muốn dung hợp tất cả biểu hiện hiện thực trong cõi tương hợp của cảm giác, biến nó thành không gian rộng lớn tiếp biến kỳ ảo của những biểu tượng tiềm thức. Như vậy cũng có nghĩa, nhà thơ không được quyền sao chép ngay cả những cảm xúc dễ dãi của bản thân.
NGUYỄN CƯƠNGSư Bà Thích Nữ Diệu Không (tục danh Hồ Thị Hạnh) sinh năm 1905 viên tịch năm 1997 hưởng thọ 93 tuổi. Lúc sinh thời Sư Bà trụ trì tại Chùa Hồng Ân, một ngôi chùa nữ tu nổi tiếng ở TP Huế, đã một thời là trung tâm Phật giáo ở miền Nam.
HỒNG NHU (Đọc tập “Chuyện Huế” của Hồ Đăng Thanh Ngọc - NXB Thuận Hóa 2008)
NGUYỄN ĐÔNG NHẬTĐọc xong tập sách do họa sĩ Phan Ngọc Minh đưa mượn vào đầu tháng 6.2009(*), chợt nghĩ: Hẳn, đã và sẽ còn có nhiều bài viết về tác phẩm này.
NGUYỄN HỮU QUÝ (Mấy cảm nhận khi đọc Chết như thế nào của Nguyên Tường - NXB Thuận Hóa, 2009) Tôi mượn thuật ngữ chuyên ngành y học (Chăm sóc làm dịu=Palliative Care) để đặt tít cho bài viết của mình bởi Phạm Nguyên Tường là một bác sĩ điều trị bệnh ung thư. Tuy rằng, nhiều người biết đến cái tên Phạm Nguyên Tường với tư cách là nhà thơ trẻ, Chủ tịch Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế hơn là một Phạm Nguyên Tường đang bảo vệ luận án tiến sĩ y khoa.
LÊ THỊ HƯỜNGTìm trong trang viết là tập tiểu luận - phê bình thứ 3 của Hồ Thế Hà. Sau những ngày tháng miệt mài “Thức cùng trang văn” (viết chung với Lê Xuân Việt, được giải thưởng Cố đô 1993 - 1997), Hồ Thế Hà lại cần mẫn “tìm trong trang viết” như một trăn trở đầy trách nhiệm với nghề.
MAI VĂN HOANNguyễn Công Trứ từng làm tham tụng bộ lại, Thị lang bộ Hình, Thượng thư bộ Binh... Đương thời ông đã nổi tiếng là một vị tướng tài ba, một nhà Doanh điền kiệt xuất. Thế nhưng khi nói về mình ông chỉ tự hào có hai điều: Thứ nhất không ai "ngất ngưỡng" bằng ông; thứ hai không ai "đa tình" như ông. Nguyễn Công Trứ "ngất ngưỡng" đến mức "bụt cũng phải nực cười" vì đi vào chùa vẫn mang theo các cô đào.
SICOLE MOZETBà Nicole Mozet, giáo sư trường Paris VII, chuyên gia về Balzac và là người điều hành chính của các hội thảo về Balzac đã làm một loạt bài nói chuyện ở trường Đại học ngoại ngữ Hà Nội, trường Đại học sư phạm Hà Nội, Nhà xuất bản thế giới... Chúng tôi trích dịch một đoạn ngắn trong bản thảo một bài nói chuyện rất hay của bà. Lúc nói bà đã phát triển những ý sau đây dưới đầu đề: Thời gian và tiền bạc trong Eugénie Grandet, và đã gợi cho người nghe nhiều suy nghĩ về tác phẩm của Batzac, cả về một số tác phẩm của thế kỉ XX.
CAO HUY HÙNGLịch sử vốn có những ngẫu nhiên và những điều thần tình mà nhiều người trong chúng ta chưa hiểu rõ. Tỉ như: Thế giới có 2 bản Tuyên ngôn độc lập, đều có câu mở đầu giống nhau. Ngày tuyên bố tuyên ngôn trở thành ngày quốc khánh. Hai người soạn thảo Tuyên ngôn đều trở thành lãnh tụ của hai quốc gia và cả hai đều qua đời đúng vào ngày quốc khánh...