Những tự ngôn vô vọng

11:26 15/09/2011
HOÀNG DIỆP LẠC (Đọc tập “Thơ tự chọn” của Nguyên Quân, Nhà xuất bản Văn học, 8-2011)
[if gte mso 9]> Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 <![endif][if gte mso 9]> <![endif][if gte mso 10]> <![endif]

Vẫn gương mặt tựa như đang ngái ngủ sau mỗi đêm dài phờ phạc trước những tự ngôn hoảng loạn giữa bốn bức tường tâm tưởng, gương mặt ấy như trở về sau chuỗi chứng tích của một thời hoang hoải với buổi tiệc đã tàn. Mỗi sáng, giữa cung trời xứ thơ, những vòng quay cứ lăn đều trên mấy bậc kinh thành, hình bóng của quá khứ được nén chặt trong viên seduxen, để mỗi bước chân được trôi vào mê cung mịt mù sương khói. Mê cung đó là phương trời thi ca lồng lộng gió, và mỗi nốt chữ như một tiếng sét giáng xuống địa cầu để tĩnh thức cõi ngạ quỷ giữa chiều dông tơi tả.

Thơ! Hay chỉ là những giải bày hoặc là thơ và cuộc hoang tưởng tự sướng,… cho dù ở ngữ nghĩa nào thơ cũng góp phần giải phóng những bức bối bao quanh tác giả, với công cụ là các mẫu tự La tinh. Kỳ lạ thay khi chỉ chừng đó các mẫu tự đã làm nên cánh rừng thi ca thâm u, phải chăng để có được sự diệu kỳ đó là do chất liệu sống bên trong mỗi tác giả. Vì vậy mà mỗi người làm thơ đích thực hầu như đều phải dấn thân vào cánh rừng diệu tưởng, con đường đó chỉ có một lối ra cho một vài nghệ sĩ bước vào bằng trái tim vô úy và ánh nhìn rộng lượng.

Những gì đang hoạt diễn trong cuộc sống đã chạm vào các sợi thần kinh của tác giả, mỗi sợi thần kinh như một sợi dây đàn trong cây nhân cầm, tiếng đàn ấy vang và ngân như thế nào là do nội lực người gãy đàn. Có thể nói từ Tĩnh vật đêm, Viết bên hộ thành hào, Chân chữ bát, Mặt cắt phố,… và bây giờ là tập Thơ tự chọn đã khẳng định từng bước chân vào cánh rừng thi ca của Nguyên Quân. Tác giả đã tự cho mình cái quyền lựa chọn những bài thơ để làm thành tập một cách có chủ đích, khi mà cuối mỗi bài thơ đều được định giá một cách rẻ bất ngờ, có thể đây là tập thơ đầu tiên có giá tiền ở cuối mỗi bài thơ. Trong khi tập thơ này được ra mắt bạn đọc, biết bao biến cố và hàng ngàn nỗi âu lo cứ hiển hiện như báo hiệu buổi tiệc trần gian sắp kết thúc:

tôi là kẻ đầu tiên đứng dậy
giữa hai hàng ghế úp mặt vào nhau
cuộc đối thoại lặng câm ý tưởng
nhưng chẳng phải là người thứ 13
trong buổi tiệc cuối cùng

Hình ảnh buổi tiệc ly trong tác phẩm của danh họa Leonardo Da Vinci như hiện ra trước mắt tôi khi đọc những câu thơ trên, chỉ có điều, người thứ mười ba không bao giờ xuất hiện. Đó là trường liên tưởng về tri thức, là một nỗi ám ảnh thường trực đối với tác giả và độc giả. Khi mà các dữ kiện hàng ngày đã ám vào các giác quan của tác giả, để rồi với vốn tri thức có được cùng với tiết nhịp của một kẻ lãng du, Nguyên Quân đã biến những nỗi đau thành câu chữ. Mỗi hình ảnh trong thơ Nguyên Quân như một chứng nhân của thời đại mà văn hào Henry Miller gọi là “Thời của những kẻ giết người”, còn triết gia Nietzsche đã thốt lên lời ta thán bất hữu “Thượng đế đã chết”. Thật ra, thượng đế trong ánh nhìn của Nietzsche đã không còn nữa, khi ông rơi vào cơn câm lặng heo hút và luôn tự tra vấn chính mình bằng câu hỏi “Tôi là ai?”, và cái nhìn của ông về cuộc đời bằng ánh mắt bi thiết đã bị người đời lầm tưởng phần nào về các giá trị nhân văn của ông. Cũng có thể Nguyên Quân đã không biết gã triết gia nào đã nói câu “Thượng đế đã chết”, nhưng với sự gợi mở về những suy tưởng tuyệt vọng đã xô đẩy tâm thức tác giả rơi vào trạng thái vô vọng để rồi anh phải lặp lại lời phán của một triết gia thuộc hệ phái bi tráng. Khi trước mắt anh là những hình ảnh về chết chóc cứ chờn vờn trong mùa mưa bão, mà những kẻ gây ra bi kịch ấy lại thản nhiên trước sự đau đớn của người thân các nạn nhân mà không một lời hối lỗi, điều này càng khiến Nguyên Quân tin rằng “Thượng đế đã chết”:

trên tờ nhật báo cũ của những ngày hôm trước
có gương mặt cười nhăn nhở của gã hiệu trưởng mua trinh trẻ con
ngay trong sân trường học
có những nụ cười méo mó của những đứa con gái bị đi tắt qua thời
thiếu nữ để trở thành đàn bà mười hai tuổi
có thân xác trần truồng của những đứa trẻ bị thả trôi trên sông mùa xả lũ không một tín hiệu
không một tiếng xin lỗi dù thật muộn màng

câu nói vớ vẩn của một gã triết gia nào đó đã trở thành lời tiên tri:
“Thượng đế đã chết!”
                                    (Một buổi sáng)

Thật ra, thế giới thi ca chính là thế giới mà chúng ta đang đối diện, người thơ đang hít thở cái không khí của xã hội tạo nên, và với công cụ của mình, mỗi tác giả đã biểu đạt hiện thực bằng chất liệu mà mình thu nhận được, nếu làm được điều đó bằng nghệ thuật ngôn từ, thì thi ca đã góp phần cải tạo cuộc sống này. Cho dù, bi kịch luôn chờ chực tác giả.

Khi thời gian trở thành liều thuốc thử cho những tâm hồn không còn tinh ròng, thì cứ mỗi thời khắc qua đi chúng ta như đang nhích dần về hố thẳm, hố thẳm trong mỗi người có thể khác nhau, nhưng cái hố thẳm vật lý kia thì rất bình đẳng, cho dù anh đang ở ngôi vị nào thì cũng sẽ đến lúc trở về nơi yên nghỉ cuối cùng. Đó là tâm cảm hư vô do cấu trúc tư duy của chúng ta tạo nên, điều này đã được hình thành từ khi mỗi cá thể vượt qua tử cung để bước vào một cuộc chạy đua với kẻ vô hình mang tên thời gian.

bụi tro ngày cứ chồng lên ngọn lửa mù của tháng
tháng chồng lên lụi tàn năm đã quánh đặc hỗn mang
không còn ai nhận ra nó bắt đầu từ lúc nào rồi sẽ kết thúc ở đâu
                                    (Tự ngôn giữa bốn bức tường)

Hình ảnh và ngôn từ trong tập thơ này như một bức tranh thuộc trường phái biểu hiện, khiến người đọc nhìn ra toàn cảnh của một xã hội đầy rẫy những lo toan, những bất ổn. Nhưng ở phía đằng sau mỗi câu chữ còn ẩn dụ bao điều muốn nói, khi tác giả vẽ lên sự im lặng vĩnh hằng của cả thế giới và rồi chỉ để lắng nghe một chiếc lá rơi.

cả thế giới bỗng dưng yên tĩnh lắng nghe một chiếc lá rơi
không ai biết cuối dòng sông là hải đảo
có một người vừa bị bắn chết nằm úp mặt trên dải san hô
vô danh giữa thời bội bạc

và rồi trong khi trở về với những chiều mây bay, tưởng rằng đó là an bình là tự tại nhưng tác giả lại chợt thấy:

phía sau những ngôi nhà tranh tre tướp gió
có một người ngồi ngó mây bay
để chợt thấy mình hèn đi
hay có thể đã bị tước đoạt quyền sơ đẳng làm người

                                                (Và bắt đầu một ngày)

Khi một người nghệ sĩ nhìn về một người nghệ sĩ thì khác hẳn những ánh mắt bình thường, những ánh mắt âm mưu, những ánh mắt đầy vụ lợi,… bởi vì tâm hồn của thi nhân luôn đón nhận những gì trực cảm xuyên qua rào chắn duy lý, có thể trong tâm thái đó Nguyên Quân chợt nhận thấy hình ảnh đẹp của một người hát rong, khi ông ôm đàn lang thang qua nỗi chết:

Tôi từng thấy ông ôm cây guita đẫm ướt nước mắt
đi qua thành phố hoang tàn đổ nát
qua những mồ chôn tập thể
qua những phiến âm khóc vùi
của lũ trẻ bỗng dưng mồ côi

Đọc tập thơ của Nguyên Quân, như đọc những dòng tự ngôn cuối cùng của một tử tù, phải ở trong trường thức ấy mới nghiệm thấy những vết nứt bắt đầu lộ diện mỗi ngày một lớn dần, nỗi ám ảnh về vết nứt đó như những đường gân gồ lên trong kí ức, may mắn thay thi ca như sự cứu rỗi cuối cùng đã níu giữ lại khoảng trời tâm tưởng, để sự đổ vỡ được xảy ra trong một trật tự tương đối. Khi mà câu chữ như những ám tự hoạt hiện, bắn phá vào bức tranh ấn tượng với những gam màu lạnh lùng, gợi lên không khí chết chóc. Người ta vẫn thường nhắc lại câu nói của ai đó rằng “văn là người”, nhưng theo tôi thơ Nguyên Quân không giống con người đó, làm sao giống được khi mỗi cá thể phải vật lộn mưu sinh, phải nhập nhiều vai diễn trong cuộc sống,… đó là sự khác biệt về cách nhìn nhận, đánh giá mỗi con người. Chúng ta hãy đọc những dòng tự ngôn trên để thấy rằng, trong lăng kính muôn màu muôn vẻ này, mọi khuôn thước cần được phá hủy để làm mới lại, may ra mới có cơ may hàn gắn những vết nứt gãy xám xịt kia.

H.D.L
Hiên An Tây, 5-8-2011
(271/09-11)







Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • VŨ NGỌC KHÁNHLTS: Ngày 17-11-2007, tại Văn miếu Quốc tử giám Hà Nội, Trung tâm Minh Triết Việt đã tổ chức Lễ tưởng niệm các nhà giáo Đông Kinh Nghĩa Thục. Giới trí thức học thuật của Hà Nội, nhiều thanh niên, sinh viên và hậu duệ của một số nhà Đông Kinh Nghĩa Thục (ĐKNT) đã đến dự.

  • MAI VĂN HOAN     Nhà xuất bản Văn học vừa ấn hành tập thơ Cõi lặng của Nguyễn Khoa Điềm. Cõi lặng gồm 56 bài, đa phần được viết sau khi tác giả nghỉ hưu. Điều đó cũng là lẽ thường. Các nhà thơ như Nguyễn Trãi, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến... đều như thế cả. Khi đương chức họ bận trăm công nghìn việc. Phải đến lúc nghỉ hưu họ mới sống thoải mái hơn, dành nhiều thời gian cho thơ hơn. Đọc Cõi lặng ta mới thấu hiểu tâm trạng của nhà thơ, mới nghe được nhịp đập của một trái tim nhiều trăn trở.

  • HỒNG NHU“Trường đại học của tôi” là cuốn sách thứ 4 của Nguyễn Nguyên An (tức Nguyễn Văn Vinh) trình bạn đọc trong khoảng mười năm trở lại đây. Ba cuốn trước là truyện ngắn, cuốn này là truyện dài.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊChỉ mới qua hai tác phẩm “Báu vật của đời”(NXB Văn nghệ TPHCM, 2001) và “Đàn hương hình”(NXB Phụ nữ, 2002), Mạc Ngôn - nhà văn “hạng nhất” thuộc Cục Chính trị Bộ Tổng Tham mưu Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc - đã trở nên nổi tiếng ở Việt Nam, thậm chí đã vượt lên cả những “ngôi sao” quen thuộc như Giả Bình Ao, Trương Hiền Lượng, Vương Mông... và cả nhà văn Cao Hành Kiện (Noben 2001).

  • ĐỖ XUÂN NGÂNTôi hân hạnh được đọc tác phẩm Đời hoa, tập tản văn của nhà văn Nguyễn Khắc Phê do Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành 1999.

  • NGUYỄN QUANG HÀ(Đọc Lãng Đãng Mây Trời của Thanh Nhơn - NXB Thuận Hoá - năm 2001)Gấp tập thơ "Lãng đãng mây trời" lại, tôi như thấy dưới mái tóc bồng bềnh trong gió của ông là cặp mắt nhìn xa xăm, phiêu diêu, và quanh đâu đây là hương rượu nếp thơm nồng toả ra từ vành môi tủm tỉm cười của ông.

  • HOÀNG BÌNH THI (Đọc thơ HÀ MINH ĐỨC)Trong cơn mưa đầu mùa tầm tã của xứ Huế, tôi đọc lại những bài thơ của giáo sư Hà Minh Đức với một nỗi buồn riêng. Một chút ngạc nhiên mà chẳng ngạc nhiên chút nào, khi song hành với sự uyên bác trong học thuật là một tâm hồn nhạy cảm và tinh tế vô cùng.

  • LÊ THIẾU NHƠN(Tản văn và bình văn của nhà văn - nhà báo Trần Hữu Lục)Một cuốn sách tập hợp những bài báo của nhà văn Trần Hữu Lục sau nhiều năm anh đồng hành với bè bạn văn nghệ.

  • HOÀNG KIM ĐÁNGÔng nhà văn Thổ Nhĩ Kỳ này là một trong những nhà văn châm biếm đứng hàng đầu thế giới. Hai mươi năm trước, ông đã đến Việt . Sở dĩ tôi khẳng định chắc chắn như vậy, bởi tôi có trong tay dòng bút tích ghi rõ năm tháng và chữ ký của tác giả; thậm chí còn chụp ảnh kỷ niệm với ông nữa. Tấm ảnh ấy, những dòng bút tích ấy, hiện còn lưu giữ trong cuốn truyện "NHỮNG NGƯỜI THÍCH ĐÙA", sách đó Nhà xuất bản Tác Phẩm Mới của Hội Nhà văn Việt Nam xuất bản lần thứ nhất.

  • HỒ THẾ HÀ(Đọc Cho từng ánh lửa, tập thơ của Hải Trung, NXB Thuận Hoá - Huế, 1999)Sự hiện diện của thơ Hải Trung trong đội ngũ những người sáng tác trẻ ở Huế là một niềm vui sau nhiều năm lặng lẽ âu lo của nhiều người về thế hệ làm thơ kế cận của xứ sở được mệnh danh là giàu mơ mộng thi ca này.

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG(Đọc tập truyện "Ngôi nhà hoang bí ẩn" của Phan Văn Lợi)Tôi đọc mê mải tập truyện đầu tay của tác giả Phan Văn Lợi. Cái tựa "Ngôi nhà hoang bí ẩn" gợi trong lòng người đọc một câu hỏi ban đầu: Cuốn sách viết về cái gì đây? Càng đọc, càng bị cuốn hút khi cùng anh trở lại miền ký ức, để đi qua những năm tháng chiến tranh khốc liệt.

  • LÊ MỸ ÝSau một loạt tác phẩm và tác giả được giới thiệu trên nhiều lĩnh vực tôn giáo, triết học, văn hoá, khoa học và nghệ thuật để làm tư liệu nghiên cứu và tham khảo, trong quý một năm nay, Nhà xuất bản Văn học lại tiếp tục cho ra mắt bộ sách lớn:"Krishnamurti - cuộc đời và tư tưởng" do Nguyễn Ước chuyển ngữ. Đây là một bộ sách công phu và được nhiều độc giả chờ đợi đón đọc.

  • VĂN CẦM HẢI       (Nằm nghiêng - Thơ- Nxb Hội Nhà văn 5/2002)Trên đất Thư "viết buồn thành mưa". Dưới trời Thư "viết buồn thành gió". Giữa đời Thư "viết nỗi buồn sống".

  • TRẦN THUỲ MAIThơ Ngàn Thương bàng bạc một nỗi quan hoài. Trong thơ anh, ta luôn gặp một vẻ quyến luyến ngậm ngùi, đúng như ấn tượng từ cái bút danh của tác giả: Ngàn Thương.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠOLTS: Vậy là đã đúng một chu kì World Cup, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường bị “cải bệnh hoàn đồng” và phải tập ăn tập nói, tập đi tập đứng lại từ đầu. Dù vậy, anh vẫn viết được và viết hay như trước.Trong dịp Festival Huế 2002, đã diễn ra một cuộc hội thảo văn học về Hoàng Phủ Ngọc Tường nhân bộ tuyển tập của anh được Công ty Văn hóa Phương ấn hành.Sông Hương xin trân trọng giới thiệu một số ý kiến đã thành văn được trình bày trong hội thảo đó.

  • NGUYỄN THIỀN NGHIHai chữ "Trăng lạnh" trắng trên nền bìa màu lam do tác giả tự trình bày bềnh bồng một chút tôi bằng những bài thơ tự sự của mình.

  • VỌNG THẢO(Đọc sách "Nhà văn Thừa Thiên Huế" – NXB Thuận Hoá 2002).Trải qua nhiều thế kỷ, Huế bao giờ cũng là miền đất tụ hội nhiều nhân tài văn hoá - văn học của đất nước. Trong bảng quang phổ bản sắc Việt Nam vô cùng bền vững, miền đất hội tụ nhân tài ấy luôn đằm thắm, lấp lánh một bản sắc "thần kinh" riêng biệt - một bản sắc mà tiếng nói của văn chương là thuần khiết và đa dạng.

  • NGUYỄN VĂN HOA           Tôi đã đọc sách Ăn chơi xứ Huế của nhà thơ Ngô Minh (*) một mạch như bị thôi miên. 247 trang sách với 36 bài bút ký viết về triết lý ẩm thực Huế, về các món ăn Huế như tiệc bánh, cơm muối, mè xửng, tôm chua, chè Huế, bánh canh, bún gánh, nem lụi, hôvilô (hột vịt lộn), bánh chưng, bánh khoái, cơm chay, chè bắp, món vả trộn, cháo lòng, rượu Minh Mạng Thang...

  • KIM QUYÊNĐọc tản văn của nhà văn Mai Văn Tạo (*) và nhà văn Trần Hữu Lục (*) tôi như đứng trên những tảng mây lấp lánh sắc màu, theo gió đưa về mọi miền, mọi nẻo quê hương.

  • HƯƠNG LANGuy de Maupassant sinh ngày 5-8-1850 ở lâu đài xứ Normandie. Trong một gia đình quý tộc sa sút. Khi mà nước Pháp vừa trải qua cuộc đụng đầu lịch sử giữa giai cấp tư sản hãy còn nhức nhối những vết thương thất bại của cuộc cách mạng năm 1848.