Những suy nghĩ từ đại hội đại biểu Hội Mỹ thuật Việt Nam

10:45 18/03/2010
ĐẶNG MẬU TỰU- PHAN THANH BÌNH5 năm hoạt động mỹ thuật sôi nổi, đầy trăn trở và suy nghĩ đã trôi qua, Phân- Chi hội mỹ thuật Thừa Thiên Huế đã có nhiều cơ hội để nhìn lại đánh giá những gì mà mình đã làm được.

Họa sĩ Đặng Mậu Tựu bên tác phẩm sơn dầu

Chúng ta có thể nêu ra những con số cụ thể về thành tích và số lượng các triển lãm cũng như các con số hoạt động mỹ thuật khác. Tuy nhiên điều mà chúng ta muốn nói là những khúc xạ từ các hoạt động mỹ thuật ấy bởi vì chúng chỉ ra được mọi nguyên nhân giữa hai trung tâm lớn Hà Nội- TP.HCM thì cũng không khó để nhìn nhận, đánh giá xác đáng những cái được và chưa được vừa qua.

Huế là một vùng văn hóa truyền thống, mỹ thuật hiện đại Huế đã được xác lập từ thế kỷ XX, nhiều họa sĩ Huế được công chúng biết đến, như trước đây là Nguyễn Khoa Toàn, Tôn Thất Đào, Phạm Đặng Trí.v.v... rồi tiếp đó là Vĩnh Phối, Đỗ Kỳ Hoàng, Hồ Hoàng Đài, Tôn Thất Văn, Đinh Cường và đến nay là đội ngũ đáng kể với gần 60 hội viên TW và địa phương (trong đó có 34 hội viên TW) và trên 100 họa sĩ ngoài Hội. Rõ ràng về lực lượng sáng tác hội họa Huế thực sự có tiềm năng với số lượng chỉ đứng sau Hà Nội và TP.HCM nhưng phong trào mỹ thuật Huế lại còn mờ nhạt so với 2 thành phố nói trên. Đành rằng chúng ta tự thấy đội ngũ sáng tác mỹ thuật ở Huế vẫn còn mỏng, số lượng và chất lượng nghệ thuật còn khiêm nhường, nhiều tranh của Huế được xem là đẹp nhưng có vẻ đều đều, lắng đọng, nhẹ nhàng chứ không tạo được những đột biến thẩm mỹ một cách mạnh bạo. Cho dù các họa sĩ Huế không thiếu lòng nhiệt tình, niềm đam mê sáng tác cũng như những khát vọng và ước mơ về cuộc sống. Mặt khác ở Huế cũng chưa thật sự có được lớp công chúng yêu thích mỹ thuật đông đảo, như ở Hà Nội- TP.Hồ Chí Minh cũng như chưa thể xã hội hóa bằng các hoạt động mỹ thuật và còn biết bao hạn chế khác. Nhưng vượt lên “sức ép” của hai đầu, vượt lên khó khăn của đời sống kinh tế và thiếu thốn nhiều mặt về thông tin nghệ thuật, triển lãm, sự giao lưu, tiếp xúc... các họa sĩ Huế vẫn say mê, nhiệt tình sáng tác và nhiều họa sĩ cũng đã lặn lội triển lãm ở xứ người, TP. Hồ Chí Minh và Hà Nội. Dù có lúc thành công, có lúc cũng gần như thất bại nhưng nhờ vậy không ít người đã rút ra được bài học và kịp thời điều chỉnh một cách tích cực, hòa nhập vào “diễn đàn” nghệ thuật chung của đất nước trong thời kỳ mở cửa. Cũng từ đó với 5 năm hoạt động sáng tạo anh chị em họa sĩ Huế nói chung và họa sĩ tập hợp trong “ngôi nhà” của Hội VHNT- Thừa Thiên Huế đã có không ít day dứt, suy nghĩ và cũng không phải dễ trao đổi nếu không thực sự cần tiến và bằng cái tâm của mình.

Một chặng đường đã qua từ thực tiễn hoạt động của mình chúng tôi có thể nêu ra những nghĩ suy, ý kiến ngắn để cùng trao đổi và hy vọng góp thêm tiếng nói hữu ích cho Hội mỹ thuật Việt Nam và phong trào mỹ thuật Huế trong chặn đường tới:

1. Để các phân hội mỹ thuật địa phương, các chi hội mỹ thuật TW hoạt động tốt thì Nhà nước và TW Hội cần tăng cường xây dựng đầu tư cho hoạt động sáng tác một cách chiến lược và hiệu quả hơn. Có thể tổ chức các triển lãm và xây dựng các trung tâm mỹ thuật ở các địa phương để tránh tình trạng xảy ra trong thời gian qua là: Hoạt động mỹ thuật ở 2 thành phố lớn thì quá tải còn ở các địa phương thì lại hết sức ít ỏi, và nếu có hoạt động mỹ thuật của TW tại địa phương thì chất lượng chưa cao, đôi khi còn hình thức, cẩu thả và thiếu tính “đi đầu”, định hướng và thiếu cả sự thuyết phục thẩm mỹ.

2. Hội cần tổ chức nhiều hơn các trại sáng tác mỹ thuật, từ đó góp phần thúc đẩy mỹ thuật ở khu vực phát triển, mặt khác cũng cần tổng kết đánh giá một cách xác đáng về hiệu quả và chất lượng của các trại, bởi vì ít nhiều trong thời gian qua một số trại sáng tác được tổ chức vẫn còn mang tính hình thức, hiệu quả chưa cao. Điều này không chỉ thấy ở các trại sáng tác địa phương theo kiểu “phát kinh phí- thu tác phẩm” mà còn xảy ra ở các trại sáng tác ngay giữa Thủ đô Hà Nội.

3. Từ khi tổ chức các triển lãm khu vực thì số lượng tác giả, tác phẩm tăng lên nhưng cũng từ đó đã nảy sinh những vấn đề mới do thực tiễn đặt ra đó là khu vực nào chỉ biết sáng tác của khu vực ấy, từ đó dẫn đến sự cục bộ, quen biết nhàm chán. Nên chăng Hội vừa tổ chức triển lãm khu vực vừa tìm cách để công chúng thấy được các mặt mạnh yếu của từng vùng cũng như toàn cảnh diện mạo mỹ thuật Việt Nam, tránh tình trạng “cát cứ” khu biệt đã xảy ra hiện nay. Giải pháp có tính khả thi là cần tổ chức các triển lãm trọng điểm, luân chuyển với những tác phẩm được chọn lọc từ các triển lãm khu vực.

4. Hội cần tạo điều kiện thông tin báo chí, sách vở cho các hội viên địa phương, mỗi hội viên cần được nhận các số báo chuyên ngành. Sự đói thông tin không có điều kiện xem các phiên bản mới, các thông tin triển lãm quốc tế... cũng đã gây nên nhiều “bi, hài kịch” cho sáng tác ở nhiều địa phương, (ví dụ ở Huế có một triển lãm sắp đặt- không gian (installation), các phương tiện thông tin địa phương đã coi như là một hiện tượng nghệ thuật “độc đáo”, “mới lạ” thực ra thế giới đó đã quá quen thuộc với Installation từ 1960- 1985, ở Hà Nội- Sài Gòn từ 90 đến nay cũng đã có nhiều triển lãm như vậy rồi). Vì vậy trong nhiệm kì tới, Hội cần chú trọng hơn việc truyền đạt thông tin mỹ thuật đến hội viên đầy đủ và phong phú, đa dạng hơn.

5. Huế là một trong các Trung tâm văn hóa của đất nước vì vậy Hội Văn học nghệ thuật, Phân- Chi hội Mỹ thuật Thừa Thiên Huế sẽ cố gắng tổ chức các hoạt động mỹ thuật có quy mô lớn. Trong đó có các triển lãm trao đối, giao lưu giữa các tỉnh, thành phố trong cả nước, vì vậy chúng ta rất mong muốn được TW Hội quan tâm, tạo điều kiện để làm tốt công việc này, và nếu vậy thì phong trào mỹ thuật Huế nói riêng và mỹ thuật Miền Trung nói chung sẽ có nhiều cơ hội để hòa nhập và phát triển tốt hơn.

6. Các hoạt động mỹ thuật ở Huế trong những năm vừa qua chủ yếu là do Hội VH-NT, Ban Văn hóa Thành phố, Trường Đại Học Nghệ thuật Huế tổ chức, tự bỏ kinh phí để triển lãm. Nhưng xét về góc độ quản lí thì thiếu một cơ quan văn hóa quan trọng, với chức năng- nhiệm vụ được Nhà nước quy định là tổ chức các hoạt động mỹ thuật ở các địa phương, đó là Sở Văn hóa Thông tin. Dường như Sở VHTT luôn “đứng ngoài” các cuộc triển lãm, có chăng là liên quan đến Phòng Quản lí văn hóa khi Nhà nước quy định phải có giấy phép thông qua phòng này mới được triển lãm. Đây quả thật là một vấn đề cần phải “giải tỏa”, Hội và Ban văn hóa với trách nhiệm chính là tập hợp, động viên đội ngũ sáng tác, còn triển lãm, công bố tác phẩm không phải là nhiệm vụ cơ bản của các Hội và Ban văn hóa, thế mà trong nhiều năm qua các tổ chức và cơ quan này phải gánh một việc mà lẽ ra Sở VHTT làm thì đúng trách nhiệm hơn.

Đ.M.T - P.T.B
(133/03-2000)



 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • PHẠM THỊ LYTôi viết những dòng này vì biết rằng giáo sư Cao Xuân Hạo sẽ không bao giờ trả lời bài viết của một tác giả như anh Phạm Quang Trung và những gì mà anh đã nêu ra trong bài "Thư ngỏ gửi Giáo sư Cao Xuân Hạo đăng trên Tạp chí Sông Hương số 155, tháng 1-2002.

  • LÝ HOÀI THU“Hoàng Hà nhớ, Hồng Hà thương” ( *) (nguyên bản: Hoàng Hà luyến, Hồng Hà tình) là tác phẩm hồi ký của bà Trần Kiếm Qua viết về lưỡng quốc tướng quân Nguyễn Sơn và đại gia đình Trung Việt của ông. Bằng sức cảm hoá của những dòng hồi ức chân thực, tác phẩm của phu nhân tướng quân đã thực sự gây xúc động mạnh mẽ trong lòng bạn đọc Việt .

  • NGUYỄN BÙI VỢICách mạng tháng Tám thành công, Phùng Quán mới 13 tuổi. Mồ côi cha từ năm 2 tuổi, cậu bé sinh ra ở làng Thuỷ Dương xứ Huế chỉ được học hết tiểu học, sáng đi học, chiều giúp mẹ chăn trâu, có năm đi ở chăn trâu cho một ông bác họ.

  • TRẦN HUYỀN SÂM Người tình là một cuốn tiểu thuyết hiện đại nổi tiếng của M.Duras. Tác phẩm đoạt giải Goncourt 1984, và đã từng gây một làn sóng xôn xao trong dư luận. Người tình được tái bản nhiều lần và được dịch ra nhiều thứ tiếng khác nhau trên thế giới. Tác phẩm cũng đã được chuyển thành kịch bản phim 1992 (qua đạo diễn Jean-Jacques Annaud).

  • ĐÀO NGỌC CHƯƠNGCho đến nay những ý kiến về phương diện thể loại của tác phẩm Chơi giữa mùa trăng của Hàn Mặc Tử vẫn chưa thống nhất. Theo Trần Thanh Mại, đó là bài văn xuôi: “Nay xin đơn cử ra đây một vài đoạn của một bài văn xuôi của Hàn để chứng tỏ thêm cái sức cảm thụ vô cùng mãnh liệt ở nơi nhà thơ lạ lùng ấy.

  • TRẦN NHẬT THƯTrong tiến trình nghệ thuật nhân loại, bên cạnh một thế giới hết sức “quan phương”, “hoàn kết” bao giờ cũng là một “thế giới lộn trái” đầy mê hoặc.

  • NGUYỄN XỚNXét trên quy mô toàn cầu, vào những năm cuối của thế kỷ XX, trước sự phát triển phi mã của công nghệ và ý thức máy tính, văn học đã biểu hiện nhiều vấn đề rất đáng quan tâm. Thực tế này được mang vào thế kỷ mới một cách dễ dàng, không hề gặp một sự kiểm soát nào.

  • BÙI MINH ĐỨCLGT: Công trình khảo cứu dưới đây, phần lớn đã được công bố trong Hội thảo khoa học “Tây Sơn - Thuận Hóa và Anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ - Quang Trung”. Một số báo, tạp chí đã lược trích đăng một phần bài viết. Mới đây, tác giả-bác sỹ Bùi Minh Đức (Hội viên Hội Tai Mũi Họng và Đầu Cổ Hoa Kỳ (Fellow), Hội viên Hội Mũi Học Hoa Kỳ (Fellow), Hội viên Hội Tai Mũi Họng và Đầu Cổ Đức Quốc (FachArzt HNO), nguyên Chủ nhiệm Bộ Môn Tai Mũi Họng, Đại học Y Khoa Huế trước 1975) đã gửi cho SÔNG HƯƠNG công trình khảo cứu này (có sửa chữa và bổ sung) để độc giả tạp chí có đầy đủ tư liệu. Trân trọng những lý giải khoa học hết sức mới mẻ của tác giả, SÔNG HƯƠNG xin giới thiệu toàn văn công trình này.

  • BỬU NAM Gặp Trần Đình Sử trong một hội thảo lớn toàn quốc, hội thảo "Tự sự học" do anh đồng khởi xướng và đồng tổ chức, tôi xin anh một cuộc trò chuyện về tình hình lý luận và phê bình văn học hiện nay. Anh vui vẻ gật đầu và nói: "Gì thì gì không biết, chứ với Tạp chí Sông Hương, tôi không thể khước từ. Trước hết, đây là một tạp chí văn học đứng đắn, có sắc thái riêng, vả lại còn là tình cố hương, bởi dù gì thì gì tôi vẫn là người con của xứ Huế cố đô."

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO(Nhân đọc 2 bài viết của Nguyễn Thanh Sơn và Nguyễn Hòa)*

  • PHẠM PHÚ PHONGNguyễn Huy Thiệp là một trong những hiện tương văn học hiếm hoi. Ngay từ những truyện ngắn đầu tay như Huyền thoại phố phường, Muối của rừng, Tướng về hưu... tên tuổi của anh đã nổi bật trong và ngoài nước.

  • PHONG LÊ(Nhìn từ bình diện ngôn ngữ)Dân tộc là một phạm trù lịch sử. Văn học dân tộc do vậy cũng là một phạm trù lịch sử, hình thành và phát triển theo lịch sử.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN“…Tất cả những sự cách tân này cần thiết cho sau đó một chủ nghĩa cổ điển mới có thể xuất hiện…”            Paul Valéry

  • TRẦN HUYỀN SÂMNgười ta nói “Phê bình là bà đỡ cho tác phẩm”, nhưng người ta cũng nói: “Nhà phê bình là con chó ăn theo nhà văn”.

  • NHỤY  NGUYÊN thực hiện

     

    Thi nhân Việt Nam hiện đại  - bộ bản thảo trường thiên hoành tráng về nền thi ca Việt hiện đại dự tính 4.000 trang khổ 15,5 x 20,5 cm, bao gồm 2.200 trang tiểu luận và 1.800 trang tuyển thơ của nhà phê bình văn học Thái Doãn Hiểu.

  • NGUYỄN VĂN THUẤNLTS: Nhóm nghiên cứu, lý luận phê bình trẻ” bao gồm sinh viên và cán bộ giảng dạy trẻ đến từ các trường đại học ở Huế (chủ yếu là Khoa Ngữ văn - ĐHSP Huế), với sự chủ trì của Ts. Trần Huyền Sâm. Nhóm hình thành trong tháng 6 - 2008 vừa qua với sự giúp đỡ của Tạp chí Sông Hương và Nhà sách Cảo Thơm.

  • Trong hoạt động văn học, cùng với mối quan hệ giữa tác phẩm với hiện thực, tác phẩm với nhà văn, mối quan hệ giữa tác phẩm và bạn đọc cũng đóng một vai trò rất quan trọng trong quy trình vận hành từ hiện thực - nhà văn - tác phẩm đến bạn đọc.

  • LTS: Ngày 19/12/2007, Ban Bí thư Trung ương Đảng quyết định thành lập Hội đồng lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật. Sau một thời gian chuẩn bị chu đáo, Hội đã có buổi ra mắt nhân dịp gặp mặt thân mật đại biểu cơ quan báo chí toàn quốc vào ngày 20/5/2008.Chúng tôi xin lược trích bài phát biểu của đồng chí Phùng Hữu Phú - Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ tịch Hội đồng lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương.

  • Thuyết phân tâm học của S.Freud và về sau là C.G.Jung và các người kế nghiệp đã có ảnh hưởng sâu rộng đến tư tưởng của con người hiện đại, bao gồm cả nhiều lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực văn học nghệ thuật. Tuy vậy, ở ta, do nhiều lý do chủ quan và khách quan, chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu về sự ảnh hưởng của phân tâm học trong văn học - nhất là văn học hiện đại Việt .

  • Trong thập niên 1970 danh từ thi pháp (poétique) trở thành thông dụng, thi pháp học dần dần trở thành một khoa học phổ biến, dính liền với ngành ngữ học, trong một khung cảnh học thuật rộng lớn hơn, là khoa ký hiệu học.