Những nốt trầm giăng ngang mặt đất

14:40 05/01/2024

LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG

Một trong những yếu tố tác động đến các nhà thơ trẻ đó là tính toàn cầu hóa, giao lưu văn hóa, tiếp nhận những trào lưu thi ca qua internet, sách báo, mạng xã hội...

Cái không khí chộn rộn ấy dường như Đoàn Văn Mật đều biết, đều thấm cả. Nhưng anh lại chọn một hướng đi khác, hướng đi của riêng anh, một người sống chậm và thực hành nghệ thuật một cách điềm tĩnh, anh chia sẻ: “Sự điềm tĩnh cũng là để cho mình khỏi bị đi lạc trong văn chương, đồng thời nhìn thấy rõ nhất với văn chương. Nghĩa là tránh sự hoang tưởng đối với mình”. Và tập thơ “Ngoài mây trời đầy trống vắng* cộng hưởng với những tập trước đó như “Giữa hai chiều thời gian”, “Bóng người trước mặt”, “Sóng trầm biển dựng” đã thực chứng lối sống và lối viết của anh. Tập thơ mới của anh: “Ngoài mây trời đầy trống vắng”, được chia làm 5 phần nhỏ: Sợ làm lay chiếc bóng, Những con mắt mở lời thú tội, Nơi chưa từng dừng lại, Chờ một mùa lá mới, Sinh ra từ trắc ẩn. Mỗi phần gồm 10 - 13 bài thơ chảy theo mạch tâm trạng và chủ đề riêng. Với kết cấu này, “Ngoài mây trời đầy trống vắng” có một hình hài của tập thơ trong tập thơ, hay nói cách khác mỗi phần như một căn phòng trong ngôi nhà nhỏ và mỗi bài thơ chính là những viên gạch nhiều trăn trở và ám ảnh. Nguồn cảm thức về cuộc đời, cái tôi, mùa thu, hoa cỏ, thời gian, người lính… hiện lên vừa trọn vẹn, vừa mơ màng, như một cung đàn xa vắng của những nốt trầm bềnh bồng.

Tôi thật sự ấn tượng khi nhà thơ đưa ra một định đề: “tôi ăn dặm trường/ dấu chân mòn mỏi/ tôi ăn tha nhân/ trong tôi cát bụi” (Tôi ăn bóng tôi). Chỉ bốn câu ngắn ngủi đã khái quát cả một kiếp người lang thang vô định qua những khoảng không gian “dặm trường”, là mòn mỏi của những dấu chân di thê đây đó. “Tha nhân” và “cát bụi” không mới khi đã là những khái niệm được triết học và tôn giáo hằng định, lụy giải nhưng Đoàn Văn Mật đã thi hóa “tôi ăn tha nhân/ trong tôi cát bụi”. Động từ “ăn” đắt giá, đặt đúng chỗ đã tái diễn một bản thể mới đầy trắc ẩn, bất lực trước sự vận động của tạo hóa. Cảm thức này tiếp tục được nhận diện, là cuộc đi/về, là sự không dừng lại, không ngừng nghỉ trong xê dịch của địa lý, của ý nghĩ: “những vùng đất mới/ sinh ra từ trắc ẩn/ mỗi dấu chân dựng lại một dặm trường...” (Sinh ra từ trắc ẩn). Trong sâu thẳm, cái sự đi của thi nhân đã mang nhiều hấp lực, không dừng lại ở dấu chân, dặm trường mà đi để thấy “gặp dưới đất một trời cao/ gặp trời cao một đường nào vừa đi” (Nghe). Câu thơ trúc trắc, giàu tương phản đất - trời - đường dài rộng, mênh mông, vời vợi đi trong một kiếp người. Nhiều khi thi nhân lại đặt ra một mệnh đề chứa hình ảnh huyền ảo đầy ẩn dụ: “phía trời đêm/ những con hạc đang bay/ ngàn năm chưa ai thấy mặt” (Cuối đường). Sự dịch chuyển của không gian và thời gian tâm thức đã cô kết lại qua những gạch nối của cánh hạc, của cát bụi mà tha nhân trong hành trình đi tìm bản ngã đương nằm ngoài những nhịp đập thực tại. Ngay cả mùa thu cũng bước đi, cũng xê dịch: “thu vẫn còn một lối cúc để đi/ hoa vàng quá làm buổi chiều sa ngã” (Lối cúc). Ở một thoáng cái nhìn lãng đãng của mùa thu, thi nhân vẫn họa lên một bức tranh ám ảnh vàng đến cả “buổi chiều sa ngã”.

Đoàn Văn Mật lại chầm chậm đi qua những khúc quanh, những ngã tư nhiều trạng thái, những đếm đong của sự đối diện, tự vấn. Những tiếng lòng cất lên trong cô tịch, đơn lẻ để nhìn lại: “im lặng vẽ gương mặt mình/ những đường quá vãng/ mẹ sinh ta lúc tang tảng sáng/ ngõ chùa đằng đẵng chuông ngân” (Vẽ một người). Tiếng bình minh reo gọi thao thiết của sự mở đầu và tiếng chuông đằng đẵng quê nhà Nam Định thuở hài nhi vẫn còn vang trong trí tưởng. Thơ Đoàn Văn Mật xen lẫn bóng tối và ánh sáng, là sự khởi đầu của ánh dương le lói rồi đến hồi tỏa rạng đầy sức sống. Cái sống trong bức tranh sáng tối ấy có quy luật của nó: “giữa lẻ loi cô độc/ ánh sáng vẫn tìm nhau/ nhưng không ai thấy được” (Cuối đường). Chân lý tìm về chân lý, tri âm tìm đến tri âm như “Ánh sáng vẫn tìm nhau” là một phát hiện về mặt nghĩa đa tầng và mặt lý của sự rạng ngời. Điều này tương đồng với phát hiện “Chạm vào bia đá/ mơ hồ nghìn năm trượt đi/ chỉ còn lại trong ta là chữ” (Gặp ở Văn Miếu). Dấu ấn thời gian là sự hiện diện mơ hồ, nghìn năm cũng như tích tắc lạnh giá của tấm bia đá vô tri chỉ còn văn hiến cẩn bút trên con chữ.

Đoàn Văn Mật rất nhạy cảm với thời gian, thời gian luôn cho anh những dấu hỏi: “người ngồi đó, mùa qua chẳng gõ/ rừng mê man tre trúc nhập thiền” (Tam Đảo). Thời gian trôi đi “chẳng gõ” mà người đã ngưng đọng “nhập thiền”. Thời gian còn lục lọi trong trí nhớ, những con mối ăn sách hay những con mối sinh ra từ bên trong “ngươi ăn ta từng phần/ ăn hiện tại và ăn ký ức” (Những con mối). Con người tự hồng hoang đã bất lực trước sự lướt trôi không thể níu giữ của thời gian, chấp nhận thích nghi như một quy luật. Thời gian vô hình, vô tướng; tướng và hình ảnh khắc vết lên con người và tự nhiên như: “một bông hoa vừa rời khỏi cuống/ cánh tàn lay đêm trăng xa” (Mùa di tịch). Và cả con người vừa trần trụi vừa hiền minh, “thấy người như một câu kinh/ sa thân lẫn giữa vô hình xa xôi” (Còn ngôi sao ở cuối trời). Có lẽ vì thế mà thi ca có sự tồn tại của nó, khi giữ lại thời gian cùng tâm trạng trong một khoảnh khắc khó có thể quay trở về: “và đêm nay tôi đọc chính mình/ với những ngày tháng qua/ từ bài thơ đã chết” (Bài thơ). Bài thơ đã chết cho những ngày tháng qua nhưng vẫn hiển hiện trong cái “tôi đọc chính mình”. Thi ca đã bứt phá thời gian, nằm ngoài thời gian mặc dù trong ước lệ của thời gian. Những bài thơ cũ, bài thơ mới tự thân là một dấu vết, một niềm tin để thi nhân cầm nắm: “tôi gửi em bài thơ cũ/ ngày đôi mươi nắng soi thấu trời/ sương mòn bay mắt người mơ ngủ” (Gửi một bài thơ cũ). Trong cái mộng mơ của tuổi trẻ “sương mòn bay mắt” đang dần qua ấy, Đoàn Văn Mật đã kịp níu giữ lại những “mơ ngủ” của cái sống đang hiện sinh của ước mơ, của đong đầy: “mười năm mơ một ngôi nhà/ đựng vừa tiếng trẻ” (Vẽ một người). Lại một khoảng thời gian của mười năm, tròn vẹn một thập kỷ, một bước ngoặt của đời người trong niềm mơ ước giản dị, cần thiết. Ngôi nhà “đựng vừa tiếng trẻ” ấy là mục tiêu, là sự tạm khép của một diễn trình vận động sinh thể và tâm thế. Nhưng thực tại vẫn còn đây và đầy cật vấn phải đối diện: “Buổi sáng anh và em/ quán lạ phố quen/ lai rai những mặt người/ dai không nuốt nổi” (Trong buổi sáng an lạc). Hiện thực đã quay về với thực tại với những nỗi niềm “dai” như vậy. Đó không phải là dấu chấm hết, là dấu chấm lửng… đang tiếp tục vòng quay của nó. Thơ Đoàn Văn Mật luôn có sự dịch chuyển thầm lặng như vậy như chính anh từng bộc bạch đó là “sự dịch chuyển của những năng lượng sống đang ngày một nhọc nhằn, đầy lo âu đổ vỡ và bất trắc”.

*

Đoàn Văn Mật đặc biệt mê hoa. Trong thơ anh, cả một vườn hoa âm thầm nở/tàn, lặng lẽ mang hương quyện từng con chữ. Tôi đọc kỳ hết những bài viết về hoa, nhắc về hoa trong “Ngoài mây trời đầy trống vắng” và lỡ “va phải” một câu vẫn đậm hương khi gấp trang thơ lại: “những bông hoa sau lưng/ hương bay thầm trước mặt” (Sau lưng). Chỉ có người yêu hoa, hiểu về hoa, thậm chí ứng thân vào hoa mới viết được câu xuất sắc như thế. Hình ảnh thi vị, giàu tính mỹ học và triết lý nhân sinh này nằm đủ trong hai dòng, mười chữ. Các cặp từ sau/ trước, lưng/mặt đối nghĩa với nhau để làm cho cặp từ hoa/hương lên đến độ chín “bay thầm” của nó, lan sang cả người thưởng thức.

Hoa trong thơ Đoàn Văn Mật thơm hương và tỏa sắc riêng theo tâm trạng hay từng khoảnh khắc của cái đẹp đến độ chín muồi. Dường như hoa cúc, mùa thu chiếm không ít những sáng tác của anh trong sự tinh tế, đồng hiện được đặc tả một cách tài tình: “thu vẫn còn một lối cúc để sang/ cây cầu cũ, những ngày nông nổi gió” (Lối cúc). Nhưng hoa của Đoàn Văn Mật không cô độc, hoa luôn có người thưởng thức, thấu hiểu và cũng chính hoa là một “chứng nhân” cho khoảnh khắc thi nhân: “tôi ngồi trong bóng cơn mưa/ đan cùng bóng tôi trên tường/ rồi lặng lẽ bước đi/ thu hắt lại mặt bàn cúc trắng” (T&T). Có khi hoa trở thành hình tượng của một hoán dụ phiêu du: “người ngồi đó, có thành cổ tự/ mắt nâu trầm hoa bay trong sương” (Tam Đảo). Câu thơ gầy nên một hình ảnh đẹp, ví tranh có thể họa được “mắt nâu trầm hoa bay trong sương” để làm thương nhớ những tháng ngày cũ, người cũ đã trôi đi biền biệt cùng sương, cùng mùa. Và hoa cũng có mục đích sống, cũng có ý nghĩa tồn tại riêng: “hoa lặng lẽ tìm lên cao điểm/ cả rừng hoa không nở cho mình” (Hoa đào Vị Xuyên).

*

Trong tập thơ này, phần Nơi chưa từng dừng lại viết riêng cho những người lính, cho những đồng đội nhiều thế hệ mà anh cùng khoác chung màu áo. Mỗi bài thơ trong phần này là những cuộc chiến, người lính, thân phận, những vinh quang, hào hùng và cả mất mát, đớn đau… Đó là lời buốt than còn vương lại bên màu xanh Thành Cổ: “tôi ra đường gặp ngọn gió khuya/ thổi buốt trời Quảng Trị/ thổi trắng những mộ bia/ linh hồn các anh từ gió mà về” (Những ngọn gió khuya). Chiến tranh còn là tội ác khi ngày nào đó thảm sát Sơn Mỹ vọng tiếng khóc hờn: “không ai sống hai lần/ nhưng có thể chết nhiều lần/ khi tội ác nhân lên/ cũng nhiều lần như thế/ những người dân vô tội nơi này!” (Dấu chân Sơn Mỹ). Những người lính, những đồng bào ngã xuống trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vẫn còn đây thổi buốt lòng người ở lại. Nơi thẳm sâu hang đá, pháo nổ cày nát dòng Thanh Thủy, Hà Giang ngày nào còn đọng trên cả mùa xuân: “Nở trong dìu dặt mưa xuân/ những cánh hoa phớt đỏ/ tựa máu đã tan vào đất/ lại âm thầm theo mạch trồi lên”. (Hoa đào Vị Xuyên). Cuộc chiến đã kết thúc nhưng lòng người chưa thôi đoạn kết, vẫn âm thầm trồi lên những xót xa, bi phẫn. Nhà thơ đã chiêu cảm quá khứ, nghĩ tưởng về những mất mát như còn mới đây. Tưởng nhớ những người lính hy sinh trên đảo Gạc Ma, Đoàn Văn Mật đã cảm tác một màu trắng chia ly: “Những ngôi nhà trắng/ những nấm mồ trắng/ trôi âm thầm trên tóc trắng mẹ tôi” (Bài thơ trắng). Màu trắng ấy thật tàn nhẫn, màu trắng của thời gian, lịch sử, hy sinh, chia lìa... Mỏ neo của hiện thực trong đáy lòng “trôi âm thầm trên tóc trắng mẹ tôi”, là trắng cả cuộc đời của mẹ thầm khóc lặng lẽ. Màu trắng theo cha về phía biển rằng “cha cúi xuống/ xin biển cho gặp các anh/ biển dâng một đàn hạc trắng” (Tưởng niệm biển). Màu trắng đến run rẩy mặt đất, che khuất bầu trời: “những bông hoa trắng/ những con tàu trắng/ đàn sếu căng qua cánh trắng ngang trời” (Bài thơ trắng). Tất cả những dòng thơ ấy được viết bằng nước mắt, bằng rung động của một người lính về chiến tranh, hòa bình và biết trân trọng, tri ân những con người ngã xuống vì độc lập, tự do, vì hòa bình, thống nhất. Tất cả những dòng thơ ấy cũng được anh lý giải trong bài “Đêm ở nhà số 4”: “bao nhiêu chữ đã sang sông/ bao nhiêu chữ sáng cùng hy vọng/ bao nhiêu chữ lẳng lặng vào dĩ vãng/ chữ chữ như mây, như khói đưa đường” về những người lính cầm bút, trao cho anh những ngọn lửa mãnh liệt cháy cho đến tận hôm nay.

Đoàn Văn Mật quan niệm rằng: “Nếu thơ ví như con lạc đà thì hẳn con lạc đà thơ ấy không chỉ mang trên mình nó những câu chữ, những ý niệm, những miền xúc cảm để đi qua sa mạc,… mà phải chở thêm cả ngàn nỗi ưu tư của thân phận con người đang cùng đi với nó”. Và tập thơ “Ngoài mây trời đầy trống vắng” đã trưng dẫn những điều anh chiêm nghiệm và thực hành. Anh đã sống, nghĩ, nói luôn chậm rãi, thủng thẳng bước đi cùng thời gian, cùng cái đẹp vấn víu trong từng hơi thở. Thời gian đã kết tụ, hoa vẫn thơm trước mặt, bóng dài đổ trên tường và những chuyến đi của chữ vẫn phiêu bồng trên một hành trình không biết trước của hoài cảm, của âm thầm, của những trắc ẩn luôn chực chờ gieo vần năm tháng.

L.V.T.G
(TCSH51SDB/12-2023)

 

-----------------------
* “Ngoài mây trời đầy trống vắng”, Nxb. Hội Nhà văn, năm 2023.

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LGT: Vài năm lại đây, sau độ lùi thời gian hơn 30 năm, giới nghiên cứu văn học cả nước đang xem xét, nhận thức, và đánh giá lại nền “Văn học miền Nam” (1954 - 1975) dưới chế độ cũ, như một bộ phận khăng khít của văn học Việt Nam nửa sau thế kỷ XX với các mặt hạn chế và thành tựu của nó về nghệ thuật và tính nhân bản. Văn học của một giai đoạn, một thời kỳ nếu có giá trị thẩm mỹ nhân văn nhất định sẽ tồn tại lâu hơn bối cảnh xã hội và thời đại mà nó phản ánh, gắn bó, sản sinh. Trên tinh thần đó, chúng tôi trân trọng giới thiệu bài viết vừa có tính chất hồi ức, vừa có tính chất nghiên cứu, một dạng của thể loại bút ký, hoặc tản văn về văn học của tác giả Nguyễn Đức Tùng, được gửi về từ Canada. Bài viết  dưới đây đậm chất chủ quan trong cảm nghiệm văn chương; nó phô bày cảm nghĩ, trải nghiệm, hồi ức của người viết, nhưng chính những điều đó làm nên sự thu hút của các trang viết và cả một quá khứ văn học như sống động dưới sự thể hiện của chính người trong cuộc. Những nhận định, liên hệ, so sánh, đánh giá trong bài viết này phản ánh lăng kính rất riêng của tác giả, dưới một góc nhìn tinh tế, cởi mở, mang tính đối thoại của anh. Đăng tải bài viết này chúng tôi mong muốn góp phần đa dạng hóa, đa chiều hóa các cách tiếp cận về văn học miền Nam. Rất mong nhận được các ý kiến phản hồi của bạn đọc. TCSH

  • MAI VĂN HOAN giới thiệuNăm 55 tuổi, Hồng Nhu từng nhiều đêm trăn trở, băn khoăn lựa chọn việc trở về quê hay ở lại thành phố Vinh - nơi anh gắn bó trọn hai mươi lăm năm với bao kỷ niệm vui buồn. Và cuối cùng anh đã quyết tâm trở về dù đã lường hết mọi khó khăn đang chờ phía trước. Nếu không có cái quyết định táo bạo đó, anh vẫn là nhà văn của những thiên truyện ngắn Thuyền đi trong mưa ngâu, Gió thổi chéo mặt hồ... từng được nhiều người mến mộ nhưng có lẽ sẽ không có một nhà văn đầm phá, một nhà thơ “ngẫu hứng” như bây giờ.

  • LÊ HỒNG SÂMTìm trong nỗi nhớ là câu chuyện của một thiếu phụ ba mươi tám tuổi, nhìn lại hai mươi năm đời mình, bắt đầu từ một ngày hè những năm tám mươi thế kỷ trước, rời sân bay Nội Bài để sang Matxcơva du học, cho đến một chiều đông đầu thế kỷ này, cũng tại sân bay ấy, sau mấy tuần về thăm quê hương, cô cùng các con trở lại Pháp, nơi gia đình nhỏ của mình định cư.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ     (Đọc “Cạn chén tình” - Tuyển tập truyện ngắn Mường Mán, NXB Trẻ, 2003)Với gần 40 năm cầm bút, với hơn hai chục tác phẩm văn xuôi, thơ và kịch bản phim, nhà văn Mường Mán là một tên tuổi đã quen thuộc với bạn đọc, nhất là bạn đọc trẻ. Có lẽ vì ấn tượng của một loạt truyện dài mà ngay từ tên sách (Lá tương tư, Một chút mưa thơm, Bâng khuâng như bướm, Tuần trăng mê hoặc, Khóc nữa đi sớm mai v...v...) khiến nhiều người gọi ông là nhà văn của tuổi học trò, trên trang sách của ông chỉ là những “Mùa thu tóc rối, Chiều vàng hoa cúc...”.

  • NGUYỄN VĂN HOATranh luận Văn Nghệ thế kỷ 20, do Nhà xuất bản lao động ấn hành. Nó có 2 tập: tập 1 có 1045 trang và tập 2 có 1195 trang, tổng cộng 2 tập có 2240 trang khổ 14,4 x 20,5cm. bìa cứng, bìa trang trí bằng tên các tờ báo, tạp chí có tư liệu tuyển trong bộ sách này.

  • VĨNH CAO - PHAN THANH HẢIVườn Thiệu Phương là một trong những Ngự uyển tiêu biểu của thời Nguyễn, từng được vua Thiệu Trị xếp là thắng cảnh thứ 2 trong 20 cảnh của đất Thần Kinh. Nhưng do những nguyên nhân lịch sử, khu vườn này đã bị triệt giải từ đầu thời vua Ðồng Khánh (1886-1889) và để trong tình trạng hoang phế mãi đến ngày nay. Trong những nỗ lực nhằm khắc phục các "không gian trắng" tại Tử Cấm Thành và phục hồi các khu vườn ngự của thời Nguyễn, từ giữa năm 2002, Trung tâm BTDTCÐ Huế đã phối hợp với Hội Nghệ thuật mới (Pháp) tổ chức một Hội thảo khoa học để bàn luận và tìm ra phương hướng cho việc xây dựng dự án phục hồi khu vườn này.

  • HỒNG DIỆUNhà thơ Cao Bá Quát (1809-1854) được người đời hơn một thế kỷ nay nể trọng, với cả hai tư cách: con người và văn chương. "Thần Siêu, thánh Quát", khó có lời khen tặng nào cao hơn dành cho ông và bạn thân của ông: Nguyễn Văn Siêu (1799-1872).

  • HÀ VĂN THỊNHI. Có lẽ trong nhiều chục năm gần đây của lịch sử thế giới, chưa có một nhà sử học nào cũng như chưa có một cuốn sách lịch sử nào lại phản ánh những gì vừa xẩy ra một cách mới mẻ và đầy ấn tượng như Bob Woodward (BW). Hơn nữa đó lại là lịch sử của cơ quan quyền lực cao nhất ở một cường quốc lớn nhất mọi thời đại; phản ánh về những sự kiện chấn động nhất, nghiêm trọng nhất đã diễn ra trong ba năm đầu tiên của thiên niên kỷ mới: sự kiện ngày 11/9, cuộc chiến tranh Afganistan và một phần của cuộc chiến tranh Iraq.

  • ĐẶNG TIẾN     (Đọc Hồi ức của Đại tướng Võ Nguyên Giáp)Một tờ báo ở ngoài nước đã giới thiệu bốn cuốn hồi ức của Đại tướng Võ Nguyễn Giáp mới xuất bản. Dĩ nhiên là một bài báo không thể tóm lược được khoảng 1700 trang hồi ký viết cô đúc, nhưng cũng lảy ra được những đặc điểm, ý chính và trích dẫn dồi dào, giúp người đọc không có sách cũng gặt hái được vài khái niệm về tác phẩm.

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO       (Đọc tập truyện ngắn “Trà thiếu phụ” của nhà văn Hồng Nhu – NXB Hội Nhà văn 2003)Tôi đã được đọc không ít truyện ngắn của nhà văn Hồng Nhu và hầu như mỗi tập truyện đều để lại trong tôi không ít ấn tượng. Trải dài theo những dòng văn mượt mà, viết theo lối tự sự của nhà văn Hồng Nhu là cuộc sống muôn màu với những tình cảm thân thương, nhiều khi là một nhận định đơn thuần trong cách sống. Nhà văn Hồng Nhu đi từ những sự việc, những đổi thay tinh tế quanh mình để tìm ra một lối viết, một phong cách thể hiện riêng biệt.

  • ĐỖ QUYÊN…Đọc thơ Bùi Giáng là thuốc thử về quan niệm thơ, về mỹ học thi ca. Đã và sẽ không ai sai nhiều lắm, cũng không ai đúng là bao, khi bình bàn về thơ họ Bùi. Nhắc về cái tuyệt đỉnh trong thơ Bùi Giáng, độ cao sâu tư tưởng ở trước tác Bùi Giáng nhiều bao nhiêu cũng thấy thiếu; mà chỉ ra những câu thơ dở, những bài thơ tệ, những đoạn văn chán trong chữ nghĩa Bùi Giáng bao nhiêu cũng bằng thừa…

  • LÊ THỊ HƯỜNGTrong căn phòng nhỏ đêm khuya, giai điệu bản sonat của Beethoven làm ta lặng người; một chiều mưa, lời nhạc Trịnh khiến lòng bâng khuâng; trong một quán nhỏ bên đường tình cờ những khúc nhạc một thời của Văn Cao vọng lại làm ta bất ngờ. Và cũng có thể giữa sóng sánh trăng nước Hương Giang, dìu dặt, ngọt ngào một làn điệu ca Huế khiến lòng xao xuyến.

  • NGÔ MINHĐến tập thơ chọn Giếng Tiên (*), nhà thơ - thầy giáo Mai Văn Hoan đã gửi đến bạn yêu thơ 5 tập thơ trữ tình, trong đó có hai tập thơ được tái bản. Đó là tập đầu tay Ảo ảnh, in năm 1988, tái bản 1995 và tập Hồi âm, in năm 1991, tái bản năm 2000. 15 năm xuất bản 7 đầu sách (2 tập tiểu luận) và đang có trong ngăn kéo vài tập bản thảo tiểu luận nữa, chứng tỏ sức sáng tạo sung mãn đáng nể trọng của một thầy giáo vừa dạy học vừa sáng tác văn chương.

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO        (Đọc tập thơ ''Độc thoại trước mặt trời'' của Trần Lan Vinh- NXB Văn học Hà Nội- 2003)Trên thi đàn văn học Việt Nam hiện đại, sự thiếu vắng những cây bút nữ đã trở thành một vấn đề cần được chú trọng. Hầu như mỗi khi phụ nữ cầm bút, điều họ quan tâm nhất đó là sự giải bày tâm sự với ngàn ngàn nỗi niềm trắc ẩn. Nếu viết là một cách để sẻ chia tâm sự thì Trần Lan Vinh là một trường hợp như thế.

  • NGUYỄN THANH TÚMùa đông năm ngoái, anh Đoàn Tuấn từ Hà Nội vào Huế giảng dạy lớp đạo diễn điện ảnh. Dù công việc khá bận rộn nhưng anh vẫn dành cho tôi không ít thời gian tâm sự, bởi ngoài tình cảm thân thiết anh còn là cấp trên của tôi ở toà soạn tạp chí Thế Giới Điện Ảnh. Trong những lần trò chuyện ấy, tôi thật sự bất ngờ khi nghe anh kể chuyện về cuốn sách anh sắp in ở Nhà xuất bản Trẻ mà nội dung của nó là câu hỏi hơn 20 năm nay vẫn luôn canh cánh trong tôi. Vốn dĩ Đoàn Tuấn là nhà biên kịch điện ảnh tên tuổi, anh đã có nhiều kịch bản phim nổi tiếng như: Chiếc chìa khoá vàng (1998), Ngõ đàn bà (1992), Đường thư (2003)...

  • MAI VĂN HOANNguyễn Khoa Điềm đến với thơ hơi muộn nhưng đã sớm định hình một phong cách riêng. Qua các tập Đất ngoại ô (1972), Mặt đường khát vọng (trường ca, 1974), Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (1986), Thơ Nguyễn Khoa Điềm (1990), Cõi lặng (2007) ta bắt gặp những suy ngẫm của anh đối với nhân dân, đất nước; những chiêm nghiệm của anh về đời sống xã hội, nhân tình thế thái. Những chiêm nghiệm và suy ngẫm đó được thể hiện bằng một giọng thơ trầm tĩnh, bình dị, sâu lắng và khá hiện đại.

  • NGUYỄN QUANG HÀ       (Đọc Nỗi niềm để ngỏ của Lê Lâm Ứng - Nhà xuất bản Văn học 2002)Đọc thơ Lê Lâm Ứng để tìm những câu mượt mà thì hơi khó. Thảng hoặc lắm mới bắt gặp ở anh tâm trạng thư thái này:                Biết rằng trong cõi nhớ thương                Lạc nhau âu cũng lẽ thường vậy thôi

  • MAI VĂN HOANNguyễn Đắc Xuân không chỉ có chân trong Hội Nhà văn Việt Nam mà anh còn là hội viên Hội Lịch sử Việt Nam, hội viên Hội Nhà báo Việt Nam... Nhưng dù ở cương vị nào thì điều mà anh tâm huyết nhất vẫn là lịch sử và văn hóa Huế.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG   (Nhân đọc sách "Gió về Tùng Môn Trang" của Nguyễn Xuân Dũng)Tác giả cuốn sách này là một võ sư đệ bát đẳng huyền đai thuộc phái không thủ đạo, vừa là một nhà hoạt động thương trường nổi tiếng ở Mỹ. Nhưng cuốn sách này không hề bàn đến chuyện đấm đá hơn kém hoặc là chuyện mua bán lời lỗ mà bàn về cái TÂM. Tác giả tỏ ra hết sức chú trọng vũ đạo; nhất cử nhất động đều phải xuất phát từ cái TÂM, cái TÂM viết hoa.

  • TRẦN THUỲ MAI            (Đọc Uẩn khúc, tiểu thuyết của Hoàng Văn Bàng, NXB Thuận Hoá 2002)Câu chuyện xảy ra ở một vùng quê không xa lắm, với một tầm mức tai hại không lớn, gây một ảnh hưởng mới xem qua tưởng chừng không đáng kể. Một ông trưởng phòng ở huyện tham ô vài chục triệu thì đã thấm gì so với những câu chuyện động trời hàng ngày trên các báo, mà thủ phạm mang những chức tước lớn lao hơn, với những số tiền khổng lồ tới hàng nghìn tỉ!