VIỆT HÙNG
“Trên đỉnh Trường Sơn, ta gặp nhau giữa đường đi chiến đấu, anh giải phóng quân Lào biên giới đẹp sao...”*- Câu hát từ thời chống Mỹ, đã trở nên xa xăm, song giờ đây, thỉnh thoảng nó vẫn vang lên trên các sóng phát thanh...
Các chiến sĩ công binh Trường Sơn biên giới Việt-Lào năm xưa - Ảnh: internet
Trên đỉnh Trường Sơn ngày ấy, có thể, có những lúc, người ta chẳng để ý đến biên giới Việt - Lào, bởi khi mà “mây núi bao la, dấu chân đi bước mòn sỏi đá...”* của những anh bộ đội hai nước đang cùng chung chiến hào đánh Mỹ. Thời đó, có biết bao tác phẩm văn học ngợi ca tình đoàn kết chiến đấu Việt - Lào, cùng chung kẻ thù xâm lược. Những tác phẩm của nhà văn Việt Nam; những tác phẩm của nhà văn Lào, được dịch sang tiếng Việt; ta có thể dễ dàng tìm thấy ở đó, một tiếng nói chung, một sự đồng cảm. Đó là ý chí sắt đá, quyết chiến đấu, sẵn sàng hy sinh vì nền độc lập tự do.
Ngày đó, cũng trên đỉnh Trường Sơn, có không ít những nhà văn, nhà báo của cả hai nước đang là chiến sĩ. Họ vừa cầm bút vừa cầm súng. Màu áo của họ đều ẩn hiện lẫn trong màu lá cây. Họ cũng đồng kham cộng khổ, cận kề cái chết như bao chiến sĩ khác. Họ sống trong lòng chiến tranh, viết về sự bất khuất của hai dân tộc...
Vào cuối những năm 60, đầu những năm 70 của thế kỷ trước, đang ở tuổi niên thiếu, nhưng tôi cùng một số bạn bè cũng có đôi ba lần được gặp những anh bộ đội Lào. Họ từ chiến trường, được đưa về Hà Nội để chữa bệnh và học tập. Việt Nam đã đào tạo kỹ năng chiến đấu cho họ. Đa số những anh bộ đội Lào đều biết nói tiếng Việt, tuy không rõ lắm nhưng ta nghe vẫn hiểu. Họ kể cho chúng tôi nghe những trận chiến đấu ở Trường Sơn. Những điều ấy cũng tương tự như lời kể của các anh bộ đội Việt Nam từ miền Nam trở ra. Họ giống nhau từ những suy nghĩ đến lý tưởng và cách đánh giặc, khiến chúng tôi lắm lúc cứ mơ hồ tưởng hai là một. Quả là tình cảm Việt - Lào trong chiến đấu gắn bó như thể “Môi hở răng lạnh”...
Năm tháng qua đi, mọi việc cũng dần phôi pha. Những tác phẩm văn học Lào được dịch sang tiếng Việt từ thời chống Mỹ cũng đã lùi vào quá khứ. Những giai đoạn tiếp theo thì sao? Văn học Lào hầu như vắng bóng hẳn ở Việt Nam. Trước cơ chế thị trường, người ta cần dịch và phổ biến những tác phẩm bán chạy của Âu - Mỹ. Sách bán ít chạy sẽ không còn chỗ đứng. Thật là buồn. Vậy chúng ta có dám nói rằng, đã yêu ai thì yêu từ những cái nhỏ nhất, từ những cái bình thường nhất. Có người từng đặt câu hỏi: những nhà văn Lào hiện tại họ sống và viết ra sao, có giống nhà văn Việt Nam?
Thế rồi, tháng hai vừa qua chúng tôi cũng may mắn được diện kiến những nhà văn Lào trong chuyến đi thực tế sáng tác của Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế. Đây cũng là dịp để hiểu thêm về những người anh em. Tại Viên Chăn, tiếp chúng tôi là một số nhà thơ, nhà văn nằm trong Ban chấp hành Hội Nhà văn Lào. Nhà văn Su-Sa-Vat, Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Lào đã vắn tắt cho chúng biết tình hình hoạt động của Hội trong những năm gần đây.
Tổ chức của Hội Nhà văn Lào chỉ mới được hình thành cách đây hơn 20 năm. Còn trước đó, các nhà văn đều hoạt động độc lập ở nhiều lãnh vực khác nhau. Hiện tại, Hội có khoảng 150 hội viên, đang sống ở khắp mọi miền đất nước. Cũng giống như Việt Nam, nhà văn muốn gia nhập hội phải có 2 đầu sách trở lên, và phải đạt được một số tiêu chí về chất lượng.
Ở Lào cũng đang có sự chuyển tiếp giữa các thế hệ nhà văn. Lớp nhà văn chống Mỹ nhiều người vẫn trung thành với đề tài chiến tranh; bởi họ tâm niệm, viết để lại cho lớp trẻ, mong lớp trẻ không quên truyền thống đấu tranh cách mạng. Những lớp nhà văn sau 1975 thì chú ý nhiều đến đề tài xây dựng và đổi mới đất nước trong hòa bình. Các cây bút trẻ hiện nay sáng tác rất tự do và đa dạng. Điều này cũng giống Việt Nam, nó phản ánh được sự đổi mới, giao lưu học hỏi bốn phương trong thời kỳ hội nhập. Đặc biệt, ở Lào có rất nhiều nhà sư viết sách. Chủ trương của Hội Nhà văn Lào là động viên các nhà văn thâm nhập cuộc sống, viết để cổ vũ nhân dân vươn lên thoát khỏi nghèo đói. Họ suy nghĩ cũng như chúng ta: đã thắng được hai kẻ xâm lược là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, song kẻ thù trực tiếp trước mắt là cái nghèo thì vẫn chưa thể chiến thắng.
Hoạt động in ấn, phát hành, công bố tác phẩm của các nhà văn Lào xem ra khó khăn hơn ở Việt Nam. Chúng ta còn có nhà xuất bản A nhà xuất bản B... đỡ đầu in ấn cho một số nhà văn; còn có tiền hỗ trợ đầu tư sáng tác của Chính phủ, thông qua Liên hiệp Hội để rót về các hội địa phương. Ở Lào, chỉ một số ít tác phẩm xuất sắc mới được Nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí, còn lại, hầu hết nhà văn phải tự bỏ tiền in sách và tự phát hành. In ấn mà còn khó, nói chi đến việc giới thiệu các tác phẩm văn học Lào ra các nước khu vực, mà gần nhất là Việt Nam.
So với Việt Nam, hoạt động báo chí của Lào còn nhiều hạn chế. Chúng ta có số lượng lớn về các loại báo, và đa dạng về nội dung. Ở Lào, mặt này còn rất đơn điệu. Việt Nam thì tỉnh nào cũng có tạp chí văn nghệ địa phương, trong lúc Lào chỉ vài ba tỉnh có, mà họ còn phải lồng ghép các mặt văn hóa đời sống vào chung với văn học nghệ thuật. Một trong những khó khăn lớn của họ là giá in ấn quá cao, mọi nguyên liệu đều phải nhập.
Ở Lào, bước vào cơ chế thị trường, họ xóa bao cấp quá nhanh mà chưa có sự điều chỉnh lại. Ngay biên chế Nhà nước về nhân sự tại Văn phòng Hội Nhà văn cũng rất ngặt nghèo. Cán bộ chủ chốt của Hội đều làm việc kiêm nhiệm. Họ ăn lương ở các ban ngành khác, và vì tình yêu nghệ thuật mà gánh vác thêm trách nhiệm.
Cuối cùng, nhìn tổng quát, hoạt động của nhà văn Việt Nam thuận lợi hơn nhiều so với nhà văn Lào.
Chị Ta-A-Na, người hướng dẫn và phiên dịch cho đoàn chúng tôi trong những ngày ở Lào nói rằng, đời sống văn hóa ở Lào còn rất thấp. Chị Ta- A-Na là người Lào, nhưng sinh ra và trưởng thành tại Hà Nội, nên chị hiểu Việt Nam như người Việt. Bố mẹ chị trước đây công tác ở Đài Phát thanh tiếng nói Nhân dân Cách mạng Lào. Những năm chống Mỹ, Đài được Việt Nam giúp đỡ và đặt trung tâm tại Hà Nội. Đi với chúng tôi, trong giọng nói đầy xúc động, chị nhắc đi nhắc lại, nhân dân Lào đời đời biết ơn các anh bộ đội Việt Nam đã giúp họ giải phóng đất nước; đời đời biết ơn nhân dân Việt Nam đã giúp Lào xây dựng đất nước trong hòa bình... Hiện tại, những công trình xây dựng lớn ở Thủ đô Viên Chăn đều do Việt Nam ủng hộ và giúp đỡ xây dựng như: tòa nhà Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, tòa nhà Quốc hội, tòa nhà Chính phủ, Văn phòng Bộ Công an... cùng rất nhiều trường học.
Buổi đón tiếp của Hội Nhà văn Lào dành cho đoàn chúng tôi chỉ diễn ra vài ba giờ, trong không khí giản dị nhưng đầy trọng thể, với sự có mặt của đại diện Đại sứ quán Việt Nam tại Lào. Cuối cùng, đọng lại là những lời động viên nhau, dù khó khăn gian khổ, hãy cố gắng viết... viết vì cái đẹp của cuộc sống hai nước.
Chia tay những nhà văn Lào - những người anh em, tạm biệt Thủ đô Viên Chăn xinh đẹp, trong đầu tôi lại vẳng lên câu hát tự năm xưa - “Trên đỉnh Trường Sơn... Đi giải phóng quê nhà, nơi chiến trường xa, mỗi bước chân đi, lòng càng nhớ bao đồng chí, những người chiến sĩ yêu nước Lào”*.
V.H
(SH278/4-12)
..................................
* Lời bài hát Gặp nhau trên đỉnh Trường Sơn của nhạc sĩ Hoàng Hà
PHAN THỊ THU QUỲ(Hưởng ứng cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”)
LÊ KHAI Bút kýAnh đưa tôi một tờ giấy cuộn tròn và nói: Tuần qua tôi đi tìm mộ liệt sĩ ở Truồi (huyện Phú Lộc). Tìm một mộ mà phát hiện ra tám mộ. Buồn! Tôi làm bài thơ. Anh xem và chữa giúp. Cả đời tôi chưa quen làm thơ. Anh chào tôi rồi vội vã về vì đang có việc cần.
HÀ KHÁNH LINH Trích Hồi ký… Mùa xuân 1967, địch tăng cường đánh phá suốt ngày đêm, ngày một ác liệt hơn. Các trạm khách dọc tuyến đường 559 không ngày nào không bị đánh trúng hoặc B52 hoặc bom tọa độ, hoặc pháo tầm xa. Ngày nào cũng có thương vong. Có những đơn vị trên đường hành quân vào Nam chưa đến địa điểm tập kết đã bị đánh tơi tả, chỉ còn sót lại vài người. Các cơ quan đơn vị đóng chung quanh khu vực phần nhiều đã bị đánh trúng.
TUỆ GIẢI NGUYỄN MẠNH QUÝ Tạp bútNhư nhân duyên, như định mệnh, cuộc đời tôi như thu hết vào trong một chung trà. Tuổi thơ đã qua, bây giờ và sẽ mãi mãi, cuộc đời tôi luôn vương vấn một hương trà. Tôi thường hay nói đùa cùng bằng hữu rằng sinh ra và lớn lên được ướp trong hương trà, tôi cũng chỉ mơ một ngày về thiên cổ được vẫy tiễn linh hồn bằng một chén trà ngon, được chôn theo cùng là một bộ ấm trà quý nhất và được vẫn cùng người “hồng nhan tri kỷ” đồng ẩm tương phùng ở thế giới bên kia!!!
TRẦN KIM HỒĐảo Cồn Cỏ là vọng gác tiền tiêu, là con mắt của Vĩnh Linh - khu Vĩnh Linh là tiền đồn của miền Bắc XHCN, là hậu phương trực tiếp của tiền tuyến lớn miền Nam; do đó đảo Cồn Cỏ có vị trí vô cùng quan trọng, mặc dù diện tích chỉ có 4km2. Mât Cồn Cỏ, miền Bắc XHCN trực tiếp bị uy hiếp, nhất là vào lúc nguỵ quyền Ngô Đình Diệm không ngớt hô hào lấp sông Bến Hải, Bắc tiến; đế quốc Mỹ từng trắng trợn tuyên bố biên giới Hoa kỳ kéo dài đến vĩ tuyến 17.
PHẠM NGUYÊN TƯỜNGHai cái máy lạnh hai cục trong căn phòng 40m2 của nhà hàng Hoa Chuối cộng với cả trận mưa chiều đột ngột tầm tã không làm dịu được sức nóng từ tấm thịnh tình của gần 50 cộng tác viên thân thuộc của tạp chí Sông Hương tại thủ đô Hà Nội.
TÔ VĨNH HÀTrong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, 60 năm qua là một chặng đường đặc biệt. Chưa bao giờ dân tộc ta phải đương đầu với nhiều thử thách đến như thế, phải chiến đấu và chiến thắng nhiều kẻ thù đến như thế. Pháp rồi Nhật, Tưởng và Anh; hết Mỹ đến Khơmer “đỏ”... Kẻ thù và đau khổ nhiều đến mức tưởng chừng như đất nước Việt Nam được tạo hoá sinh ra là để cho các loại kẻ thù nhòm ngó, tìm mọi cách thôn tính.
NGÔ MINHTừ tháng 7-1954, Hiệp định Giơnevơ ký kết cho đến cuối năm 1964 đôi bờ giới tuyến Hiền Lương lặng im tiếng súng, nhưng đây là 11 năm diễn ra cuộc đối đầu văn hóa nóng bỏng, quyết liệt nhất giữa ta và địch.
PHAN THỊ THU QUỲ Trên bờ Hương Giang êm đềm, có ngôi nhà nhỏ tôi được sinh ra ở đó. Hằng ngày tung tăng cắp sách đến trường Đồng Khánh, tôi cũng nhảy nhót trên bờ Hương Giang. Lớn lên tôi hoạt động nội thành thường đến hò hẹn bên cây phượng vỹ trước cửa Thượng Tứ, nơi đó là địa điểm giao nhận những “gói nhỏ”, để nhận công việc và để nhớ mật hiệu. Cho nên trên bờ Hương Giang tôi đã ngắm dòng sông thơ mộng với tôi gắn bó biết bao từ tuổi ấu thơ cho đến bước vào đời.
NGUYỄN VĂN VINH Bút ký Thôn Hiền An, xã Vinh Hiền là một thẻo đất cát bạch sa cuối phá Tam Giang phía Bắc vào. Như một ốc đảo ba bề, bốn bên là nước, nếu không có đường 49B chạy dọc phá đến cùng đường, tận biển. Và mỗi ngày, hai chuyến xe đò chở khách cùng mấy chục chuyến đò ngang phá qua lại Lộc Bình đem chút xôn xao thị tứ, phố chợ về với thôn, xã thì Hiền An càng xa xôi heo hút.
TRẦN HOÀI Ghi chépThung lũng A Lưới chạy dài theo hướng Bắc Nam đến vài chục km. Đó là một thung lũng đẹp, là một vị trí quân sự chiến lược, là nơi giao tranh ác liệt giữa ta và địch trong cuộc kháng chiến vừa qua...
LÊ BÁ ĐẢNGBạn của tôi rất nhiều. Năm ba bạn mà tôi nhắc nhở ra đây phần nhiều là bác sĩ, kỹ sư, giáo sư còn nghệ sĩ thì chất cả đống.
NGUYỄN THẾ QUANGMùa hạ, trời Bát Tam Boong trong xanh. Những hàng cây thốt nốt lặng lẽ kiêu hãnh xòa những tán lá xanh che mát cả khu đồi. Trong căn nhà của sở chỉ huy Sư 179 quân đội Cămpuchia, trung tá Nguyễn Văn Du chuyên gia của bộ đội Việt Nam cởi thắt lưng ra treo khẩu K54 lên vách. Anh vui mừng trước khả năng chiến đấu ngày càng tốt của quân đội bạn. Trận đánh trả lực lượng quân đội Thái Lan bảo vệ sáu nghìn dân tị nạn ở chòm Rumthumây diễn ra nhanh chóng.
TỐ HỮU Trích chương V, hồi ký Nhớ lại một thời
VÕ MẠNH LẬP Ghi chépTrong những ngày tháng ba, hai lẻ sáu trời Hà Nội đẹp và dễ chịu. Cái nắng vàng phủ tràn thành phố, tôn màu của cây thêm xanh biếc, ngói trên các mái nhà như thắm thêm lên, đường phố đi lại thanh thoát và đặc biệt có chút se lạnh vào sáng sớm như sợi tơ vương của hơi thở cuối mùa đông còn lưu sót lại.
NGUYỄN QUANG HÀ Bút kýMã Yên là tên trên bản đồ của một ngọn núi, còn dân địa phương thì gọi đó là núi Yên Ngựa. Núi Yên Ngựa là một trong những ngọn núi ngoài cùng về phía Đông của dãy Trường Sơn.
NGUYỄN QUANG HÀ Bút kýNắng chiều vàng trải dài trên những hàng bia trắng như mơ, như kỳ ảo. Đi trong nghĩa trang tôi có cảm giác mình như đang ngỡ ngàng, có cái gì đó nghèn nghẹn nơi cổ khi hàng hàng những bia trắng dài kia không có một nét mực ghi tên. Đó là những tấm bia vô danh.
NGUYỄN TRI TÂMNgười kể chuyện phải lục tìm những tấm ảnh lưu niệm để nhớ chính xác hơn. Sau tấm ảnh đen trắng cỡ 18x24, tướng Hoàng Văn Thái kí tên và ghi rõ “Thân tặng đồng chí trung tá Lương Văn Chính, người chiến sĩ Điện Biên năm xưa, huyện đội trưởng huyện đội Điện Biên. Kỉ niệm ngày lên thăm Điện Biên 3-4-1984”.
TẤN HOÀIHưởng ứng cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí MinhĐêm đó, Bác nghỉ lại tại Cọt Mạ - một thị trấn nhỏ của Trung Quốc, thị trấn nhỏ như một bản miền núi miền nam Trung Quốc, có một cái chợ nhỏ, cách biên giới Việt Nam khoảng trên bốn cây số. Tất nhiên, đó là một cơ sở của cách mạng Trung quốc. Hôm sau, Bác về nước cùng với những đồng chí Việt Nam đi đón Bác trong đó có Dương Đại Lâm, Lê Quảng Ba, Bằng Giang. Những người này về sau trở thành cán bộ lãnh đạo của khu tự trị Việt Bắc. Bác về đúng vào tháng 2 năm 1941. Bác đã ghi trên một phiến đá trong hang Cốc Bó, nằm trong khu vực Pác Bó. Gia tài Bác chỉ có một chiếc va li cũ đan bằng mây, bên cạnh một chiếc máy đánh chữ mà Bác luôn luôn xách bằng tay.
HOÀNG QUỐC HẢI Bút kýVì sao khi Lý Công Uẩn (Lý Thái Tổ) được nước, cung điện nơi thành Hoa Lư các vua Đinh, vua Lê dựng như “điện Bách Bao thiên tuế, cột điện dát vàng, dát bạc làm nơi coi chầu, bên đông là điện Phong Lưu, bên tây là điện Cực Lạc, rồi làm lầu Đại Vân, dựng điện Trường Xuân làm nơi vua ngủ, bên cạnh điện Trường Xuân lại dựng điện Long Lộc, lợp bằng ngói bạc...”, lâu đài điện các như thế, tưởng đã đến cùng xa cực xỉ.