VŨ NHƯ QUỲNH
Khẳng định vai trò đặc biệt của công tác tuyên giáo, Đảng ta đã tập trung xây dựng và phát triển lực lượng tuyên giáo với đầy đủ các lực lượng tinh nhuệ, đủ sức gánh vác nhiệm vụ của Đảng và nhân dân giao phó.
Ảnh minh họa: internet
Trong đó, đội ngũ văn nghệ sĩ cũng là một lực lượng quan trọng, đóng góp to lớn với sự nghiệp cách mạng của dân tộc, với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trên nhiều lĩnh vực.
Vượt qua nhiều cam go, thách thức, các thế hệ văn nghệ sĩ trên mặt trận tuyên giáo 91 năm qua luôn kiên trung nêu cao tinh thần đoàn kết, sáng tạo, không ngại gian khổ, hy sinh, đi trước, đi cùng với phong trào quần chúng, phấn đấu không mệt mỏi cho lý tưởng và sự nghiệp cách mạng cao cả.
Những đóng góp của văn nghệ sĩ đối với công tác tuyên giáo đã góp phần tô thắm trang sử vẻ vang, hào hùng trong các cuộc kháng chiến cứu nước, giành độc lập dân tộc, thu giang sơn về một mối. Bằng các tác phẩm, sáng tạo của mình, đội ngũ văn nghệ sĩ đã và đang góp phần quan trọng cổ động, khích lệ ý chí tinh thần của toàn xã hội trong công cuộc xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
Văn nghệ sĩ không chỉ là người tiếp nhận định hướng chính trị, tư tưởng của Đảng, mà còn là người đồng hành tự nguyện với Đảng, với dân tộc trên con đường phát triển đất nước cường thịnh, vững bền. Nhà thơ Tố Hữu - nhà chính trị và nhà tư tưởng xuất sắc từng viết:
“Nếu được làm hạt giống để mùa sau
Nếu lịch sử chọn ta làm điểm tựa
Vui gì hơn làm người lính đi đầu
Trong đêm tối, tim ta làm ngọn lửa!”.
“Người lính đi đầu”, hay “đi trước” ở đây, được phác họa là một người lính tiên phong trên mặt trận tư tưởng - văn hóa. Một mặt trận không có tiếng súng nhưng luôn chứa đựng những cam go, phức tạp, và cả sự hy sinh mất mát. Và văn nghệ sĩ cũng vinh dự là một trong những người lính trong hàng ngũ đó. Bên cạnh việc đề cao tính nhân văn, lòng yêu nước và ý thức công dân của những người làm nghệ thuật, trong những sáng tác của mình, các thế hệ văn nghệ sĩ trên mặt trận tư tưởng luôn hiểu rõ tính khoa học xuất phát từ thực tế khách quan, từ quy luật phát triển của xã hội và tính chân thực của thực tiễn, hiểu quy luật vận động của lịch sử, nắm bắt được xu thế phát triển của thời đại để sáng tác ra những tác phẩm cổ động phù hợp tình hình thời cuộc. Có thể nói rằng, khi nhớ tới lịch sử cách mạng của đất nước thì đầu tiên là nhớ những tác phẩm văn học, các ca khúc, bài thơ… những chất liệu động viên đó còn nguyên giá trị cho các thế hệ cho đến ngày hôm nay và luôn có sức tỏa rất lớn.
Từ trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, đội ngũ văn nghệ sĩ đã có sứ mệnh hết sức đặc biệt và quan trọng của mình - đó là thông qua các tác phẩm nghệ thuật góp phần giác ngộ các tầng lớp nhân dân ủng hộ cách mạng. Khi đất nước còn bị chiến tranh xâm lược, có những nhà văn, nhà thơ làm cách mạng đã bị địch bắt, tù đày, tra tấn rất dã man nhưng các đồng chí ấy vẫn giữ vững khí tiết, thà hy sinh chứ nhất định không chịu khuất phục trước kẻ thù. Việc đi theo lý tưởng vì nhân dân Tổ quốc, đội ngũ văn nghệ sĩ đã tự nguyện ghép mình trong tư thế người chiến sĩ trên mặt trận văn hóa, sống và sáng tạo ở những nơi mũi nhọn của đất nước, những mặt trận gian khổ, ác liệt nhất. Nhiều văn nghệ sĩ đã anh dũng ngã xuống như những người anh hùng vì nền độc lập tự do của đất nước. Tiếp nối mạch truyền thống cho đến hôm nay, đội ngũ văn nghệ sĩ bằng những sáng tác của mình, đã và đang tiếp tục góp phần truyền cảm hứng của nghệ thuật để động viên nhân dân cùng thực hiện những chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước. Họ bằng khả năng sáng tạo nghệ thuật của mình cũng đã góp phần phát hiện được những vấn đề mới, những điển hình tốt, biểu dương, nhân rộng, đồng thời vạch ra những hiện tượng, những biểu hiện sai trái để phê phán, uốn nắn giúp cho xã hội tốt đẹp hơn.
Tin tưởng rằng, trong thời gian đến đội ngũ văn nghệ sĩ sẽ tiếp nối truyền thống là những người lính tuyến đầu trên mặt trận tư tưởng. Bằng tài năng, sở trường đặc biệt và niềm đam mê nghệ thuật, tiếp tục sáng tạo, kết tinh các tác phẩm, có sức mạnh lay chuyển cảm xúc, gieo vào trái tim công chúng những điều tốt đẹp, tiếp tục đóng góp, cổ động mạnh mẽ công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
V.N.Q
(TCSH390/08-2021)
Sóng đôi (bài tỉ, sắp hàng ngang nhau) là phép tu từ cổ xưa trong đó các bộ phận giống nhau của câu được lặp lại trong câu hay đoạn văn, thơ, làm cho cấu trúc lời văn được chỉnh tề, rõ rệt, nhất quán, đồng thời do sự lặp lại mà tạo thành nhịp điệu mạnh mẽ, như thác nước từ trên cao đổ xuống, hình thành khí thế của lời văn lời thơ.
LTS: Trên Sông Hương số tháng 10 - 2007, chúng tôi đã giới thiệu về công trình “La littérature en péril” (Nền văn chương đang lâm nguy) củaTzvetan Todorov - nhà triết học, mỹ học và nhà lý luận văn học nổi tiếng của Pháp.
Theo định nghĩa hiện nay, trường ca là một tác phẩm thơ có dung lượng lớn, thường có cốt truyện tự sự hoặc trữ tình.
(Phát biểu ý kiến góp phần vào nội dung Đề án Nghị quyết về “Xây dựng đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH...” của Ban Tuyên giáo Trung ương).
1. Cuốn sách về nhà tình báo nổi tiếng - anh hùng Phạm Xuân Ẩn (PXÂ) của giáo sư sử học người Mỹ Larry Berman, khi được xuất bản bằng tiếng Việt có thêm phụ đề “Cuộc đời hai mặt không thể tin được của Phạm Xuân Ẩn”.
Lâm Thị Mỹ Dạ là một nhà thơ trưởng thành trong phong trào chống Mỹ. Nhắc đến thơ chị, người ta thường nhớ đến những bài thơ mang đậm âm hưởng sử thi như Khoảng trời, hố bom, hoặc dịu dàng, nữ tính nhưng không kém phần thẳng thắn như Anh đừng khen em, hoặc nồng cháy yêu đương như Không đề…
"Không có cách khác, thưa ngài. Tất cả cái gì không phải văn xuôi thì là thơ; và tất cả cái gì không phải thơ thì là văn xuôi"(Gã tư sản quý tộc, Molière). Trên đây là định nghĩa "thâm thúy" của thầy dạy triết cho ông Jourdain, người mà đã hơn bốn mươi năm trời vẫn sai bảo người ăn kẻ làm, vẫn hằng ngày trò chuyện với mọi người bằng "văn xuôi" mà không tự biết.
(Trò chuyện trên Sông Hương)
Trong những vấn đề mới của lý luận văn học hiện nay, các nhà nghiên cứu thường nói đến chức năng giao tiếp của văn học. Khi nói văn học có chức năng giao tiếp thì cũng có nghĩa cho rằng văn học ở ngoài giao tiếp.
PHONG LÊ …Không đầy hai thập niên đầu thế kỷ, trong những thức nhận mới của đất nước, nền văn chương- học thuật của dân tộc bỗng chuyển sang một mô hình khác- mô hình quốc ngữ, với sức chuyên chở và phổ cập được trao cho phong trào báo chí, xuất bản bỗng lần đầu tiên xuất hiện và sớm trở nên sôi nổi như chưa bào giờ có trong ngót nghìn năm nền văn chương học thuật cổ truyền…
Vừa qua bà văn sĩ Nguyễn Khoa Bội Lan ở Phú Thượng (Huế) đột ngột gọi dây nói cho tôi than phiền về những chi tiết sai với lịch sử trong bài Phạn Bội Châu với Hương Giang thư quán của Chu Trọng Huyến đăng trên Tạp chí Sông Hương số 116 (10. 1998)
Chúng tôi cho rằng trong lịch sử văn học Việt chỉ có Chí Phèo mới là một hình tượng đích thực. Chí Phèo là hiện thân của sự tồn tại vĩnh cửu của bản ngã VÔ CAN.
Đó là bản đàn Thúy Kiều đàn cho Kim Trọng nghe lần cuối trong ngày tái hợp. Bản đàn chứa đầy những mâu thuẫn nghịch lý, bởi vì cũng như bao lần trước, lần này vẫn là bản “bạc mệnh” năm xưa. Nhập hồn Kim Trọng, Nguyễn Du bình luận: Lọt tai nghe suốt năm cung Tiếng nào là chẳng não nùng (*) xôn xaoTác quyền và nghệ nhân biểu diễn vẫn là nàng Kiều chứ không còn ai khác, nhưng thật lạ: Xưa sao sầu thảm, nay sao vui vầy?Kim Trọng, tri âm và trong cuộc vẫn không khỏi "hồ đồ", huống gì chúng ta, những người đến sau Nguyễn Du muộn hơn hai thế kỷ?
Có thể nói, học tập phong cách ngôn ngữ Chủ tịch Hồ Chí Minh, trước hết, là học tập cách viết và cách lập luận chặt chẽ qua từng câu chữ, mỗi trang văn chính luận. Những văn bản: “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”, “Tuyên truyền”, “Bản án chế độ thực dân Pháp”, “Tuyên ngôn Độc lập” luôn là những áng văn mẫu mực về phong cách ngôn ngữ ngắn gọn, chắc chắn, dễ hiểu, chính xác và giàu cảm xúc.
NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP1. Đội ngũ các nhà văn trẻ mà tôi nói tới trong bài viết này là những cây bút sinh ra sau 1975. Biết rằng trong văn chương, khái niệm trẻ/ già chỉ là một khái niệm có tính “tương đối” vì già hay trẻ đều phải nỗ lực để tạo nên những tác phẩm xuất sắc, vị trí của họ phải được đánh giá thông qua tác phẩm chứ không phải từ những chiếu cố ngoài văn học.
NGUYỄN KHẮC PHÊTrong văn chương, cách gọi “chủ nghĩa” này hay “chủ nghĩa” khác đều không ổn, thậm chí có hại vì vô hình trung như thế là cách buộc nhà văn theo “một con đường” vạch sẵn mà từ hơn nửa thế kỷ trước, Hải Triều đã lên án...