PHI TÂN
Làng Đại Lộc quê tôi cách biển không xa, nhưng người làng tôi không một ai biết đi biển đánh cá. Nghề đi biển là của những người đàn ông làng biển.
Đua ghe thúng Quảng Ngạn - Ảnh Hồ Ngọc Sơn
Những ngôi làng sát ngay chân sóng với nghề khai thác biển từ bao đời nay...
Hồi trước, đường từ làng tôi ra biển là một con đường cát trắng, thỉnh thoảng mới có một đoạn rải những tấm ri từ chiến tranh sót lại. Tất nhiên, đường như thế thì không có loại phương tiện giao thông mô đi lại được ngoài đôi bàn chân của con người. Tôi nhớ, lần đầu tôi được đi biển chơi là nhờ chú Rô và anh Cường xin ba tôi cho hai anh em cùng ra biển để chơi. Con đường toàn cát trắng ngập cả bàn chân, đi một đoạn là mỏi nên thỉnh thoảng chú Rô và anh Cường phải cõng hai anh em tôi. Cuốc bộ như thế chừng ba tiếng đồng hồ thì chúng tôi cũng đến làng biển Tân Hội.
Vượt qua những trảng cát trắng dài, những đồng cỏ cháy, những con khe nước cạn và trong, ngôi làng biển hiện ra trước mắt tôi như một ốc đảo xanh tươi. Ở đó, có những ngôi nhà xinh xắn, những bờ rào giăng trắng lưới phơi và đẹp nhất là những cây dừa thấp treo đầy trái ôm ấp quanh những ngôi nhà. Trưa hôm đó, sau khi ra tắm biển, mấy người bạn của chú Rô đãi chúng tôi món cá nục tươi hấp và sau đó giải khát bằng nước dừa...
Lần thứ hai tôi ra biển là năm học lớp 6, khi nhà trường tổ chức cho các lớp đi biển chơi. Đó không phải là chuyến đi biển đầu tiên của tôi nhưng là chuyến đi ấn tượng nhất. Ấn tượng bởi vì ở cái làng biển Mỹ Hòa heo hút giữa muôn trùng gió cát đó chỉ mấy chục nóc nhà thôi cũng có một lớp học và có một cô giáo đã bám trụ một mình để dạy học cho các lớp học ghép của làng. Đó là cô Khánh, quê ở Quảng Bình; cô Khánh gầy gò nhưng nhanh nhẹn và rất vui tính, có lẽ sự lạc quan này đã giúp cho cô có đủ tình thương để bám trụ hơn 5 năm ở đây dạy học ở làng biển hẻo lánh và buồn bã này. Nghe cô Khánh kể những chuyện gian khó của mình trong những năm tháng dài mà gương mặt hoàn toàn không gợn chút buồn. Ăn một mình, ở một mình trong căn phòng phên nứa tạm bợ, giấc ngủ hàng đêm phải giật mình nghe biển gào sóng dữ, nhất là mùa biển động. Buổi trưa hôm đó, cô Khánh còn nấu cho thầy trò từ trong làng ruộng ra một nồi khoai tím cát ăn ngọt lịm… Cô Khánh đã bền bỉ dạy học trò làng biển Mỹ Hòa, Tân Hội mấy năm trời như rứa cho đến khi hai làng này nhập vô xã Điền Lộc của tôi thì cô mới được vào dạy cơ sở chính của trường THCS Điền Lộc ở làng tôi.
Năm lớp 7 thì lớp chúng tôi đón thêm những thành viên mới đến từ hai làng biển Mỹ Hòa, Tân Hội: Tuấn, Tươi, Phương, Sương, Hường, Ti Gôn... Các bạn đi học rất chuyên cần, luôn là những người đến trường sớm nhất. Mà để đến trường sớm thì các bạn ấy phải xuất phát từ nhà từ 4 giờ sáng và có những buổi học về muộn các bạn về đến nhà trời đã chiều. Hoàn cảnh như rứa nhưng các bạn đều học từ khá đến giỏi. Sau này, Sương còn kể lại chuyện những đêm đi vô làng tôi hoặc làng Kế Môn coi chiếu bóng. Coi phim xong, ra tới đầu làng thì trăng đã tàn trên độn cát, sương đã xuống giăng mờ trên mấy bờ phi lao và mấy mệ, mấy o trong làng đã triêng gióng lên đường đi chợ Đại Lược bán cá. Xa ngái và vất vả với đường sá như vậy nhưng cứ nghe có chiếu bóng về là đứa mô cũng háo hức rủ nhau đi...
Cơn bão năm 1985, làng tôi bị thiệt hại nhiều nhưng kinh hoàng là ở những ngôi làng sát biển này. Những rặng dừa bị bão quật nằm rạp và những ngôi nhà xinh xắn bị san bằng. Sau bão, mấy học sinh trường tôi được thầy cô giáo dẫn ra thăm các bạn để cùng động viên mấy bạn tiếp tục đến trường. Gặp bạn đang ngồi trong cái chòi che tạm nước mắt chảy dài. Sau cơn bão này thì có mấy bạn nghỉ học...
Nhớ đến những làng biển là lại nhớ những trận banh trên sân Đồng Dạ làng tôi. Năm đó xã tổ chức giải bóng đá giữa các thôn. Đội banh làng tôi là chủ nhà lại chinh chiến nhiều nên có phần coi nhẹ hai đội banh làng biển. Không ngờ mấy cầu thủ chân trần trên cát trắng đá quá hay. Làng Tân Hội cỡ chừng hơn 30 nóc nhà, đội banh chỉ 3 cầu thủ dự bị, rứa mà chỉ chịu thua đội banh làng tôi sát nút. Nhưng đội banh Mỹ Hòa mới thiện chiến. Họ vừa chạy nhanh vừa bền sức, lại có kỹ thuật. Tôi hồi đó con nít, đi coi đá banh mà còn nhớ tên trung vệ Tiến Hậu đá tốt cả hai chân, bọc lót không sót đường banh tấn công mô của đối phương; tiền vệ Tất nhỏ con, chỉ mang một chiếc tất màu đen ở chân trái khi thi đấu chạy nhanh như con còng còng; cầu thủ chạy cánh Dài có mái tóc dài như Gulit của đội tuyển Hà Lan nhưng tóc mọc thẳng hơn; hay tiền đạo Tuấn “hề” có bộ râu như chú hề cải lương và có cú ngoặt bóng không giống ai. Đội banh làng tôi chủ quan nên bị đội banh Mỹ Hoà dẫn 2 - 1, đến gần cuối trận đấu đội banh làng tôi mới gỡ hòa nhờ quả phạt đền. Sau trận đấu, nhiều người nói đội banh làng biển Mỹ Hòa hay hơn; đội làng Đại Lộc mình gỡ hòa là nhờ trọng tài nhà thiên vị. Tôi hơi buồn nhưng cũng công nhận đội Mỹ Hòa hay.
Con đường bê tông nối làng tôi với hai làng biển đã được xây dựng cũng mấy chục năm rồi. Những làng biển không còn là ốc đảo xanh tươi như xưa. Tôi có mấy lần ra làng biển coi đua ghe hay công chuyện nhưng không gặp lại bạn học năm cũ. Bạn tôi họ Lại rồi có cả một dòng họ Chế ở làng biển Mỹ Hòa này. Những làng biển đã mang trong mình nhiều trầm tích văn hóa và lịch sử...
Có thằng bạn hay tếu táo của tôi vô Sài Gòn chơi. Anh em bạn bè lâu ngày hỏi mi bữa ni làm chi rồi? Hắn trả lời tỉnh bơ rằng, tau đang làm ở phi trường. Ai cũng ngạc nhiên nói mi học sư phạm mà, làm trái nghề à? Hắn mới cười nói tau dạy ngoài biển phường Tri, Phong Hải đó; thì ra bạn ấy đang chơi trò nói lái. Những làng biển ở phía Đông Bắc xứ Huế còn gọi là phường: phường Tri, phường Chứa, phường Ngon... Làng biển Hải Nhuận vừa mới được công nhận là làng nghề truyền thống nước mắm của tỉnh Thừa Thiên Huế xưa kia gồm 2 phường là phường Nạng và phường Đoài thuộc làng Thế Chí Đông. Đến đời vua Tự Đức mới xin triều đình nhà Nguyễn tách ra thành làng Hải Nhuận để thuận lợi hơn về địa lý cũng như nghề đi biển. Người đã giải quyết đơn xin tách làng cho hai phường Nạng và phường Đoài là quan đại thần Trương Như Cương với lời châu phê: “Bạch sa Hoàng sa biệt vi Hải Nhuận” (có nghĩa là làng Hải Nhuận được chia nơi nào có cát trắng và cát vàng). Cái tên làng Hải Nhuận cũng được ra đời từ lời châu phê của ông Trương Như Cương.
Suốt dọc vùng cát Ngũ Điền, thường thì cứ sau một làng làm ruộng cách một bãi cát trắng dài là có từ một đến hai làng biển sinh sống. Điều lạ là sau hai làng làm ruộng Kế Môn và Vĩnh Xương lại không có một làng biển nào mà chỉ là một bãi biển dài xanh một màu phi lao. Thực ra thì những năm 1980 có một làng biển phía sau độn làng Kế Môn là làng Trung Hải. Nhưng đây là một làng biển giãn dân từ Phong Hải lên trong những năm đầu hòa bình. Làng mới Trung Hải chỉ lèo tèo vài nóc nhà. Quanh làng là những trằm nước cạn. Đó là nơi sinh trưởng lý tưởng của cây cỏ cồn. Tôi nhớ có một mùa hè khi bông cỏ cồn được thu mua, từ người lớn đến trẻ con xóm tôi bới cơm ra Trung Hải nhổ cỏ cồn. Đến giờ ăn trưa, mấy đứa trẻ con trong làng ra nhìn chúng tôi ăn. Chúng cũng đang đói. Cô Nhạ hàng xóm tôi đã bớt đi mấy phần cơm cho mấy đứa nhỏ. Làng Trung Hải tồn tại chừng mấy năm. Người dân đánh cá, trồng khoai không đủ ăn nên buộc họ trở về bản quán hoặc xa xứ tìm kế mưu sinh...
Có lần tôi về Phong Hải chơi và được mấy người quen đánh xe chạy lên làng biển Trung Đồng ăn kỵ. Làng Trung Đồng là làng biển địa đầu của Thừa Thiên Huế giáp với làng Khê, Quảng Trị. Đây là một làng biển ra đời từ lâu và cũng chịu nhiều biến cố. Tôi không còn nhớ chủ nhà tên chi nhưng chỉ biết chú ấy họ Văn. Theo lời kể của chú thì họ Văn của chú là một trong bốn họ khai canh của làng Trung Đồng. Ngày xưa, ngài thủy tổ của họ Văn có gốc tích từ họ Văn làng Phong Lai, huyện Quảng Điền đã vượt phá Tam Giang rồi theo đường bộ và dừng chân tại bãi biển hoang sơ. Ông đã cùng mấy người con lấy kinh nghiệm đánh cá trên phá mà làm nghề đánh cá trên biển để lập nên xóm nên làng. Họ Văn sau này thành một họ lớn của làng Trung Đồng...
Nhưng làng biển Trung Đồng này đã gặp một biến cố đau thương vào năm 1947 khi giặc Pháp tràn vào làng. Gần như toàn bộ làng biển này bị lửa giặc thiêu rụi và chỉ những người đi đánh cá ngoài khơi và những người đi buôn bán xa làng là còn sống sót. Như họ Văn của chú chủ nhà chỉ còn lại 7 người đàn ông. Những ngư dân làng biển Trung Đồng đã không bỏ làng bỏ biển mà đi mà họ đã gây dựng lại làng từ tro tàn. Thì ra ngày hôm đó là ngày kỵ chung của làng Trung Đồng để tưởng nhớ những con dân làng đã mất trong vụ thảm sát năm xưa...
P.T
(SHSDB37/06-2020)
NGÔ THỊ Ý NHI
Ở Huế, có những buổi sáng cứ thích nằm nghe tiếng con nít rủ nhau đến trường ríu rít như chim. Bình yên đến lạ! Thành phố nhỏ bé, nhịp sống không vội vàng, những con đường hiền lành, êm ả trẻ con dễ dàng đi bộ.
Kỷ niệm 30 năm Ngày hội Quốc phòng toàn dân (22/12/1989 - 22/12/2019) và 75 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22/12/1944 - 22/12/2019)
PHẠM THUẬN THÀNH
NGUYỄN ĐẮC XUÂN
Năm Nhâm Tý (1672), chúa Trịnh xua 180 ngàn quân vào Nam, có ý vượt sông Gianh đánh chúa Nguyễn. Trấn thủ Bố Chính là Nguyễn Triều Văn hoảng sợ chạy vô Kim Long cấp báo với Hiền Vương (tức chúa Nguyễn Phúc Tần).
TÔN THẤT BÌNH
BÙI KIM CHI
Ngày xưa, cách đây 60 năm, ở đường Duy Tân Huế từ cầu Trường Tiền đi xuống, qua khỏi Morin (cũ), đi một đoạn, có một địa điểm mang cái tên nghe là lạ Ngọ Phạn Điếm. Càng lạ và đặc biệt hơn nữa, Ngọ Phạn Điếm chỉ đón khách vào ăn một bữa trưa (demi-pension) trong ngày là học sinh của Trường Nữ Trung học Đồng Khánh Huế mà thôi.
LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG
Bút ký
KỶ NIỆM 20 NĂM CƠN LŨ LỊCH SỬ 1999
TRẦN PHƯƠNG TRÀ
NGUYỄN DƯ
Ngày xưa thi đỗ tiến sĩ… sướng lắm!
Nghe đồn như vậy. Ít ra cũng được vua biết mặt chúa biết tên. Được cả làng, cả tổng đón rước về tận nhà. Chữ nghĩa gọi là rước tiến sĩ vinh quy bái tổ.
PHI TÂN
Hồi trước, khi làng xã tôi còn đoàn đội tập thể hay hợp tác xã sản xuất nông nghiệp thì đàn trâu ở làng cũng của hợp tác luôn. Trâu được các hộ xã viên nhận về nuôi để ăn chia công điểm. Nhà mô có nuôi trâu thì con cháu trong nhà phải nghỉ học sớm để chăn trâu hàng ngày.
HOÀNG THỊ NHƯ HUY
Ngày thơ ấu tôi đã bao lần ngủ ngon giấc trong lời ầu ơ của mẹ:
Kỷ niệm 50 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh (1969 - 2019) và 50 năm Ngày mất của Người (02/09)
HỒ NGỌC DIỆP
Kỷ Niệm 72 Năm Ngày Thương Binh - Liệt Sĩ (27/7/1947 - 27/7/2019)
PHẠM HỮU THU
DƯƠNG PHƯỚC THU
Nhà thơ, nhà cách mạng Tố Hữu tên thật là Nguyễn Kim Thành, sinh ngày 4 tháng 10 năm 1920 tại làng Hội An, nơi xưa kia thường gọi là Faifô (vì làng này ở gần cửa Đại An nên quen gọi Hải Phố mà ra thế) nay Hội An đã lên cấp là thành phố thuộc tỉnh Quảng Nam; quê nội Nguyễn Kim Thành ở làng Phù Lai, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.
NGUYỄN THƯỢNG HIỀN
Dáng thế của đồi Hà Khê như một con linh thú vừa tách khỏi đất mẹ, rời tổ uống mấy ngụm nước bên bờ dòng Linh Giang. Quay đầu hướng về quê mẹ, đất tổ Trường Sơn như một lời từ biệt, lòng rộn buồn vui. Một nhát gươm chí mạng của thuật sĩ Cao Biền, thân thú mang nặng vết thương vẫn còn hằn sâu ở chân đồi.
ELENA PUCILLO TRUONG
(Viết cho những người bạn cầm phấn)
Kỷ niệm Ngày báo chí Cách mạng Việt Nam 21/6
NGUYỄN XUÂN HẢI
ĐÔNG HÀ
33 năm đổi mới trong Văn học Thừa Thiên Huế
NGUYỄN ĐỨC HÙNG
Một chiều cuối năm 2018, tôi nhận được tấm thiệp mời nhân dịp Lễ mừng tuổi chín mươi của nhà giáo Trần Thân Mỹ và kỷ niệm 65 năm ngày cưới của ông bà Trần Thân Mỹ và Dương Thị Kim Lan. Nếu tính từ mốc tôi được ông đặt bút ký vào hồ sơ chuyển ngành từ Quân đội về làm việc tại Phòng Văn hóa Thông tin (VHTT) thành phố Huế là tròn 35 năm, trong đó có 7 năm (1983 - 1990) tôi được làm việc trực tiếp với ông trước khi ông nghỉ hưu. Ông là vị thủ trưởng khả kính đầu tiên của tôi, là người đã giáo dục, đào tạo và có ảnh hưởng rất lớn đối với tôi.
VŨ SỰ
Ngày xưa, chuyện “chồng già vợ trẻ” cũng là chuyện thường tình. Xứ Huế đầu thế kỷ 20, cũng có những chuyện thường tình như thế. Nhưng trong những chuyện thường tình ấy, cũng có vài chuyện “không thường tình”, ngẫm lại cũng vui.