Một hình ảnh phía trong lăng Minh Mạng - Ảnh: vn.wz.cz
Đứng ở hữu ngạn sông Hương phía dưới chợ Tuần chúng ta trông qua ngả ba Bằng Lãng sẽ thấy khu lăng nằm thanh thản nổi rõ giữa núi đồi, trời mây, sông nước thật ngoạn mục. Sự an bài trước cảnh “sơn hồi thủy tụ” này tạo cho khu lăng rất đổi tự nhiên. Dòng sông Hương trong xanh như một dải lụa làm bức diềm phía trên. Núi Kim Phụng cân phân làm cái gối dệt phía sau. Rừng thông chỗ đậm, chỗ thưa, làm các công trình kiến trúc bên trong thấp thoáng như ẩn mà như hiện dưới các tàn lá xanh tạo nên sự hài hòa, ăn ý giữa con người và thiên nhiên. Đây là lăng vua Nguyễn thứ hai, sau lăng Gia Long và cũng là lăng hoàn chỉnh mang trọn dấu ấn của chế độ quân chủ tập quyền Việt Nam ở điểm cao của nó. Cá tính của mỗi ông vua, tâm lý triều đại và bối cảnh xã hội từng thời cùng với một yếu tố nữa không thể không tính đến là trình độ thẩm mỹ và kỹ thuật ở mỗi giai đoạn lịch sử đã tạo nên những phong cách riêng ở từng lăng. Tôi muốn nói những điều trên trước khi bàn đến lăng Minh Mạng. Bởi vì muốn tự mình gạt ra khỏi mình cái tự ti dân tộc thật buồn cười. Lăng vua Nguyễn ở Huế lại “bắt chước” lăng vua nhà Minh bên Trung Quốc sao. Trong lịch sử loài người việc giao lưu văn hoá giữa các dân tộc láng giềng thường diễn ra như một điều tất yếu. Tuy nhiên về mặt kiến trúc lại không phải giản đơn để phôi pha tính dân tộc cổ truyền của nó. Vả lại ở một đất nước đã có những con người như Nguyễn An biết thiết kế cố cung cho nước Trung Hoa, lẽ nào đất nước đó lại không có người biết sáng tạo ra những tổng thể kiến trúc trên tổ quốc mình. Hơn nữa, khi các vua Nguyễn xây lăng cho mình thì các lăng vua Minh đã trở thành những nấm mồ vô chủ thê lương dưới triều Mãn Thanh. Trong ý thức tư tưởng phong kiến phương Đông ít khi người ta noi theo những gì đã suy vong. Vả lại, cảm tưởng ban đầu khi bước vào các khu lăng vua Nguyễn ở Huế, du khách thường thấy nhẹ nhõm, khoáng đạt. Lăng các vua Minh không tạo được không khí công viên như thế. Điều làm cho một vài người coi lăng vua Nguyễn là bản sao lăng vua Minh có lẽ ở sự thể hiện thế giới quan theo cùng một mạch Nho giáo mà hai nhà nước phong kiến phương Đông này đều coi như một thứ cẩm nang để “tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Viết thử tìm hiểu “Những nét đơn giản có ích trong bố cục kiến trúc lăng Minh Mạng”, chúng tôi muốn có những kết luận khách quan và công bằng hơn. Minh Mạng lên nối ngôi khi chế độ quân chủ trung ương tập quyền nhà Nguyễn đã được củng cố triệt để. Từ sự điều chỉnh thể chế, kỷ cương trên phạm vi cả nước đến sự bố cục lại vị trí các công trình kiến trúc trong Hoàng thành và quy hoạch khu lăng cho chính mình, Minh Mạng đã bộc lộ đầy đủ cá tính của một ông vua đắc ý. Thế nhưng, trong một nhà nước phong kiến phương Đông ở thế kỷ XIX, khi mà sản xuất hàng hóa đã manh nha mà vẫn giữ phương thức sản xuất lỗi thời, kìm hãm sức sản xuất mới thì tự nó đã trở thành phản động lực. Sự đòi giải phóng như là một điều tất yếu. Chế độ phong kiến ở Việt Nam lúc này đã bước vào buổi mãn chiều. Các phong trào khởi nghĩa nông dân vì thế không hề giảm xuống mà ngày có xu hướng lan rộng hơn và mạnh hơn. Trong bài viết nhỏ này, chúng tôi không có dụng ý phê phán bản chất chế độ phong kiến nhà Nguyễn mà Minh Mạng là người đại diện. Ở đây, khi bàn về bố cục kiến trúc một khu lăng, điều đáng ngợi ca lại thuộc về nghệ nhân và thợ thủ công nửa đầu thế kỷ XIX. Điểm qua vài nét về Minh Mạng và bối cảnh xã hội đương thời cũng không ngoài ý nghĩa làm nền khi bàn đến bố cục kiến trúc khu lăng. Minh Mạng với ngót hai mươi năm ở địa vị hoàng đế đã đưa triều đại phong kiến nhà Nguyễn đến đỉnh cao của nó. Lăng Minh Mạng được khởi công xây dựng vào thời điểm cuối cùng của đỉnh cao này. Nhìn vào bố cục kiến trúc đăng đối, thâm nghiêm của khu lăng như là sự phản ánh chế độ quân chủ chuyên chế ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX. Một điều thú vị là trong sự nghiêm khắc đăng đối rất công thức ấy, những nhà kiến trúc và nghệ nhân thuở đó đã tạo nên những nét giản đơn, cái giản đơn buông thả, bất ngờ như vô ý nhưng là cố ý phối hợp với sự cầu kỳ quả thật có ích, tạo cho khu lăng Minh Mạng một cái duyên riêng, càng ngắm càng vui mắt. Trí tuệ và bàn tay của người lao động Việt Nam như vậy đó. Công việc xây lăng được chính thức bắt đầu từ tháng 4 năm 1840 sau khi Minh Mạng lên xem xét khu đất này lần cuối cùng và đổi tên núi Cẩm Kê thành tên Hiếu Sơn. Vì vậy lăng Minh Mạng có tên là Hiếu Lăng. Ngay lúc đó Trương Đăng Quế, Bùi Công Huyên đem giám thành vệ lên vẽ đồ án thiết kế. Minh Mạng hài lòng phê chuẩn và ban thưởng cho mọi người rồi ra lệnh khởi công. (Thực ra công việc chuẩn bị xây lăng đã được bắt đầu từ trước đó mười bốn năm (1826), khi Lê Văn Đức tìm ra cuộc đất này). Lúc ấy Minh Mạng mới 36 tuổi. Đợt đầu do các ông Đổng lý Lê Đăng Doanh, Nguyễn Trung Mậu, Lý Văn Phức điều khiển các công việc. Bốn tháng sau (8-1840), Minh Mạng lại lên kiểm tra, không vừa ý vì công việc đào hai nửa hồ Trừng Minh thiếu cân đối nên đã giáng chức tất cả các quan trông coi và đình chỉ công việc. Đầu năm 1841, Minh Mạng chết, Nguyễn Phúc Miên Tôn lên nối ngôi đặt niên hiệu là Thiệu Trị (11-2-1841), mười ngày sau ông vua mới này lại cho bắt đầu công việc xây lăng của cha mình đại thể như đồ án cũ. Mọi công việc hoàn tất vào cuối năm 1843. Thiệu Trị có châm chước một phần vì sự không cân bằng hai phần hồ Trừng Minh mà Minh Mạng trước đó rất khó chịu. Điều này một phần do cá tính của Miên Tôn, nhưng một phần do sự bức xúc cần đưa thi hài người quá cố vào lăng không cho phép kéo dài công việc.
Các công trình kiến trúc bên trong được bao bọc bởi một vòng La thành bằng gạch có chu vi 1732m. Chức năng chủ yếu của La thành là bảo vệ lăng. Tuy nhiên nó uốn lượn mềm mại, giản đơn mà không theo một khuôn dạng hình học nào cả nên mặc dù cao đến 3m vẫn không làm chúng ta tức mắt. Vì thế về mặt thẩm mỹ nó chỉ còn là giới hạn qui ước để cho không gian từ xa nhập vào trong tâm lăng không đứt mạch, không gián đoạn. Lăng có khuôn viên riêng vẫn có cảm tưởng như là hoành tráng. Giới hạn mà không giới hạn, chung, rất chung mà lại rất riêng. Ai bảo những điều như thế các nhà kiến trúc Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX không có dụng ý! Phía trước, vuông góc với đường thần đạo (trục chính xuyên tâm điện thờ và mộ), La thành được tạo nên một đoạn rất thẳng. Chính giữa đoạn thẳng đó là Đại Hồng môn (cửa chính vào lăng) nằm trên điểm đầu của đường thần đạo. Hai đầu đoạn thẳng này là Tả Hồng môn và Hữu Hồng môn. Đoạn thẳng của La thành phối hợp với sân chầu (Bái đình) tạo nên một hình vuông và gây ấn tượng vuông cho cả khu vực điện thờ nằm trên một dải đất cao do đào hồ Trừng Minh đắp lên được đặt tên Phụng thần sơn. Tiếp sau sân chầu là nhà bia (Bi đình) trong đó dựng một tấm bia đá hình chữ nhật (3,10m x 1,60m) cũng được gọi là “Thánh đức thần công” do Thiệu Trị soạn nội dung nói về tiểu sử và công đức của vua cha. Sân Triều lễ có ba cấp tượng trưng cho thiên, địa, nhân (tam tài) nối sân nhà bia với Hiển Đức môn phía trên có vọng lâu và nằm giữa đường Thần Đạo. Điện Sùng Ân nằm ở vị trí trung tâm Phụng thần sơn, kiến trúc theo lối trùng thiềm điệp ốc. Tiền điện bảy gian: chính điện năm gian. Sân trước điện Sùng Ân chung với sân Tả Tùng tự và Hữu Tùng tự. Sân sau chung với tả tùng viện và hữu tùng viện. Cả năm công trình kiến trúc này hợp lại thành hình chữ công (I) được bao bọc chung quanh bởi một khung thành hình vuông bằng gạch thấp và mỏng hơn La thành. Đối xứng với Hiển Đức môn (phía trước), Hoằng Trạch môn (phía sau) cũng nằm trên trục Thần Đạo ở điểm gặp khung thành phía sau điện Sùng Ân. Điều đáng lưu ý ở đây là tại cụm kiến trúc chính chúng ta đều không tìm thấy dáng dấp Thăng Long. Bờ nóc, bờ quyết không bay vút lên để tan vào không gian như kiến trúc cổ ở miền Bắc nước ta. Mái thẳng ngang, cột nhỏ mảnh mai không vuốt thon. Mái không võng xuống, lại được cắt ra làm hai phần giữa có một dãy cổ diềm chia từng ô trang trí nên trông không mềm mại nhưng lại đỡ nặng nề. Đặc biệt hàng cột hiên nhỏ cắt không gian mặt trước ra từng ô làm cho ngôi nhà tưởng như cao hơn tầm cao thực của nó. Chúng tôi nghĩ rằng đó cũng là những nét giản đơn có ích bổ sung vào vẻ thanh tú của nghệ thuật kiến trúc Huế. Qua vòm cuốn của Hoằng Trạch môn xuống khỏi tam cấp gồm mười bảy bậc bó bằng đá Thanh thì đến ba cái cầu xây song song nối Phụng Thần sơn với Tam Tài sơn. Cầu chính giữa có tên là Trung đạo kiều. Hai bên trái, phải là Tả Phụ và Hữu Bật. Đây vừa là đoạn nối hai nửa hồ Trừng Minh vừa là chỗ uốn dòng nước chảy từ phía trái khu mộ táng thoát ra cống vòm gần Tả Hồng môn theo thế “tả sa tác án chi huyền thủy” mà chúng ta thường gặp trong các lăng vua ở Huế. Cả ba cầu này đều được hạ độ cao xuống mức thấp nhất để cho Minh Lâu trên đồi Tam Tài càng cao vút hơn. Những vòm cây và trụ biểu trên hai ngọn đồi Bình sơn và Thành sơn điểm xuyết thêm cho vẻ đẹp của nó. Minh Lâu (lầu sáng) hai tầng như một dấu chấm vuông kết thúc khu vực hình vuông bắt đầu từ Đại Hồng môn. Hai Nghi môn, mỗi cái có bốn cột đồng đúc rồng đoanh dựng ở hai đầu cầu. Thông Minh Chính Trực cầu dài 49m, rộng 4m, hai bên có lan can thưa thoáng vắt qua hồ bán nguyệt (Tân nguyệt trì) nối đồi Tam Tài với Bửu Thành (khu mộ táng). Bửu Thành xây trên một đồi đất cao, có hình tròn chu vi 270m. Đỉnh đồi là tâm của Bửu Thành nằm trên trục thần đạo. Đây là khu vực có nhiều cây cổ thụ phần lớn là thông nên quanh năm phủ đầy bóng mát. Nhìn vào trắc đồ, dọc theo trục thần đạo từ Đại Hồng môn (cửa trước) đến điểm sau Bửu Thành có dáng dấp như một người nằm ngửa mà phía đầu cao hơn phía chân một ít. Đó là thế nằm thanh thản của một con người. Các công trình chủ yếu của lăng sắp xếp tuần tự từ ngoài vào trong theo một đội hình hàng dọc trên trục chính này: Đại Hồng môn, sân chầu (Bái đình), nhà bia (Bi đình), sân triều lễ, Hiển Đức môn, Sùng Ân điện, Hoằng Trạch môn, Trung Đạo Kiều, Minh Lâu, Thông Minh Chính Trực Kiều, Bửu Thành (khu mộ). Các công trình khác nằm rải rác trên các ngọn đồi chung quanh: Tả Tùng phòng trên Tịnh Sơn, Hữu Tùng phòng trên Ý Sơn; Tuần Lộc Hiên trên Đức Hóa Sơn; Linh Phương Các trên Khải Trạch Sơn, Quan Lan Sở trên Đạo Thống Sơn; Truy Tư Trai trên Phúc ấm Sơn; Hư Hoài Tạ trên đảo Trấn Thủy… Tất cả đều được sắp xếp nhặt khoan chung quanh điện Sùng Ân trên Phụng Thần Sơn, ẩn hiện dưới những tán cây xanh đậm vừa có chức năng cụ thể để thờ phụng, để hóng mát, để ở, để nuôi nai… nhưng vừa có chức năng tượng trưng như các hành tinh nhỏ quay quanh hành tinh lớn ấy là khu vực trung tâm trên Phụng Thần Sơn, một biểu tượng của trái đất. Minh Lâu dựng trên đồi đất được đặt tên là “Tam Tài Sơn”. Sơn Triều lễ làm thành ba cấp cũng mang ý nghĩa tam tài đều là biểu tượng của mối quan hệ trời, đất, người (tam tài). Từ Đại Cung môn đến Minh Lâu các cụm kiến trúc đều có hình vuông trên những ô sân trong những khung thành cũng có hình vuông. Điện Sùng Ân nằm ở ô vuông trung tâm. Trong quy ước xưa, vuông là đất. Trời tròn đất vuông là thế. Đất thì có giới hạn. Vậy thì đất là một hình vuông hữu hạn. Trời bao la không có giới hạn. Do vậy, trời là một hình tròn vô biên. Khi đang sống “đấng thiên tử” ở giữa trái đất. Lúc “băng hà” con trời là về trời tức về cõi vô biên. Chính lúc đó đã “bình thành công đức” (Kinh Dịch). Vì thế hai bên Minh Lâu trước khi bước xuống cầu “Thông Minh Chính Trực” có hai trụ biển được xây cao trên hai ngọn đồi đặt tên là Bình Sơn và Thành Sơn mang dụng ý là đã “bình thành công đức” trước lúc về cõi vô biên. Về âm và dương thì cũng theo mạch hiểu biết đó để xây dựng thành những biểu tượng cụ thể. Trong bố cục kiến trúc ở đây nếu thể hiện âm dương là mặt trăng và mặt trời đều là hình tròn cả thì về mặt biểu tượng đã khó giải quyết mà về mặt thẩm mỹ cũng thật khó coi. Do vậy, mặt trăng (âm) được biểu hiện bằng hồ bán nguyệt (Tân nguyệt trì) nằm giữa Minh Lâu (vuông) và Bửu Thành (tròn) vừa gây ấn tượng dễ biết đó là trăng thượng tuần vừa làm chức năng chuyển tiếp từ vuông sang tròn không đột ngột. Vả lại, hồ bán nguyệt nằm ngoài như ôm lấy Bửu Thành là thể hiện ý của Lão Tử: “Vạn vật phụ âm nhi bảo dương, sung khí dĩ nhi hòa” (vạn vật khí âm nằm bên ngoài ôm khí dương ở bên trong, hai khí sung mãn thì có hòa khí). Một điều lý thú và dễ nhận biết nữa là sự bố cục nhân tạo lồng phối vào hình dạng tự nhiên của thiên nhiên gây cho người ta một ấn tượng trừu tượng được cụ thể hóa bằng trực quan. Khu mộ có Bửu Thành hình tròn nằm trong vòng cánh cung của hồ bán nguyệt. Bên ngoài lại có vòng La Thành mềm mại cũng được uốn lượn cùng một chiều. Triền đồi lúp xúp làm một vòng trung gian giữa La thành với rặng núi xanh xa ăn nhập với chân trời đều tạo nên những khoảng không gian hình vành khăn cứ nới rộng dần mà tâm của cả năm vòng tròn đồng tâm này chính là tâm của Bửu Thành. Điểm nằm vĩnh cửu của vị “thiên tử”. Đó là tâm của vũ trụ ở cõi vô biên vậy. Nhìn toàn bộ bố cục kiến trúc của lăng Minh Mạng do xây dựng trên cơ sở tư tưởng chịu ảnh hưởng sâu sắc của đạo Nho nên mới đầu cảm thấy khó coi bởi công thức theo một khuôn phép đơn điệu của nó. Nhưng do nghệ thuật tạo dáng trong đó có những nét giản đơn có ích của các nhà kiến trúc dân tộc và nghệ nhân ở Huế thế kỷ XIX đã tạo nên phong cách kiến trúc Huế những nét độc đáo riêng. Lăng Minh Mạng thâm nghiêm thăm thẳm mà cao sáng, chặt chẽ mà sinh động hài hòa. Đó là một trong những “kiệt tác về thơ kiến trúc đô thị”. M.K.Ư (7/6-84) |
NGÔ MINHHuế trên 350 năm là thủ phủ Chúa Nguyễn Đằng Trong và Kinh Đô của Đại Việt đã tích tụ nhân tài, vật lực cả quốc gia tạo ra một hệ thống Di sản văn hóa phi vật thể đặc sắc và nổi tiếng như nhã nhạc, lễ hội dân gian, văn hóa ẩm thực... Trong Di sản văn hóa ẩm thực Huế, Văn hóa ẩm thực Cung đình là bộ phận tinh hoa nhất, giá trị nhất!
HÀ MINH ĐỨC Ký Sau chặng đường dài, vượt qua nhiều đồi núi của vùng Quảng Bình, Quảng Trị, khoảng 3 giờ chiều ngày 25/9/2003, đoàn chúng tôi về đến thành phố Huế. Xe chạy dọc bờ sông Hương và rẽ vào khu vực trường Đại học Sư phạm Huế. Anh Hồ Thế Hà, Phó Chủ nhiệm khoa Văn; chị Trần Huyền Sâm, giảng viên bộ môn Lý luận văn học cùng với các em sinh viên ra đón chúng tôi. Nữ sinh mặc áo dài trắng và tặng các thầy những bó hoa đẹp.
BĂNG SƠN Tuỳ bútDòng sông Hồng Hà Nội là nguồn sữa phù sa và là con đường cho tre nứa cùng lâm sản từ ngược về xuôi. Dòng sông Cấm Hải Phòng là sông cần lao lam lũ, hối hả nhịp tầu bè. Dòng sông Sài Gòn của thành phố Hồ Chí Minh là váng dầu ngũ sắc, là bóng cần cẩu nặng nề, là những chuyến vào ra tấp nập... Có lẽ chỉ có một dòng sông thơ và mộng, sông nghệ thuật và thi ca, sông cho thuyền bềnh bồng dào dạt, sông của trăng và gió, của hương thơm loài cỏ thạch xương bồ làm mê mệt khách trăm phương, đó là sông Hương xứ Huế, là dòng Hương Giang đất cố đô mấy trăm năm, nhưng tuổi sông thì không ai đếm được.
PHAN THUẬN THẢO Chiều chiều trước bến Vân Lâu Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm, Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông. Thuyền ai thấp thoáng bên sông, Đưa câu Mái đẩy chạnh lòng nước non. (Ưng Bình Thúc Giạ)
LÃNG HIỂN XUÂNChẳng hiểu sao, từ thuở còn thơ ấu, tôi đã có một cảm nhận thật mơ hồ nhưng cũng thật xác tín rằng: Chùa chính là nơi trú ngụ của những ông Bụt hay bà Tiên và khi nào gặp khó khăn hay đau khổ ta cứ đến đó thì thế nào cũng sẽ được giải toả hay cứu giúp!
BÙI MINH ĐỨCNói đến trang phục của các Cụ chúng ta ngày xưa là phải nhắc đến cái búi tó và cái khăn vấn bất di bất dịch trên đầu các Cụ. Các Cụ thường để tóc dài và vấn tóc thành một lọn nhỏ sau ót trông như cái củ kiệu nên đã được dân chúng đương thời gọi là “búi tó củ kiệu”. Ngoài cái áo lương dài, cái dù đen và đôi guốc gỗ, mỗi khi ra đường là các Cụ lại bối tóc hình củ kiệu và vấn dải khăn quanh trên đầu, một trang phục mà các cụ cho là đứng đắn nghiêm trang của một người đàn ông biết tôn trọng lễ nghĩa. Trang phục đó là hình ảnh đặc trưng của người đàn ông xứ ta mãi cho đến đầu thế kỷ thứ 20 mới bắt đầu có nhiều biến cải sâu đậm
MAO THUỶ THANH (*)Tiếng hát và du thuyền trên sông Hương là nét đẹp kỳ thú của xứ Huế. Trên sông Hương có hai chiếc cầu bắc ngang: cầu Phú Xuân và cầu Trường Tiền nhưng trước đây người dân Huế thường có thói quen đi đò ngang. Bến đò ở dưới gốc cây bồ đề cổ thụ, nằm đối diện với trường Đại học Sư phạm Huế. Một hôm, tôi và nữ giáo sư Trung Quốc thử ngồi đò sang ngang một chuyến. Trên đò đã có mấy người; thấy chúng tôi bước xuống cô lái đò áp đò sát bến, mời chúng tôi lên đò.
VÕ NGỌC LANBuổi chiều, ngồi trên bến đò Quảng Lợi chờ đò qua phá Tam Giang, tôi nghe trong hư vô chiều bao lời ru của gió. Lâu lắm rồi, tôi mới lại được chờ đò. Khác chăng, trong cảm nhận tôi lại thấy bờ cát bên kia phá giờ như có vẻ gần hơn, rõ ràng hơn.
HỒNG NHUTôi vẫn trộm nghĩ rằng: Tạo hóa sinh ra mọi thứ: đất, nước, cây cỏ chim muông... và con người. Con người có sau tất cả những thứ trên. Vì vậy cỏ cây, đất nước... là tiền bối của con người. Con người ngoài thờ kính tổ tiên ông bà cha mẹ, những anh hùng liệt sĩ đã mất... còn thờ kính Thần Đất, Thần Nước, Thần Đá, Thần Cây...là phải đạo làm người lắm, là không có gì mê tín cả, cho dù là con người hiện đại, con người theo chủ nghĩa vô thần đi nữa! Chừng nào trên trái đất còn con người, chừng đó còn có các vị thần. Các vị vô hình nhưng không vô ảnh và cái chắc là không vô tâm. Vì sao vậy? Vì các vị sống trong tâm linh của con người, mà con người thì rõ ràng không ai lại tự nhận mình là vô tâm cả.
MẠNH HÀTôi không sinh ra ở Huế nhưng đã có đôi lần đến Huế, khác với Hà Nội hay Thành phố Hồ Chí Minh, Huế có nét trầm lắng, nhẹ nhàng, mỗi lần khi đến Huế tôi thường đi dạo trên cầu Trường Tiền, ngắm dòng Hương Giang về đêm, nghe tiếng ca Huế văng vẳng trên những chiếc thuyền rồng du lịch thật ấn tượng. Cho đến nay đã có biết bao bài thơ, bài hát viết về Huế thật lạ kỳ càng nghe càng ngấm và càng say: Huế đẹp, Huế thơ luôn mời gọi du khách.
VÕ NGỌC LANNgười ta thường nói nhiều về phố cổ Hội An, ít ai biết rằng ở Huế cũng có một khu phố cổ, ngày xưa thương là một thương cảng sầm uất của kinh kỳ. Đó là phố cổ Bao Vinh. Khu phố này cách kinh thành Huế chừng vài ba cây số, nằm bên con sông chảy ra biển Thuận An. Đây là nơi ghe, thuyền trong Nam, ngoài Bắc thường tụ hội lại, từ cửa Thuận An lên, chở theo đủ thứ hàng hoá biến Bao Vinh thành một thương cảng sầm uất vì bạn hàng khắp các chợ trong tỉnh Thừa Thiên đều tập trung về đây mua bán rộn ràng.
NGUYỄN XUÂN HOATrước khi quần thể di tích cố đô Huế được công nhận là di sản văn hoá thế giới, thành phố Huế đã được nhiều người nhìn nhận là một mẫu mực về kiến trúc cảnh quan của Việt Nam, và cao hơn nữa - là “một kiệt tác bài thơ kiến trúc đô thị” như nhận định của ông Amadou Mahtar M”Bow - nguyên Tổng Giám đốc UNESCO trong lời kêu gọi tháng 11-1981.
DƯƠNG PHƯỚC THU Bút kýXứ Thuận Hóa nhìn xa ngoài hai ngàn năm trước, khi người Việt cổ từ đất Tổ Phong Châu tiến xuống phía Nam, hay cận lại gần hơn bảy trăm năm kể từ ngày vua Trần Anh Tông cho em gái là Huyền Trân Công chúa sang xứ Chàm làm dâu; cái buổi đầu ở cương vực Ô Châu ác địa này, người Việt dốc sức tận lực khai sông mở núi, đào giếng cày ruộng, trồng lúa tạo vườn, dựng nhà xây đình, cắm cây nêu trấn trị hung khí rồi thành lập làng xã.
TRƯƠNG THỊ CÚCSông Hương, một dòng sông đẹp, sôi nổi với những ghềnh thác đầu nguồn, mềm mại quàng lấy thành phố như một dải lụa, hài hoà tuyệt diệu với thiên nhiên xinh đẹp và hệ thống thành quách, cung điện, lăng tẩm, đền chùa; với hàng trăm điệu hò, điệu lý; với những ngày hội vật, hội đua trải, đua ghe; với mảnh vườn và con người xứ Huế, là nguồn cảm hứng vô tận của người nghệ sĩ, thu hút sự say mê của nhiều khách phương xa. Không những là một dòng sông lịch sử, sông Hương còn là không gian văn hoá làm nẩy sinh những loại hình nghệ thuật, những hội hè đình đám, là không gian của thi ca, nhạc hoạ, là dòng chảy để văn hoá Huế luân lưu không ngừng.
TÔN NỮ KHÁNH TRANG Khi bàn về văn hoá ẩm thực, người ta thường chú trọng đến ẩm thực cung đình, hay dân gian, và chủ yếu đề cập đến sinh hoạt, vai trò, địa vị xã hội... hơn là nghĩ đến hệ ẩm thực liên quan đến đời sống lễ nghi.
TRƯƠNG THỊ CÚC• Bắt nguồn từ những khe suối róc rách ở vùng núi đại ngàn A Lưới - Nam Đông giữa Trường Sơn hùng vỹ, ba nhánh sông Tả Trạch, Hữu Trạch và nguồn Bồ đã lần lượt hợp lưu tạo thành hệ thống sông Hương, chảy miên man từ vùng núi trung bình ở phía đông nam A Lưới, nam Nam Đông, băng qua những dãy núi đồi chập chùng ở Hương Thuỷ, Hương Trà, Phong Điền rồi xuôi về đồng bằng duyên hải, chảy vào phá Tam Giang để đổ nước ra biển Đông.
NGUYỄN KHẮC MAIỞ xứ Huế có những tên làng quê mà nghĩa của chúng vẫn còn là sự ám ảnh kiếm tìm giải thích, chắc chắn chúng phải có nghĩa cụ thể nào đó. Người xưa không bao giờ đặt tên một vùng đất mà chẳng có nghĩa gì cả cứ như là người Mã Lai họ đặt tên vùng đất kinh đô cũng lần ra cái nghĩa đó là “cửa sông bùn lầy” (Kua-la-lăm-pua). Những cái tên như Kim Long, An Hoà, Dương Xuân, Phú Tài, Phú Mậu thì những ai có chút hiểu biết chữ Hán đều có thể lần tìm ý nghĩa. Nhưng có những cái tên làng quê thật khó đoán được cái nghĩa của chúng.
BÙI MINH ĐỨC Ngày nay, hễ nói đến đường để nấu chè là ai ai ở Huế cũng nghĩ đến đường cát trắng, đến thứ đường bột trắng tinh đã được tinh lọc do các nhà máy đường tân tiến sản xuất. Có người cũng còn nhớ đến đường phèn để chưng với chanh ăn khi bị ho, hoặc đường tinh thể là thứ đường đặc biệt màu vàng dùng để uống với cà phê cho thêm phần đậm đà. Nhưng chẳng ai có thể nhắc đến chiếc bánh đường đen ở Huế của thuở nào.
NGUYỄN TIẾN VỞNKinh Dịch (Chu Dịch) là sách về sự biến đổi. Dịch, nói gọn lại là biến đổi. Tinh thần xuyên suốt của Kinh Dịch là quy luật chuyển dời, biến hoá của vạn vật trong cõi trời đất. Mọi vật, bất kể to lớn như vũ trụ, hay nhỏ nhoi như các nguyên tử, đều không bao giờ đứng yên. Mọi sự, từ chuyện người có thể biết đến chuyện chỉ trời đất biết, cũng vận động biến hoá khôn lường.
PHAN THUẬN AN Dạ thưa xứ Huế bây giờ,Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương. (Bùi Giáng)