Những kỷ niệm của tôi về văn học miền Nam (tt)

08:31 25/09/2009
NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 245 tháng 7-2009 và hết)

Nhà thơ - Bác sĩ Nguyễn Đức Tùng - Ảnh: arttao.wordpress.com

Nếu cần tìm những điểm giống nhau giữa văn học miền Nam và văn học miền Bắc thời kỳ 1954-1975, vốn là hai nền văn học khác biệt vì những lý do lịch sử, tôi cho rằng có thể tìm thấy chúng trước hết ở tình cảm yêu quê hương và ở thơ tình. Thơ tình miền Nam khởi đầu từ Đinh Hùng, phát triển ở Nguyên Sa, Trần Dạ Từ, Tuệ Mai, Nguyễn Thị Hoàng, Phạm Thiên Thư, và nhiều người khác, kết thúc ở Nguyễn Tất Nhiên. Du Tử Lê là một trường hợp đặc biệt khác, vì sau này khi ở hải ngoại anh đã đi thêm rất xa con đường của mình khởi từ những năm sáu mươi, lúc anh viết:
            Không bao giờ đâu Donna
            Dù anh có yêu em
            Hơn bất cứ thứ gì trên đất Mỹ
            Thì anh cũng vẫn trở về
                                    (Indiana, 1969)

Đó là những câu thơ có tính báo hiệu.
Nếu Đinh Hùng có thể xem là nhà thơ tình khởi đầu của miền Nam, thì Nguyên Sa là một trường hợp đặc biệt. Lớp chín, cuối trung học đệ nhất cấp, giáo sư dạy văn của tôi, thầy Đỗ Tư Nhơn về từ Đà Lạt, vừa giảng Truyện Kiều vừa giới thiệu nhạc phản chiến Trịnh Công Sơn và những bài thơ tình Nguyên Sa cho chúng tôi. Là người của nhóm Sáng Tạo, mang tinh thần đổi mới, vượt qua văn chương tiền chiến, Nguyên Sa ý thức rất rõ về khung cảnh của một xã hội đang đối diện với chiến tranh và sự tan rã của các giá trị. Trong những bài lý luận và tùy bút về văn học, ông chia sẻ quan điểm của Sáng Tạo, ít nhất là thời kì khởi đầu, nhưng khi sáng tác, chàng thi sĩ từ Paris mới về, hoàn toàn buông mình theo cảm hứng tự nhiên: ông làm thơ tình bằng các thể thơ cổ điển. Giữa miền Nam nắng ấm vút lên giọng thơ ngọt ngào trong trẻo:
            Em ở đâu hỡi mùa thu tóc ngắn
            Giữ hộ anh màu áo lụa Hà Đông
            Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng
            Giữ hộ anh bài thơ tình lụa trắng

Rồi sau này Nguyên Sa sẽ trở lại với tâm trạng u buồn, bất an của thế hệ ông, thơ ngày càng tự do, phá thể, thơ ngày càng cay đắng, nhưng vào lúc này khi trò chuyện với người yêu, ông không nhìn ra cái chết và chiến tranh, ông không muốn nhìn nhận chúng, và vẫn trung thành với những tâm hồn độc giả lãng mạn. Thơ ông được yêu mến là đúng. Nhưng sau ông, sẽ có những dòng thơ tình khác.
Tôi háo hức đọc những bức thư Paris của Minh Đức Hoài Trinh trên tờ Phổ Thông của Nguyễn Vỹ, người sau này có những câu thơ đẹp:
            Kiếp nào có yêu nhau
            Nhớ tìm khi chưa nở
            Hoa xanh tận nghìn sau
            Tình xanh không lo sợ

Ở miền Bắc những nhà thơ tình phái nữ nổi tiếng cùng thời như Lý Phương Liên, Xuân Quỳnh… làm thơ cũng buồn, nhưng man mác, không có giọng đau đớn, tuyệt vọng như Minh Đức Hoài Trinh.
            Lẽ nào em buộc cánh anh
            Buộc cánh anh cũng chẳng thành tình yêu
                                                (Lý Phương Liên)

Suốt hai mươi năm, thơ tình miền Nam có số phận long đong, lận đận. Chiến tranh càng lan rộng, xã hội càng băng rã, người làm thơ tình càng ít, nhưng khi họ cất tiếng thì đó là những tiếng nói lạ lùng, gây bất ngờ ở người đọc. Ngang tàng như Nguyễn Đức Sơn, dịu dàng như Phạm Thiên Thư.
Phạm Thiên Thư đưa tình yêu vào cõi thiền, hay nói như Thích Minh Châu, Viện trưởng viện Đại học Vạn Hạnh, đã “cả gan thi hóa Kim Cương kinh”, trong một lời giới thiệu. Những thế hệ thanh niên học sinh ở miền Nam, và hình như sau này ở cả miền Bắc và trong cả nước, đã từng nức nở với Phạm Thiên Thư và Phạm Duy:
            Em tan trường về
            Đường mưa nho nhỏ

Qua tiếng hát Thái Thanh nhẹ như tơ trời, rền vang như mưa. Thơ ông dịu dàng mà cũng cay đắng, nhưng không phải lỗi ở ông, đó là lỗi ở cuộc đời. Đọc thơ Phạm Thiên Thư thấy tình yêu vẫn còn. Nhưng đến Nguyễn Tất Nhiên, nổi tiếng trong những ca khúc do Phạm Duy phổ thơ, thì tình yêu theo nghĩa thông thường hầu như biến mất, nó trở thành một thứ tình cảm có có không không, thứ tình yêu của một tuổi trẻ mất niềm tin ở cuộc đời, sắp lao vào lửa. Nỗi buồn của người lính miễn cưỡng đi vào chiến tranh, một cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn.
            Thi hỏng mất rồi ta đợi ngày đi

Ngôn ngữ của Phạm Thiên Thư và Nguyễn Tất Nhiên không mới mà lại mới, mới mà lại không mới. Nhưng rõ ràng nó khác cách nói của các nhà thơ cổ điển và các nhà thơ ngoài Bắc cùng thời.
Viết về chiến tranh,  như những người lính, Nguyễn Bắc Sơn, Thế Uyên, Du Tử Lê, Y Uyên, Trần Hoài Thư, Luân Hoán, Vũ Hữu Định… và nhiều người khác đã ghi lại trong thơ họ một thời binh lửa. Chúng ta cùng đọc thử Tô Thùy Yên.
            Đò nghẹn đoàn quân xa tiếp viện
            Mưa lâu trời mốc buồn hơi xưa
            Con đường đáo nhậm xa như nhớ
            Chiều mập mờ, xiêu lạc dáng cò
                                                            (Qua Sông)

Tô Thùy Yên là một trong những nhà thơ đứng ở cánh cửa cuối cùng của con đường thơ miền Nam, con đường khởi đi từ Vũ Hoàng Chương, mặc dù Tô Thùy Yên làm thơ từ sớm. Những bài thơ đầu để lộ ý thức làm mới ngôn ngữ, chúng được viết ở thể tự do; càng về sau ông càng làm thơ có vần nhiều hơn. Trong mảnh đất hẹp của thể thơ cổ điển, Tô Thùy Yên đã nâng nghệ thuật ngôn ngữ Việt lên đến mức tinh vi. Tôi chưa thấy một nhà thơ nào có cách dùng chữ đầy dụng công như ông.

Tôi nghĩ: một nhà thơ khi đứng trước những bi tráng lịch sử, những sự kiện khốc liệt, khi đối diện với nỗi xúc động bàng hoàng, thường trở về với thể thơ cổ điển, chọn lựa cách nói giản dị và thuận tiện, bỏ qua những bận tâm vốn có của anh ta về ngôn ngữ. Điều đó đúng với Tô Thùy Yên mà cũng đúng với nhiều nhà thơ khác.

Khoảng từ năm 1970, xuất hiện nhiều tác giả trẻ, một số mặc áo lính, trên các báo, nhất là ở các địa phương. Một số chưa có thời gian để in tác phẩm của mình. Tôi nhớ những tên tuổi như Y Uyên, Ngô Kha, Luân Hoán, Trần Hoài Thư, Trần Dzạ Lữ, Chu Vương Miện… Bắt đầu thành một dòng chảy khác, mà người chinh phục tôi nhất là Phan Nhật Nam.

Nhắc đến văn chương viết về chiến tranh, không thể nào không nói đến Phan Nhật Nam. Từ sau Tết Mậu Thân 1968, miền Nam thực sự ra khỏi cơn huyễn mộng sâu, cơn mê đắm ảo tưởng hoà bình dằng dặc. Mặc dù bao gồm nhiều thể loại, nhiều đề tài, nhiều nội dung, văn học miền Nam chưa bao giờ cảm nhận được sức nóng của ngọn lửa chiến tranh trên trang viết trực tiếp đến như thế. Tôi bắt đầu đọc Phan Nhật Nam từ năm mười bốn tuổi, còn quá nhỏ để hiểu tường tận và nhớ đầy đủ chi tiết, nhưng ấn tượng ngời ngời của Dấu Binh Lửa, Dựa lưng nỗi chết, Dọc đường số Một… là không thể nào phai được. Đọc anh, tôi hiểu ra rằng chỉ vài năm nữa, nếu không có gì thay đổi, tôi sẽ là một trong những người lính mang ba lô, súng đạn trên vai lội qua sình lầy, rừng thẳm, muỗi mòng, lội qua bom đạn như bao nhiêu người lính vô danh khác, chứng kiến những xóm làng lửa cháy, mẹ con dắt díu nhau chạy loạn, đụng trận với những kẻ người mà mình không hề căm thù, nhưng vẫn phải nổ súng. Đọc Phan Nhật Nam là đọc bi kịch của chiến tranh, những suy nghĩ về đời sống dân sự, những xung đột mà người trí thức không thể không đối diện. Lạ lùng thay, đọc anh, tôi cảm yêu đất nước mình hơn cũng như khi tôi đọc Khái Hưng, Nhất Linh, Vũ Bằng, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Nhật Tiến, Nhã Ca, Lê Tất Điều, Viên Linh, nhưng bằng một tình yêu cay đắng, tỉnh táo, khốc liệt, nghẹn ngào. Và giận dữ. Tôi từng có dịp được gặp, trong những giờ ngắn ngủi, Phan Nhật Nam, khi anh đến Canada và Hoàng Phủ Ngọc Tường, khi tôi về Việt Nam, ngồi trước các anh, hai nhà văn viết bút ký tài hoa nhất nước, cả hai đều cùng quê Quảng Trị với tôi, một chiến trường máu lửa, tôi nhận ra rằng bi kịch của cuộc chiến tranh sẽ còn đeo đẳng dân tộc chúng ta. Cho đến khi nào chúng ta chưa tìm được cách để trò chuyện với nó, giải thích nó. Muốn thế cần có thời gian, cần có sự tha thứ và can đảm. Rất nhiều tha thứ. Rất nhiều can đảm. Hai người đã chọn lựa hai con đường hoàn toàn khác nhau: họ chính là biểu tượng của chiến tranh vừa qua.

Tôi thiển nghĩ nghiên cứu văn học một giai đoạn không thể giới hạn vào một dòng văn học nhất định. Văn học thời kỳ 1945-1954, mặc dù kháng chiến là nội dung chủ đạo, vẫn còn những tác phẩm ở thành thị. Nhiều tác phẩm trong thời kì này, như tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, không có nội dung kháng chiến. Tương tự như thế sau 1954 không phải chỉ có văn học miền Bắc mà còn có văn học miền Nam, và ngược lại. Quá trình hình thành văn học Việt Nam trong nửa cuối thế kỉ hai mươi là tập hợp của các dòng văn học, nhưng đó không phải là một số cộng đơn thuần. Sự tồn tại song song của nhiều hơn một dòng văn học không phải là một hiện tượng mới lạ trên thế giới hay ở nước ta. Trong lịch sử đã có những dòng văn học riêng rẽ vừa đối kháng vừa bổ sung. Như văn học Đông Đức và Tây Đức thời chiến tranh lạnh, văn học của các tác giả Xô viết như Evtuchenko và các tác giả phi Xô viết như Brodsky. Nếu văn học miền Bắc là một nền văn học cách mạng, văn học xã hội chủ nghĩa, phục vụ thiết thực cho những đường lối của Đảng, “trước hết đó là văn học phục vụ chính trị”, “ghi chép những thành tích, những chiến công”, như cách nói của Lê Ngọc Trà (1), thì nó vẫn có khả năng, trong những tác phẩm văn học đích thực, thể hiện đúng tâm hồn của người Việt Nam, hay ít nhất là một bộ phận của nó, trong một giai đoạn lịch sử nhất định, đặc biệt là tình cảm yêu nước, chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng. Đối với người đọc tinh tường, không bị chi phối bởi các định kiến cá nhân, các tác phẩm quan trọng của dòng văn học này, các tiểu thuyết, các bài thơ, các ca khúc đã thành công trong việc kêu gọi xây dựng một xã hội tốt đẹp, giải phóng dân tộc, gạt bỏ bi lụy cá nhân, tình cảm hi sinh cho chiến trường. Mặc dù cuộc chiến tranh đã để lại biết bao hậu quả đau buồn và các giá trị cổ điển của chủ nghĩa xã hội đã bị thách thức nặng nề hoặc bị phủ nhận, tôi vẫn tin rằng trong các tác phẩm miền Bắc thời kì ấy vẫn còn chiếu sáng một niềm tin trong sáng, cao cả, chân thành, có tính dân tộc, đã từng dẫn dắt hàng triệu người đi trên con đường mà họ tin là chân lý. Nhưng đời sống phức tạp hơn những bộ óc thông minh nhất và hiện thực luôn tạo ra những khúc quanh thử thách bất ngờ cho các giá trị tưởng là vĩnh cửu. Trong khi đó, văn học miền Nam cùng thời gian này, 1954-1975, đã truyền đi những giá trị khác, có tính phổ biến, cùng với ngôn ngữ của nó, một ngôn ngữ cũng có tính phổ biến, nhưng cả hai cùng chịu đựng một số phận cay đắng hơn. Ngày nay đọc lại một số các tác phẩm ấy tôi vẫn còn hình dung được bầu khí quyển vừa hồn nhiên thơ mộng, vừa sâu sắc buồn rầu, vừa tự do phóng dật, vừa đậm chất nhân văn.

Từ 1975 đến nay, lý luận và sáng tác văn học trên truyền thông chính thức đã có cái nhìn cởi mở hơn, đặc biệt vào thời kỳ đổi mới khoảng 1988 - 1993. Đáng tiếc, tôi nghĩ, nó hãy còn thất bại trong việc soi sáng đời sống xã hội miền Nam, các thành thị và nông thôn thuộc chính quyền miền Nam cũ, thời kỳ chiến tranh. Trong các tác phẩm văn học công khai trong nước ba mươi năm trở lại đây, có nhắc ít nhiều đến miền Nam dưới chế độ VNCH, tôi chưa từng may mắn đọc được một tác phẩm nào mô tả đúng thật hoàn cảnh mà tôi đã sinh ra, đã cắp sách đi học, đã vui chơi, đã hạnh phúc, đã đau khổ giữa cha mẹ, láng giềng, thầy cô, bè bạn, kẻ bên này, người bên kia, đã khóc trước xác chết của người thân, đúng như những con người mà tôi vẫn biết, những nhân vật cho đến nay vẫn chờ một ngày cuốn tiểu thuyết của họ được kể lại bởi các nhà văn am hiểu tường tận thời kỳ đó.

Mùa xuân năm 1972, một đơn vị nhảy dù VNCH dừng quân ở làng tôi. Những người lính tạm nghỉ dưới mái hiên, gần như không ai bước chân vào nhà. Tôi nhận thấy đó là những người lính chuyên nghiệp, kỉ luật, không làm phiền ai, nhưng có phần xa cách. Họ làm tôi hơi sợ hãi. Vậy mà có một người sĩ quan trẻ đứng bên cửa sổ rất lâu nhìn tôi học bài rồi tươi cười hỏi chuyện, hỏi mượn tôi một cuốn sách để đọc. Anh kể rằng anh quê ở Gò Công, có người yêu là sinh viên trường Dược khoa, khi anh tình nguyện vào nhảy dù, cô hỏi anh là “anh muốn chọn em hay là chọn cái mũ đỏ”. Anh đã chọn cái mũ đỏ và như thế, đành để mất cô. Đó là một chàng thanh niên da ngăm đen, gầy, cao, đẹp như tài tử. Không hiểu sao anh lại tâm sự với một chú bé nhỏ hơn anh nhiều tuổi, có lẽ lúc ấy anh nhớ người yêu quá. Sau này, tôi nghe nói rằng trong một trận đánh gần biên giới, anh đã trúng mìn cụt hai chân. Có người gặp anh ngồi trên xe lăn ở Tổng y viện Cộng hòa. Vài tháng sau đó, trong mùa hè đỏ lửa, một đơn vị bộ đội miền Bắc cũng đi ngang qua làng tôi. Đó là những ngày hỗn loạn, nhưng tôi cũng kịp nhận xét rằng so với những người lính miền Nam trước đó, những người bộ đội miền Bắc này trông ít tuổi hơn, nhưng có vẻ dạn dĩ, thân mật với dân chúng hơn. Có một người lính trẻ măng, mặt bầu bĩnh, nước da trắng hồng như con gái, quê ở Hà Nội, trò chuyện với tôi khá lâu. Anh kể rằng anh phải khai tăng thêm một tuổi để được đi chiến đấu ở miền Nam. Anh kể rằng mẹ anh là một nhà nghiên cứu, và khi đi anh còn thấy trên bàn làm việc của bà một cuốn tiểu thuyết tiếng Pháp, mà anh không đọc được nhưng nhớ cách đánh vần. Tôi nhận ra đó là cuốn “Bonjour Tristesse”, của Francoise Sagan, đã dược dịch sang tiếng Việt. Anh hỏi xin tôi một cuốn sách “để làm kỉ niệm”. Trước khi di tản, tôi cũng kịp tặng anh hai cuốn mỏng, “Buồn ơi chào mi” và “Thơ Nguyên Sa”. Không biết rằng anh có đủ sức mang chúng theo trong chiếc ba lô nặng trĩu của mình hay không. Sau 1975, tôi nghe tin anh đã mất tích trên chiến trường. Mỗi khi nghĩ về văn học và chiến tranh, tôi đều nghĩ đến hai người lính, ở hai bên chiến tuyến, yêu tiếng mẹ đẻ, yêu quê hương của mình, và chắc chắn là họ đã rất sung sướng nếu được dịp biết nhau, làm quen với nhau,  trong những hoàn cảnh khác. 

Gần đây trong nước, việc khôi phục văn chương tiền chiến, Thơ Mới, Tự Lực Văn Đoàn,  đã tạo ra những nhận thức mới, góp phần vào việc làm phong phú hoá đời sống văn học và đời sống tinh thần của người Việt, giúp thế hệ trẻ hiểu đúng đắn hơn lịch sử. Đã có một vài cố gắng nhìn lại văn học miền Nam trong những bài viết rải rác đó đây của các tác giả mà tôi nhớ tên, tất nhiên là không đầy đủ, như Lê Ngọc Trà, Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Đăng Mạnh, Lại Nguyên Ân, Hoàng Ngọc Hiến, Đỗ Lai Thúy, Nguyễn Phan Cảnh, Phạm Xuân Nguyên, Nguyễn Huệ Chi, Tô Nhuận Vỹ, Khánh Phương, Bửu Nam, Trần Hoài Anh, Minh Đức Triều Tâm Ảnh, Hồ Thế Hà. Báo Văn Nghệ, trang web của Hội Nhà Văn và một vài trang web trong nước khác cũng đăng lại một số tác phẩm miền Nam. Tôi nghĩ đó là nỗ lực, khởi đi từ những cá nhân tâm huyết, rất đáng trân trọng. Nhưng một nền văn học cần được nghiên cứu một cách hệ thống, với những tiếp cận đặc trưng cho nền văn học ấy.

Nếu có một thời điểm nào thích hợp để mỗi chúng ta ngồi xuống lắng nghe bài giảng của lịch sử, như những người học trò nhỏ, thì đó là thời điểm hiện nay. Tôi lớn lên ở làng quê nghèo, thuở bé lẽo đẽo theo mẹ đi giữa những luống cà chua, khoai lang, những cánh đồng bên bờ sông, trồng bắp, trồng đậu, trồng lúa, những buổi trưa lang thang bắt tổ chim, bắn súng cao su, tắm sông. Tôi đã sống qua chiến tranh, chứng kiến cái chết, sự đau khổ của bao nhiêu người, trong đó có gia đình tôi. Có điều lạ lùng là sau tất cả những năm tháng ấy, mỗi buổi sáng thức dậy, tôi đều có một cảm giác giống nhau, cảm giác êm dịu. Tôi tin rằng cảm giác ấy chỉ có được khi người ta sinh ra và lớn lên trong khung cảnh thanh bình thơ mộng, dù chỉ là tạm thời, được đọc những cuốn sách lãng mạn đầu đời, những cuốn sách mà về sau có người ném đi vì cho rằng chúng chẳng có giá trị phản ảnh hiện thực gì cả. Nếu người ta được đọc những cuốn sách như thế, được úp khuôn mặt bé bỏng của mình lúc lên chín tuổi giữa hai trang sách còn thơm mùi giấy mới, nếu người ta thức dậy một đêm khi lên sáu tuổi, ánh trăng chiếu sáng trên giường không ngủ được, bước ra hiên nhà, lặng lẽ ngồi xuống bên cạnh một chú bé khác, lớn hơn hai tuổi,  và chú bé ấy cũng ngồi im lặng ngước nhìn vầng trăng sáng vằng vặc trên trời, và hai anh em chẳng nói năng gì, thì người ta sẽ có được cái cảm giác mà tôi có mỗi ngày trong buổi sáng mờ hơi sương thức dậy một mình, đó là cảm giác tri ân êm dịu đối với cuộc đời.  

Cái đáng sợ nhất đối với một số người, một số nhà văn là sự thật. Ai cũng biết rằng một người đọc sách sống cuộc đời phong phú hơn người khác. Sở dĩ như thế là vì anh ta hay chị ta được trải nghiệm thêm những cuộc đời khác nữa, tức là những sự thật khác nữa. Văn học cho phép chúng ta cảm xúc cùng nhân vật, sống cùng họ, đau buồn, giận dữ, sung sướng, say mê với những người ở các lục địa xa xôi, ở những thời tiết nắng mưa nay đã không còn. Chúng ta cảm thương những số phận bất hạnh, đôi khi tự đồng hóa mình với anh hùng hào kiệt, mơ ước sống cuộc đời như họ. Một độc giả Việt Nam hiện nay có điều kiện dễ dàng để biết thêm về văn học nước ngoài, như văn học Mỹ, Pháp, Đức, Canada, Úc, Ba Lan, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc... và vì thế tự làm cho đời sống tâm hồn họ phong phú hơn. Nhưng văn học miền Nam không phải là một nền văn học nước ngoài, nó được viết bằng tiếng Việt, được đọc bằng tiếng Việt, bởi những tác giả đã khuất bóng hay còn đi đi lại lại trước mặt chúng ta. Nói cho cùng, một người sinh ra ở miền Nam không bao giờ biết đến văn học miền Bắc, và giống hệt như thế, một người sinh ra ở miền Bắc không  có điều kiện để hiểu biết văn học miền Nam, theo tôi không phải là một người may mắn lắm: anh ta là nạn nhân của thời đại mình, tự nguyện hay không tự nguyện.

Người ta đã nói nhiều về chuyện văn học cần thiết như thế nào. Có lẽ đúng là một cuốn sách không thay thế được cái bánh mì trước đứa trẻ đang đói. Hiện thực mà chúng ta sống trong đó đầy dẫy những ngẫu nhiên, diễn ra không thứ tự, không có tính tổ chức. Đối với nhiều người, mặc dù không phải là tất cả, cái chết là phi lý, chiến tranh là phi lý, sự đau khổ của từng cá nhân, sự bất hạnh của dân tộc là phi lý. Mặt khác, khía cạnh hào hùng của lịch sử trong khi thừa khả năng để giải thích tính bi kịch, thì lại không đủ khả năng giải thích sự tầm thường hèn mọn của nó. Bất cứ một sự thật giản dị nào, nếu không được hiểu thấu, cũng đủ sức làm một nhà văn sợ hãi: anh ta không biết phải làm gì với nó. Các thí dụ thì chúng ta có nhiều. Tuy nhiên tác phẩm văn học, ở trạng thái thành công nhất, có khả năng tổ chức lại cuộc đời, làm cho các sự kiện rời rạc, hỗn độn, mê loạn, hoàn toàn không hiểu được, được sắp xếp lại bên nhau trong những liên hệ nhân quả, làm cho số phận mỗi cá nhân, số phận một dân tộc có thể được giải thích rõ ràng, trở nên có ý nghĩa hơn. Và do đó, lịch sử trở nên chịu đựng được. Nó bắt đầu tha thứ cho chúng ta.
Khi chúng ta bắt đầu biết dụng tâm tìm hiểu lẫn nhau, tức là biết nhìn sự vật từ góc nhìn của người khác. Mà các nhà văn không làm điều đó thì không ai làm trước họ được.

N.Đ.T
(246/08-09)

----------------
(1) Lê Ngọc Trà, Thách thức của sáng tạo, Thách thức của văn hóa, trang 12, 13, NXB Thanh Niên, 2002.


 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Sau Vị giáo sư và ẩn sĩ đường, Ba lần đến nước Mỹ, trong năm 2002, GS. Hà Minh Đức tiếp tục ra mắt bạn đọc tác phẩm Tản mạn đầu ô. Vậy là trong khoảng 5 năm, bên cạnh một khối lượng lớn những tác phẩm nghiên cứu, lý luận, phê bình, ông đã sáng tác 3 tập thơ và 3 tập bút ký. Đó là những con số mang nhiều ý nghĩa thể hiện sự "đa năng" của một đời văn tưởng đã yên vị với nhiều danh hiệu cao quý và hơn 30 tập sách nghiên cứu, lý luận, phê bình. Tản mạn đầu ô ra đời được dư luận chú ý, quan tâm. Sau đây là cuộc trao đổi giữa PGS. TS Lý Hoài Thu với GS. Hà Minh Đức xung quanh tập sách này.

  • HUỲNH HẠ NGUYÊN         (Đọc tập thơ "Khúc đêm" của Châu Thu Hà - Nxb Thuận Hoá - 11/2002)...Thơ Châu Thu Hà mang đậm nữ tính. Khi trái tim biết cười, hay khi giàn giụa nước mắt, ta bỗng thấy quý sao những phút sống chân thành với cuộc đời, với mọi người. Châu Thu Hà không để trái tim mình tuột xuống phía bên kia triền dốc, chị cố bước tới và neo lại, để thấy mình được xẻ chia, được yêu chiều, xoa dịu...

  • LÊ MỸ Ý (L.M.Y):  Thưa nhà thơ, là một người có thể tạm gọi là thuộc thế hệ đi trước nhưng lại luôn "gây sốc" bằng những tác phẩm tìm tòi mới, chắc hẳn ông có quan tâm nhiều đến thế hệ thơ trẻ? Có thể có một nhận xét chung về thơ trẻ hiện nay chăng?NHÀ THƠ HOÀNG HƯNG (H.H): Tất nhiên là tôi rất quan tâm. Nhận xét chung của tôi về thơ trẻ bây giờ là đa số vẫn mang tính phong trào. Có thể nói là những người làm thơ trẻ vẫn đi theo một vết mòn của thế hệ trước, chưa thấy rõ những bứt phá, chỉ nổi lên một số tác giả theo cách lẻ tẻ.

  • Tại sao cô chỉ làm thơ tự do?- Trước hết, bởi tôi thích tự do. Tự do ở đây, được hiểu là: nói, làm, dám mơ ước và tham vọng tất cả những gì mình muốn, không bị tác động và chi phối bởi ai, bởi bất cứ điều gì.

  • NGUYỄN THỤY KHA Đã là lạ tên một tác phẩm khí nhạc mang tực đề "Eo lưng" của nữ nhạc sĩ Kim Ngọc. Lại thu thú khi đọc tập thơ "Nằm nghiêng" của nữ thi sĩ Phan Huyền Thư. Một thế kỷ giải phóng của Việt Nam thật đáng kính ngạc.Cái cách giải phóng mình, phái yếu trong đó có mình của Phan Huyền Thư là sự độ lượng với cũ kỹ, là mỉa mai sự nửa vời, là quyết liệt lặng lẽ vươn tới cách tân theo một thế của “Nằm nghiêng”.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠOCòn nhớ mùa Huế mưa 1992, Nguyễn Khắc Thạch và Ngô Minh đến nhà tôi chơi, mang theo bản thảo đánh máy tập thơ đầu tay của một tác giả mới 20 tuổi có tên là Văn Cầm Hải. Một cái tên lạ mà tôi chưa nghe bao giờ. Những bài thơ của anh cũng chưa hề xuất hiện trên mặt báo. Nguyễn Khắc Thạch và Ngô Minh đều nói rằng; "Thơ tay này lạ lắm. Ông xem thử".

  • NGUYỄN QUANG HÀNgồi đọc NGÀN NĂM SAU mà như đang ngồi nói chuyện tay đôi với Nguyễn Trọng Bính. Giọng thơ anh cũng cứ chân chất, yêu quê hương và say đời như chính con người anh. Từ thời chiến tranh, chúng tôi đã ở trong rừng với nhau. Cứ ngồi với nhau là bộc bạch hết. Một lá thư riêng, một rung động mới, chúng tôi cũng chia sẻ với nhau.

  • PHAN THÀNH MINHĐó cũng là tựa đề tập thơ rất dễ thương của Trần Tịnh Yên - nhà thơ của đất kinh kỳ thơ mộng thuở nào - thú thật  là tôi đã vô cùng hạnh phúc khi nhận được tập thơ này do chính  tác giả gởi tặng, dễ thương ở chỗ khổ giấy nhỏ nhắn, trình bày đẹp trang nhã, sách 80 trang với 46 bài thơ cũng mỏng mảnh như thế nhưng nhìn rất thơ, càng thơ hơn nữa khi chính tác giả tự viết lời phi lộ cho mình, tôi rất hợp với anh ở điểm này bởi lẽ chẳng ai có thể thay thế cho mình bằng mình để nói hộ những gì mình muốn nói...:...năm xưa qua ngõ sân đìnhcó người nhặt được mối tình ai rơi

  • NAM NGỌC            (Về tập truyện ngắn mới nhất của nhà văn Võ Thị Xuân Hà do Công ty Truyền thông Hà Thế liên kết NXB Phụ nữ xuất bản và phát hành quý I năm 2009)Tập truyện gồm 14 truyện  ngắn, với những mô típ khác nhau nhưng cùng chung gam màu thấm đẫm chất liệu hiện thực. Tất cả đã tạo nên một chỉnh thể thống nhất mà ở đó các nhân vật dù xấu dù tốt cũng đều hướng tới cái đẹp, cái nhân bản của con người. Cách viết truyện lạ cùng với những chi tiết, tình tiết được lắp ghép một cách khéo léo, Võ Thị Xuân Hà đã một lần nữa gây ngạc nhiên cho người đọc bằng bút pháp ẩn không gian đa chiều của mình.

  • BÍCH THUHơn một thập niên trước đây, với hai truyện ngắn Hồi ức của một binh nhì và Vết thương lòng, Nguyễn Thế Tường đã đoạt giải cao trong cuộc thi truyện ngắn do Tạp chí Văn nghệ quân đội tổ chức năm 1992 - 1994. Tôi còn nhớ một trong số các nhà phê bình đã thành danh của nhà số 4 Lý Nam Đế không kìm được cảm xúc của mình với chùm truyện dự thi của Nguyễn Thế Tường lúc ấy đã thốt lên: “Tôi thích truyện ngắn Nguyễn Thế Tường”. Từ đó đến nay, Nguyễn Thế Tường vẫn miệt mài viết và lặng lẽ ra sách. Người đàn bà không hoá đá là lần ra mắt thứ năm của anh.

  • HOÀNG VŨ THUẬT                (Đọc “Trăng đợi trước thềm”, thơ Hải Bằng, NXB Thuận Hoá - 1987)Đổi mới là trách nhiệm vừa là bổn phận đang diễn ra sôi động trong đời sống văn học hôm nay. Nhưng ranh giới giữa cũ và mới không dễ dàng phân định khi đánh giá một tác phẩm văn chương nghệ thuật.

  • ĐINH NAM KHƯƠNG               (Nhân đọc “ru em ru tôi” Thơ Trương Vĩnh Tuấn NXB: Hội nhà văn - 2003)Có một nhà thơ nổi danh thi sĩ, làm “quan” khá to ở báo văn nghệ. Nhưng chẳng bao giờ thấy ông vỗ ngực, ngạo mạn nói lời: “ta là quan đây” mà ông luôn dân giã tự gọi mình là hắn, xưng hô với bạn bè là mày tao:                          “...Hình như hắn là nhà quê                          Hình như hắn từ quê ra...”                                                                (Gốc)

  • NGÔ MINHKhông thể đếm là tập thơ đầu tay của cây bút nữ Nguyễn Thị Thái người Huế, sống ở thành phố Buôn Ma Thuột vừa được NXB Thuận Hóa ấn hành. Tôi đã đọc một mạch hết tập thơ với tâm trạng phấn khích. Tập thơ có nhiều bài thơ hay, có nhiều câu thơ và thi ảnh lạ làm phấn chấn người đọc.

  • MINH KHÔICuối tháng bảy vừa qua, giáo sư ngôn ngữ và văn chương Wayne S.Karlin và nữ phóng viên Valerie, công tác ở một Đài phát thanh thuộc bang Maryland, Mỹ đã đến Huế tìm thăm nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ, để chuyển cho chị bản hợp đồng in ấn và phát hành tập thơ Green Rice (Cốm Non) do cơ quan xuất bản gửi từ Mỹ sang.

  • FRED MARCHANTCó những vết thương chẳng thể nào lành lặn và có những nỗi đau chẳng bao giờ mất đi. Kinh nghiệm nhân loại khuyên ta không nên “chấp nhận” hay “bỏ đi” hay “vượt lên” chúng. Với một con người mà tâm hồn thương tổn vì đã làm cho người khác khổ đau hay chứng kiến nhiều nỗi đau khổ thì những câu nói như thế hoàn toàn vô nghĩa.

  • BÍCH THU          (Đọc thơ Dòng sông mùa hạ của Hoàng Kim Dung. NXB Hội Nhà văn, 2004)Nhìn vào tác phẩm đã xuất bản của Hoàng Kim Dung, tôi nhận thấy ở người phụ nữ này có sự đan xen giữa công việc nghiên cứu khoa học với sáng tạo thi ca. Ngoài bốn tập thơ và bốn cuốn sách nghiên cứu về nghệ thuật đã in, với tập thơ thứ năm có tựa đề Dòng sông mùa hạ mới ra mắt bạn đọc, đã làm cán cân nghiêng về phía thơ ca.

  • ĐÔNG HÀVăn hoá và văn học bao giờ cũng có một mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Có thể thấy rằng văn học là một bộ phận của văn hoá, nó chịu sự ảnh hưởng của văn hoá. Khi soi vào một thời kì văn học, người đọc có thể thấy được những khía cạnh về phương diện đời sống văn hoá tinh thần của một thời đại, một giai đoạn của xã hội loài người.

  • HÀ KHÁNH LINHViết được một câu thơ hay có khi phải chiêm nghiệm cả một đời người, hoàn thành một tập truyện, một tập thơ là sự chắt chiu miệt mài suốt cả quá trình, sau Đại hội nhà văn Việt Nam lần thứ VII Lê Khánh Mai liên tiếp trình làng tập thơ "Đẹp buồn và trong suốt như gương" (Nhà xuất bản Hội Nhà văn) và "Nết" tập truyện ngắn (Nhà xuất bản Đà Nẵng).

  • NGUYỄN TRỌNG TẠOCó người làm thơ dễ dàng như suối nguồn tuôn chảy không bao giờ vơi cạn. Có người làm thơ khó khăn như đàn bà vượt cạn trong cơn đau sinh nở. Có người không đầy cảm xúc cũng làm được ra thơ. Có người cảm xúc dâng tràn mà trước thơ ngồi cắn bút. Thơ hay, thơ dở, thơ dở dở ương ương tràn ngập chợ thơ như trên trời dưới đất chỉ có thơ. Thơ nhiều đến ngạt thở chứ thơ chẳng còn tự nhiên như hơi thở mà ta vẫn hoài vọng một thời.

  • THẠCH QUỲSuốt đời cần mẫn với công việc, luôn mang tấm lòng canh cánh với thơ, vì thế, ngoài tập “Giọng Nghệ” in riêng và bao lần in chung, nay Ngô Đức Tiến lại cho ra tập thơ này.