Những dòng thơ nham thạch

13:30 14/02/2017

HỒ ĐĂNG THANH NGỌC

(Đọc “Song Tử” của Như Quỳnh de Prelle)

Trong thế giới thi ca, mỗi thi nhân đều chọn cho mình một thế giới riêng, với một cách thức ngõ lời riêng. Những cách thức ngõ lời ấy, có thể như lời của những dòng sông êm đềm, ngọn gió thênh thang, tiếng suối xa rì rào hay cánh đồng cỏ vi vu, cũng có thể là tiếng rên rỉ của côn trùng nhưng cũng có thể là tiếng thác ghềnh ầm vang hay tiếng sét đì đùng một chiều giông gió… Riêng với Như Quỳnh de Prelle, qua tập “Song Tử” - (dành cho những tưởng tượng trong thi ca)”, có cảm giác như nữ thi nhân này đã chọn cho mình cách thức ngõ lời bằng những dòng nham thạch.

Đó là một thứ nham thạch cuồn cuộn trong huyết quản trào ra lúc ngực vỡ. Đọc suốt cả ba phần “Vỡ ngực”, “Thư viết cho người yêu”, “Song Tử và thi ca”, ta đều nhận ra sức nóng như lửa của dòng nham thạch ấy. Những dòng thơ nham thạch cứ chảy tràn trề, cho đến khi dòng thơ cuối đã chấm hết, vẫn chưa thấy tro bụi của nham thạch bay lên, lửa như vẫn còn âm ỉ trong đất đai của dòng thi ca Như Quỳnh de Prelle. Ở đó ta nhận cảm rất rõ nỗi đau vỡ ra cơn đau, từ đó máu chảy khắp không gian và trong những tĩnh mạch trắng của vô thức, những chiêm nghiệm tràn vào, lấp đầy.


*

Có hai nhân vật chính trong câu chuyện “Song Tử”, Song Tử và thi nhân, họ tạo nên bức tranh tình yêu cuồng nhiệt, cuống quýt. Và những nhân vật khác, đã hoàn tất vai trò tương tác của mình trong thế giới thi ca Như Quỳnh.

Trước hết hãy nói về nhân vật Song Tử, nhân vật mà ngay từ “Lời tác giả”, đã tỏ bày: “Song Tử là quà tặng dành cho Song Tử của riêng tôi”; đây chính là một cung đời, cung sao của Người yêu – Chàng thơ của tác giả. Chân dung Song Tử được dựng lên là:“người đàn ông của đời thường bao dung/ người đàn ông của thi ca xa lạ và quyến rũ nàng bằng thứ ngôn ngữ lạ kỳ” (Tuyệt vọng tháng 5)

Tác giả - Nàng, đã gọi tên Chàng:“anh là cánh rừng màu xanh của em/ là ngôi nhà diệp lục tưởng tượng của em/ là Song Tử…” (Thêm một trái tim ở bên)

Vậy mà trong cơn mê yêu, nàng hoang mang hạnh phúc tự hỏi không biết chàng đến từ đâu? Hay chính chàng đã đến trong đời thực, trong cơn mơ và trong cả thi ca của nàng, làm nàng choáng ngợp?:“anh đến từ đâu/ bầu trời hay mặt đất”, “anh đến từ vũ trụ của em/ anh là thời gian không gian của em”, “anh đến từ đâu/từ câu thơ của em/ hay bài thơ của anh/từ giọt nước/ hay từ bông hoa/ từ cõi vĩnh hằng em không nhìn thấy/ hay từ cõi chết trong em anh xuất hiện/ từ ngọn lửa trong mắt em…/ từ ánh trăng trong bản nhạc chiều/ từ mặt trời sau cơn mưa…” Và nàng xác định gốc gác của chàng: “anh đến từ một cánh rừng/mang tên anh/là anh”…(Anh đến từ đâu)

Quả thật ít khi ta gặp chàng thơ như một ảo ảnh như vậy trong thi ca, nhất là một thi ảnh hết sức hậu hiện đại như thế này: “anh là con tinh trùng vô hình/ quẫy đạp em/ sinh sôi”(Anh đến từ đâu).

Trước một Song Tử như vậy, tình yêu của thi nhân dành cho chàng đã cuộn dâng như những dòng nham thạch là phải. Rất nhiều lần nàng tha thiết ngõ lời yêu với tâm tình hiến dâng, mãnh liệt, tận cùng: “em chăm chỉ yêu anh/từng ngày từng ngày một” (Chăm chỉ yêu anh từng ngày một); “em yêu anh yêu anh/cạn kiệt hết đời sống này/ Song Tử của em” (Song Tử của em).

Dẫu biết: “Cái tôi của người đàn bà khi yêu/nhẹ dạ như viết một bài thơ/ như tình yêu vô điều kiện với thi ca sầu muộn”. Ở đây, tình yêu trai gái và tình yêu thi ca đã manh nha là những dung nham trào lên tan vào nhau, hòa vào nhau.

Yêu và chấp nhận: “Một lần nữa yêu/ một lần nữa buồn không ngớt” (Thư tháng 6)

Muốn sẻ chia cùng người yêu: “muốn được ôm anh, hôn gương mặt anh/ cứ buồn bã người đàn ông Song Tử/ cuộc đời này luân chuyển buồn vui/ tỏ bày cùng ai tỏ bày cùng ai/ anh ơi” (Nỗi buồn trên cây 16)…

Nàng giới thiệu với chàng về nàng, với muôn vàn chân dung, vì dù sao nàng vẫn là đàn bà. Nàng muôn vàn tưởng tượng về chân dung người mình yêu: “em tưởng tượng anh là bông hoa và em ngắt nó để ép vào ngực áo”, “em tưởng tượng anh là thời gian thời gian”, “em nhìn thấy anh ở 800 năm trước…em nhìn thấy anh trong bức hình/ người đàn ông đang cầm chiếc kéo…”, “em nhìn thấy dòng chữ của anh trên đám mây của buổi sáng”…

Nhưng chân dung một người đàn bà làm thơ có những đa đoan riêng: “người đàn bà ấy ma lanh/ vươn mình lên nghiến những câu thơ”, “cô ấy giết đi trong tưởng tượng/ cái đẹp ma lanh quỷ quyệt/ đang tràn lấp khắp nơi/ đang lên ngôi”, “cô ấy muốn bẻ đôi tay/ cầm bút” (Chào tháng 3 và những cái chết trong tưởng tượng)…

Nàng không khỏi có những cuộc nổi loạn lạ lùng, chẳng hạn nàng muốn “cạo”, “để cạo hết nỗi buồn trên gương mặt”. Bài thơ “Nàng không thể cạo hết nỗi buồn của nàng” là một cú thi ca đi xuống giữa đời thường bụi bặm để nhặt chữ, và chữ “cạo” được mang về dùng hết sức ấn tượng.

Nhưng chưa dừng lại, không chỉ là cuộc nổi loạn, nó là một cú trào dâng mãnh liệt của núi lửa, nàng muốn “ăn” hết cả chàng khi nàng yêu: “em muốn được ăn cái lưỡi của anh”, “em ăn cả cơ thể của anh”, “em muốn được ăn anh toàn phần”… (Thư viết cho người yêu). Không chỉ ăn mà nàng còn muống uống: “cho em uống anh trong cơ thể em” (Em và anh)…Thật rất ít gặp sự bạo dạn mà rất ý nhị đắm đuối, thừa cá tính ấy trong thơ nữ Việt Nam hiện nay.

Tình yêu đôi lứa ở đây cũng tự bộc lộ hết mình giữa thế giới. Tình yêu của họ rất đẹp và hòa hợp: “anh là cánh rừng/em là dòng nước/ chúng ta bao quanh nhau”; “chúng ta có nhau trong từng tĩnh mạch/ từng nhịp đập/ từng sẻ chia”…

Có thể hình dung Song Tử của nàng đọc những bài thơ này sẽ mỉm cười hạnh phúc.

Nhưng thế giới trong đó có tình yêu của họ lại đang đầy những nỗi buồn:“buồn trái tim hẹp/ buồn lý trí ác ôn/ buồn cả cuộc đời/ chả vui hết ngày” (Nỗi buồn tháng 4); “không bao giờ ngớt nỗi buồn trên cây” (Thư tháng 6); “nỗi buồn lặn sâu cào xới những rạn nứt” (Một buổi chiều mùa hè)

Thế giới ấy đầy những cơn đau: “cơn đau tình ái/cơn đau bệnh đời/ cơn đau của cái chết” (nàng không thể cạo hết nỗi buôn của nàng”

Thế giới ấy đang trổi dậy bản năng gốc:“Những người đàn ông ngồi nhậu với thịt mèo/ Thịt chuột như là một thứ ăn chơi sành điệu/…họ trở thành những kẻ tội lỗi/Với những con vật vô tội/ Có kẻ thì hả hê ta đã ăn được những con mèo đẹp mình thon, thịt thơm”

Thế giới ấy đầy dối trá: “không phải sự tận hiến nào cũng làm cho tình yêu vĩnh cửu vì sự phản bội đan xen và xâm lấn như sự ngấm ngầm của thói quen đầy dối trá” (Phản bội)

Thế giới ấy cái ác rập rình: “làm gì có tình yêu/ cơ hội và luôn là cơ hội/ của những kẻ săn mồi” (Một buổi chiều mùa hè); “họ im lặng giết nhau bằng thứ bạo lực không âm thanh không giai điệu họ trốn tìm nhau như con thú ác” (Tình yêu thời này).

Thế giới ấy khiến “nàng biến thành một con sâu rồi sinh ra cả một đàn sâu” và đến lúc “người đàn bà ăn cả đàn sâu/ trong đĩa” (Hoa tử cung), hết sức siêu thực khiến ta giật mình.

Và tất cả làm cho nàng trong cơn chán nản muốn đào hố chôn hết: “tự chôn mình, chôn cả linh thiêng, tận hiến/ chôn cả trái tim và bộ óc đủ đầy lý trí thị phi/ chôn đôi bàn tay viết lách trên những con chữ vô nghĩa và tình yêu trở thành phù phiếm” (Một buổi chiều mùa hè)

Thế giới ấy làm cho nàng tuyệt vọng, mệt nhoài, nàng có những toan tính để thoát khỏi thế giới. Những toan tính của nàng lại khiến chúng ta âu lo: “ta sẽ lấy những bàn chông siết chặt vào cái cổ/ ta sẽ lấy con dao phay khổng lồ chặt những đôi bàn tay, những đôi bàn chân, treo cổ trên cây bằng dây thừng/ ta sẽ kẹp những ngón tay viết lách cầm bút/ ta sẽ đổ thuốc độc qua cái phễu vào mồm và kéo chân của kẻ tử tù bằng ròng rọc/ ta sẽ chém cho đầu rơi vào túi rách nát/ ta sẽ đeo mặt nạ sắt với kẻ thù/ ta sẽ chết” (Lâu đài mùa xuân một buổi chiều)…

Nhưng thế giới ấy lại khiến nàng phải tin vào những điều đáng tin để tồn tại:“tin vào sự an nhiên/ tin vào sự cô độc/ tin vào sự kiếm tìm” (Tuyệt vọng tháng 5)…

Vậy cái gì dành cho tưởng tượng thi ca? Trong rất nhiều thứ tưởng tượng, có cái tưởng chừng như tưởng tượng mà lại rất thực: “Người đàn bà điên như nô lệ của chữ nghĩa, thi ca, trút ra…”(Mặt trời và người đàn bà điên)

Tình yêu thi ca của nàng mãnh liệt đến độ nàng đã tưởng tượng muốn được “ăn” tất cả. Đây là lần thứ hai ta gặp nàng “ăn”. Nhưng cái ăn này khác cái ham muốn “ăn cả cơ thể của anh”, bởi nàng muốn ngấu nghiến tất cả vì thơ, để làm nhựa sống cho nham thạch thơ của Tác giả - Nàng: “nàng muốn ăn được cả vạn vật trên thế giới”, “nàng muốn ăn cả những mái tóc xù”, “nàng muốn ăn cả những lời thối tha”, …; chỉ để “sau khi người ta đọc và ăn những bài thơ bằng mắt, ý nghĩ/ bằng cách nào đó/ nàng tiếp tục viết/ ăn cả loài người/ bằng ngòi bút/ trên bàn phím…” (Nàng thơ).

Bởi thi nhân muốn sẻ chia trong một nhân loại đầy những con người vô danh và cô đơn:

“Một người nằm xuống/ tôi mới biết rằng con người đó tồn tại/tài hoa/ tử tế/ thế giới thật rộng lớn/ khi sự hiểu biết của tôi còn giới hạn/ tôi nghiêng mình trước một người xa lạ/ thành thân quen/ tronng thế giới loài người”…(Cuộc thế).

*


Những dòng nham thạch ấy đã chảy thành những nhịp điệu riêng của Như Quỳnh de Prelle, những nhịp điệu mãnh liệt nhất, tha thiết nhất, day dứt nhất khi nó được thể hiện bởi dụng ý lặp chữ: “có lúc nàng tuyệt vọng như một đám tang suốt mùa/ có lúc nàng nhẹ dạ ngô nghê trao gửi không hề hấn chi/ có lúc nàng tin tin vào ngọn cỏ”, “những ngày mưa tháng 6 triền miên như khóc như khóc”, “những đàn kiến lầm lũi lầm lũi cặm cụi cặm cụi”,”anh nằm trên ngón tay em lặng im lặng im”, “em chỉ yêu thôi/ chỉ yêu thôi/ vô sở cầu vô sở cầu”…

Chữ thật sự quan trọng đối với thi nhân, vừa giúp trãi lòng trong kiếp người cô độc, vừa đọa đày trong cơn hoan lạc sáng tạo: “Chữ làm tình làm tội”, “chữ như thân phận”, “mỗi ngày chữ sinh ra/ bao nhiêu luyến ái”, “chữ rửa tội/ cho những tội đồ”, “chữ xưng tội/ với người”… (Chữ). Với những khả năng câm nín, truyền tải đồng vọng và bao dung ấy, khiến cho thi nhân: “tin chữ/ hơn tin người”…(Chữ). Nhưng chữ đối với Như Quỳnh de Prelle, như đã nói, không hề là những bí từ đánh đố, không hề mang tính ẩn mật cao, bởi người thơ đã muốn nói thẳng tất cả những gì mình cảm nhận bằng một thứ ngôn ngữ hết sức rõ ràng, dễ hiểu, dẫu có khi là một cú nói thẳng “tôi ước gì tôi là một con bò” (Hiện sinh), hay dẫu đôi khi là một ẩn dụ hiển nhiên: “mùa đông còn lại trên chiếc khăn choàng của em” (Mùa đông còn lại)…

Nhưng không vì vậy mà có thể nói “Song Tử” là tập thơ dễ đọc. Khi đọc tập thơ này, tôi đã nhiều lần đứng dậy mở cửa sổ để thở, để thoát khỏi thế giới thơ đang bị đốt cháy bởi nham thạch, xem thế giới ngoài kia mình đang nhìn lại có tồn tại thực hay không? Bởi thế giới của thơ Như Quỳnh quá rộng với những tâm tưởng lạ, ngập những bức bối day dứt ám ảnh về cõi nhân gian, tràn sức nóng; nó cuồn cuộn dung nham tự sự lịch đại, đồng đại giữa tình yêu và loài người, tình yêu và thi ca, chữ và thi nhân… Để làm gì? Là chỉ để như Tác giả - Nàng nói: “Thi ca của nàng tìm kiếm sự kết nối trong mọi trạng thái tương tác của con người, mọi trạng huống, ngẫu nhiên mà trùng lặp như một sự phân tâm của mối quan hệ tương hợp” (Thi ca hiện sinh). Dẫu nhiều khi nàng thảng thốt: “Thơ ca trong em bất lực/ không đủ đầy sẻ chia/ để cất lời/ để nói bằng tiếng yêu như nó vốn có”…(Và anh tồn tại).

Ôi thi sỹ giữa thế giới, thơ chỉ là một giải bày, một khát khao nhỏ nhoi về một thế giới tốt đẹp hơn, và chính vì thế nó bất lực và nó cô đơn hơn bao giờ hết, giữa muôn trùng vô cảm hôm nay.

H.Đ.T.N.

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • MAI VĂN HOAN         (Giới thiệu các tác giả thuộc chi hội nhà văn Việt Nam tại Huế)Ngô Minh là một trong những nhà văn Việt Nam ở Huế được Đài truyền hình Cáp Việt Nam chọn giới thiệu tới 45 phút trong chương trình “Người của công chúng”. Tôi cũng được mời nói đôi lời về anh. Với tôi, Ngô Minh là người làm việc “tới số” và chơi cũng... “tới số”!

  • PHẠM XUÂN NGUYÊNCùng một kiếp bên trời lận đận                  (Bạch Cư Dị - Tỳ bà hành)Nhà văn Bùi Ngọc Tấn vừa cho ra mắt tác phẩm Rừng xưa xanh lá (Mười chân dung văn nghệ sĩ) tại Nhà xuất bản Hải Phòng (1/2003).

  • TÔ VĨNH HÀNhững trang viết sau cùng của một con người luôn luôn là điều thiêng liêng và không bao giờ hết bí ẩn. Vì sao lại dùng từ ấy chứ không phải là chữ kia; đề cập đến cái này chứ không phải là cái khác..? Rất nhiều câu hỏi sẽ đến với người đọc khi trước mắt ta là những ý tưởng hiện hữu sau cùng của một đời người - đặc biệt ở con người vĩ đại như Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh là cái tên mà mỗi người Việt lúc đọc hay nói, không chỉ diễn đạt một quan niệm gần như vô hạn của nhận thức, mà hơn nhiều thế nữa - là âm sắc tuyệt vời của sự kết tụ những tinh hoa quý giá nhất của trái tim mình.

  • NGUYỄN TỐNGQuê hương đất nước và con người luôn có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau trong suốt chiều dày của lịch sử dựng nước và giữ nước. Nó tự nhiên chan hoà đến mức như cá bơi quẫy giữa đại dương, chim tung cánh vô tư giữa bầu trời bát ngát. Đến lúc nào đó, khi con người rơi vào cảnh cá chậu chim lồng, tình cảm, ý thức về đất nước thiêng liêng mới trở nên ám ảnh day dứt.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ           (Đọc “Thân Trọng Một – con người huyền thoại” của Nguyễn Quang Hà)Đã từ lâu, tên tuổi anh hùng Thân Trọng Một trở nên thân quen với mọi người, nhất là với quân dân Thừa Thiên Huế; những “sự tích” về ông đã thành truyện “truyền kỳ” trong dân chúng và đã được giới thiệu trên nhiều sách báo. Tuy vậy, với “THÂN TRỌNG MỘT – CON NGƯỜI HUYỀN THOẠI”, lần đầu tiên, chân dung và những chiến công của ông đã được tái hiện một cách đầy đủ và sinh động nhất.

  • Nhà văn Nguyễn Quang Hà tâm sự với tôi rằng anh có hai món nợ rất lớn mà chắc đến khi nhắm mắt xuôi tay cũng không thể nào trả xong. Hai món nợ mà anh đang gánh trên đôi vai của mình là món nợ đối với nhân dân và món nợ đối với đồng đội. Gần bốn mươi năm cầm bút, anh đã viết 9 tập tiểu thuyết; 7 tập truyện ngắn, ký, truyện ký; 2 tập thơ cùng với hàng trăm bài báo cũng chỉ mong sao trả được hai món nợ ấy.

  • XUÂN CANGNhờ cuốn hồi ký nhỏ Ngày ấy Trường Sơn (Nxb Hội Nhà văn - Hà Nội - 2000) của Nguyễn Khoa Như Ý- tên khai sinh của Hà Khánh Linh, bạn đọc được biết đây là một nhà văn nữ có khí chất không bình thường. Một người con gái mảnh dẻ, nhưng có chí, mơ mộng, ham hành động, vì nghĩa lớn mà dấn thân vào nơi nguy hiểm.

  • Sau Vị giáo sư và ẩn sĩ đường, Ba lần đến nước Mỹ, trong năm 2002, GS. Hà Minh Đức tiếp tục ra mắt bạn đọc tác phẩm Tản mạn đầu ô. Vậy là trong khoảng 5 năm, bên cạnh một khối lượng lớn những tác phẩm nghiên cứu, lý luận, phê bình, ông đã sáng tác 3 tập thơ và 3 tập bút ký. Đó là những con số mang nhiều ý nghĩa thể hiện sự "đa năng" của một đời văn tưởng đã yên vị với nhiều danh hiệu cao quý và hơn 30 tập sách nghiên cứu, lý luận, phê bình. Tản mạn đầu ô ra đời được dư luận chú ý, quan tâm. Sau đây là cuộc trao đổi giữa PGS. TS Lý Hoài Thu với GS. Hà Minh Đức xung quanh tập sách này.

  • HUỲNH HẠ NGUYÊN         (Đọc tập thơ "Khúc đêm" của Châu Thu Hà - Nxb Thuận Hoá - 11/2002)...Thơ Châu Thu Hà mang đậm nữ tính. Khi trái tim biết cười, hay khi giàn giụa nước mắt, ta bỗng thấy quý sao những phút sống chân thành với cuộc đời, với mọi người. Châu Thu Hà không để trái tim mình tuột xuống phía bên kia triền dốc, chị cố bước tới và neo lại, để thấy mình được xẻ chia, được yêu chiều, xoa dịu...

  • LÊ MỸ Ý (L.M.Y):  Thưa nhà thơ, là một người có thể tạm gọi là thuộc thế hệ đi trước nhưng lại luôn "gây sốc" bằng những tác phẩm tìm tòi mới, chắc hẳn ông có quan tâm nhiều đến thế hệ thơ trẻ? Có thể có một nhận xét chung về thơ trẻ hiện nay chăng?NHÀ THƠ HOÀNG HƯNG (H.H): Tất nhiên là tôi rất quan tâm. Nhận xét chung của tôi về thơ trẻ bây giờ là đa số vẫn mang tính phong trào. Có thể nói là những người làm thơ trẻ vẫn đi theo một vết mòn của thế hệ trước, chưa thấy rõ những bứt phá, chỉ nổi lên một số tác giả theo cách lẻ tẻ.

  • Tại sao cô chỉ làm thơ tự do?- Trước hết, bởi tôi thích tự do. Tự do ở đây, được hiểu là: nói, làm, dám mơ ước và tham vọng tất cả những gì mình muốn, không bị tác động và chi phối bởi ai, bởi bất cứ điều gì.

  • NGUYỄN THỤY KHA Đã là lạ tên một tác phẩm khí nhạc mang tực đề "Eo lưng" của nữ nhạc sĩ Kim Ngọc. Lại thu thú khi đọc tập thơ "Nằm nghiêng" của nữ thi sĩ Phan Huyền Thư. Một thế kỷ giải phóng của Việt Nam thật đáng kính ngạc.Cái cách giải phóng mình, phái yếu trong đó có mình của Phan Huyền Thư là sự độ lượng với cũ kỹ, là mỉa mai sự nửa vời, là quyết liệt lặng lẽ vươn tới cách tân theo một thế của “Nằm nghiêng”.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠOCòn nhớ mùa Huế mưa 1992, Nguyễn Khắc Thạch và Ngô Minh đến nhà tôi chơi, mang theo bản thảo đánh máy tập thơ đầu tay của một tác giả mới 20 tuổi có tên là Văn Cầm Hải. Một cái tên lạ mà tôi chưa nghe bao giờ. Những bài thơ của anh cũng chưa hề xuất hiện trên mặt báo. Nguyễn Khắc Thạch và Ngô Minh đều nói rằng; "Thơ tay này lạ lắm. Ông xem thử".

  • NGUYỄN QUANG HÀNgồi đọc NGÀN NĂM SAU mà như đang ngồi nói chuyện tay đôi với Nguyễn Trọng Bính. Giọng thơ anh cũng cứ chân chất, yêu quê hương và say đời như chính con người anh. Từ thời chiến tranh, chúng tôi đã ở trong rừng với nhau. Cứ ngồi với nhau là bộc bạch hết. Một lá thư riêng, một rung động mới, chúng tôi cũng chia sẻ với nhau.

  • PHAN THÀNH MINHĐó cũng là tựa đề tập thơ rất dễ thương của Trần Tịnh Yên - nhà thơ của đất kinh kỳ thơ mộng thuở nào - thú thật  là tôi đã vô cùng hạnh phúc khi nhận được tập thơ này do chính  tác giả gởi tặng, dễ thương ở chỗ khổ giấy nhỏ nhắn, trình bày đẹp trang nhã, sách 80 trang với 46 bài thơ cũng mỏng mảnh như thế nhưng nhìn rất thơ, càng thơ hơn nữa khi chính tác giả tự viết lời phi lộ cho mình, tôi rất hợp với anh ở điểm này bởi lẽ chẳng ai có thể thay thế cho mình bằng mình để nói hộ những gì mình muốn nói...:...năm xưa qua ngõ sân đìnhcó người nhặt được mối tình ai rơi

  • NAM NGỌC            (Về tập truyện ngắn mới nhất của nhà văn Võ Thị Xuân Hà do Công ty Truyền thông Hà Thế liên kết NXB Phụ nữ xuất bản và phát hành quý I năm 2009)Tập truyện gồm 14 truyện  ngắn, với những mô típ khác nhau nhưng cùng chung gam màu thấm đẫm chất liệu hiện thực. Tất cả đã tạo nên một chỉnh thể thống nhất mà ở đó các nhân vật dù xấu dù tốt cũng đều hướng tới cái đẹp, cái nhân bản của con người. Cách viết truyện lạ cùng với những chi tiết, tình tiết được lắp ghép một cách khéo léo, Võ Thị Xuân Hà đã một lần nữa gây ngạc nhiên cho người đọc bằng bút pháp ẩn không gian đa chiều của mình.

  • BÍCH THUHơn một thập niên trước đây, với hai truyện ngắn Hồi ức của một binh nhì và Vết thương lòng, Nguyễn Thế Tường đã đoạt giải cao trong cuộc thi truyện ngắn do Tạp chí Văn nghệ quân đội tổ chức năm 1992 - 1994. Tôi còn nhớ một trong số các nhà phê bình đã thành danh của nhà số 4 Lý Nam Đế không kìm được cảm xúc của mình với chùm truyện dự thi của Nguyễn Thế Tường lúc ấy đã thốt lên: “Tôi thích truyện ngắn Nguyễn Thế Tường”. Từ đó đến nay, Nguyễn Thế Tường vẫn miệt mài viết và lặng lẽ ra sách. Người đàn bà không hoá đá là lần ra mắt thứ năm của anh.

  • HOÀNG VŨ THUẬT                (Đọc “Trăng đợi trước thềm”, thơ Hải Bằng, NXB Thuận Hoá - 1987)Đổi mới là trách nhiệm vừa là bổn phận đang diễn ra sôi động trong đời sống văn học hôm nay. Nhưng ranh giới giữa cũ và mới không dễ dàng phân định khi đánh giá một tác phẩm văn chương nghệ thuật.

  • ĐINH NAM KHƯƠNG               (Nhân đọc “ru em ru tôi” Thơ Trương Vĩnh Tuấn NXB: Hội nhà văn - 2003)Có một nhà thơ nổi danh thi sĩ, làm “quan” khá to ở báo văn nghệ. Nhưng chẳng bao giờ thấy ông vỗ ngực, ngạo mạn nói lời: “ta là quan đây” mà ông luôn dân giã tự gọi mình là hắn, xưng hô với bạn bè là mày tao:                          “...Hình như hắn là nhà quê                          Hình như hắn từ quê ra...”                                                                (Gốc)

  • NGÔ MINHKhông thể đếm là tập thơ đầu tay của cây bút nữ Nguyễn Thị Thái người Huế, sống ở thành phố Buôn Ma Thuột vừa được NXB Thuận Hóa ấn hành. Tôi đã đọc một mạch hết tập thơ với tâm trạng phấn khích. Tập thơ có nhiều bài thơ hay, có nhiều câu thơ và thi ảnh lạ làm phấn chấn người đọc.