Những dòng thơ nham thạch

13:30 14/02/2017

HỒ ĐĂNG THANH NGỌC

(Đọc “Song Tử” của Như Quỳnh de Prelle)

Trong thế giới thi ca, mỗi thi nhân đều chọn cho mình một thế giới riêng, với một cách thức ngõ lời riêng. Những cách thức ngõ lời ấy, có thể như lời của những dòng sông êm đềm, ngọn gió thênh thang, tiếng suối xa rì rào hay cánh đồng cỏ vi vu, cũng có thể là tiếng rên rỉ của côn trùng nhưng cũng có thể là tiếng thác ghềnh ầm vang hay tiếng sét đì đùng một chiều giông gió… Riêng với Như Quỳnh de Prelle, qua tập “Song Tử” - (dành cho những tưởng tượng trong thi ca)”, có cảm giác như nữ thi nhân này đã chọn cho mình cách thức ngõ lời bằng những dòng nham thạch.

Đó là một thứ nham thạch cuồn cuộn trong huyết quản trào ra lúc ngực vỡ. Đọc suốt cả ba phần “Vỡ ngực”, “Thư viết cho người yêu”, “Song Tử và thi ca”, ta đều nhận ra sức nóng như lửa của dòng nham thạch ấy. Những dòng thơ nham thạch cứ chảy tràn trề, cho đến khi dòng thơ cuối đã chấm hết, vẫn chưa thấy tro bụi của nham thạch bay lên, lửa như vẫn còn âm ỉ trong đất đai của dòng thi ca Như Quỳnh de Prelle. Ở đó ta nhận cảm rất rõ nỗi đau vỡ ra cơn đau, từ đó máu chảy khắp không gian và trong những tĩnh mạch trắng của vô thức, những chiêm nghiệm tràn vào, lấp đầy.


*

Có hai nhân vật chính trong câu chuyện “Song Tử”, Song Tử và thi nhân, họ tạo nên bức tranh tình yêu cuồng nhiệt, cuống quýt. Và những nhân vật khác, đã hoàn tất vai trò tương tác của mình trong thế giới thi ca Như Quỳnh.

Trước hết hãy nói về nhân vật Song Tử, nhân vật mà ngay từ “Lời tác giả”, đã tỏ bày: “Song Tử là quà tặng dành cho Song Tử của riêng tôi”; đây chính là một cung đời, cung sao của Người yêu – Chàng thơ của tác giả. Chân dung Song Tử được dựng lên là:“người đàn ông của đời thường bao dung/ người đàn ông của thi ca xa lạ và quyến rũ nàng bằng thứ ngôn ngữ lạ kỳ” (Tuyệt vọng tháng 5)

Tác giả - Nàng, đã gọi tên Chàng:“anh là cánh rừng màu xanh của em/ là ngôi nhà diệp lục tưởng tượng của em/ là Song Tử…” (Thêm một trái tim ở bên)

Vậy mà trong cơn mê yêu, nàng hoang mang hạnh phúc tự hỏi không biết chàng đến từ đâu? Hay chính chàng đã đến trong đời thực, trong cơn mơ và trong cả thi ca của nàng, làm nàng choáng ngợp?:“anh đến từ đâu/ bầu trời hay mặt đất”, “anh đến từ vũ trụ của em/ anh là thời gian không gian của em”, “anh đến từ đâu/từ câu thơ của em/ hay bài thơ của anh/từ giọt nước/ hay từ bông hoa/ từ cõi vĩnh hằng em không nhìn thấy/ hay từ cõi chết trong em anh xuất hiện/ từ ngọn lửa trong mắt em…/ từ ánh trăng trong bản nhạc chiều/ từ mặt trời sau cơn mưa…” Và nàng xác định gốc gác của chàng: “anh đến từ một cánh rừng/mang tên anh/là anh”…(Anh đến từ đâu)

Quả thật ít khi ta gặp chàng thơ như một ảo ảnh như vậy trong thi ca, nhất là một thi ảnh hết sức hậu hiện đại như thế này: “anh là con tinh trùng vô hình/ quẫy đạp em/ sinh sôi”(Anh đến từ đâu).

Trước một Song Tử như vậy, tình yêu của thi nhân dành cho chàng đã cuộn dâng như những dòng nham thạch là phải. Rất nhiều lần nàng tha thiết ngõ lời yêu với tâm tình hiến dâng, mãnh liệt, tận cùng: “em chăm chỉ yêu anh/từng ngày từng ngày một” (Chăm chỉ yêu anh từng ngày một); “em yêu anh yêu anh/cạn kiệt hết đời sống này/ Song Tử của em” (Song Tử của em).

Dẫu biết: “Cái tôi của người đàn bà khi yêu/nhẹ dạ như viết một bài thơ/ như tình yêu vô điều kiện với thi ca sầu muộn”. Ở đây, tình yêu trai gái và tình yêu thi ca đã manh nha là những dung nham trào lên tan vào nhau, hòa vào nhau.

Yêu và chấp nhận: “Một lần nữa yêu/ một lần nữa buồn không ngớt” (Thư tháng 6)

Muốn sẻ chia cùng người yêu: “muốn được ôm anh, hôn gương mặt anh/ cứ buồn bã người đàn ông Song Tử/ cuộc đời này luân chuyển buồn vui/ tỏ bày cùng ai tỏ bày cùng ai/ anh ơi” (Nỗi buồn trên cây 16)…

Nàng giới thiệu với chàng về nàng, với muôn vàn chân dung, vì dù sao nàng vẫn là đàn bà. Nàng muôn vàn tưởng tượng về chân dung người mình yêu: “em tưởng tượng anh là bông hoa và em ngắt nó để ép vào ngực áo”, “em tưởng tượng anh là thời gian thời gian”, “em nhìn thấy anh ở 800 năm trước…em nhìn thấy anh trong bức hình/ người đàn ông đang cầm chiếc kéo…”, “em nhìn thấy dòng chữ của anh trên đám mây của buổi sáng”…

Nhưng chân dung một người đàn bà làm thơ có những đa đoan riêng: “người đàn bà ấy ma lanh/ vươn mình lên nghiến những câu thơ”, “cô ấy giết đi trong tưởng tượng/ cái đẹp ma lanh quỷ quyệt/ đang tràn lấp khắp nơi/ đang lên ngôi”, “cô ấy muốn bẻ đôi tay/ cầm bút” (Chào tháng 3 và những cái chết trong tưởng tượng)…

Nàng không khỏi có những cuộc nổi loạn lạ lùng, chẳng hạn nàng muốn “cạo”, “để cạo hết nỗi buồn trên gương mặt”. Bài thơ “Nàng không thể cạo hết nỗi buồn của nàng” là một cú thi ca đi xuống giữa đời thường bụi bặm để nhặt chữ, và chữ “cạo” được mang về dùng hết sức ấn tượng.

Nhưng chưa dừng lại, không chỉ là cuộc nổi loạn, nó là một cú trào dâng mãnh liệt của núi lửa, nàng muốn “ăn” hết cả chàng khi nàng yêu: “em muốn được ăn cái lưỡi của anh”, “em ăn cả cơ thể của anh”, “em muốn được ăn anh toàn phần”… (Thư viết cho người yêu). Không chỉ ăn mà nàng còn muống uống: “cho em uống anh trong cơ thể em” (Em và anh)…Thật rất ít gặp sự bạo dạn mà rất ý nhị đắm đuối, thừa cá tính ấy trong thơ nữ Việt Nam hiện nay.

Tình yêu đôi lứa ở đây cũng tự bộc lộ hết mình giữa thế giới. Tình yêu của họ rất đẹp và hòa hợp: “anh là cánh rừng/em là dòng nước/ chúng ta bao quanh nhau”; “chúng ta có nhau trong từng tĩnh mạch/ từng nhịp đập/ từng sẻ chia”…

Có thể hình dung Song Tử của nàng đọc những bài thơ này sẽ mỉm cười hạnh phúc.

Nhưng thế giới trong đó có tình yêu của họ lại đang đầy những nỗi buồn:“buồn trái tim hẹp/ buồn lý trí ác ôn/ buồn cả cuộc đời/ chả vui hết ngày” (Nỗi buồn tháng 4); “không bao giờ ngớt nỗi buồn trên cây” (Thư tháng 6); “nỗi buồn lặn sâu cào xới những rạn nứt” (Một buổi chiều mùa hè)

Thế giới ấy đầy những cơn đau: “cơn đau tình ái/cơn đau bệnh đời/ cơn đau của cái chết” (nàng không thể cạo hết nỗi buôn của nàng”

Thế giới ấy đang trổi dậy bản năng gốc:“Những người đàn ông ngồi nhậu với thịt mèo/ Thịt chuột như là một thứ ăn chơi sành điệu/…họ trở thành những kẻ tội lỗi/Với những con vật vô tội/ Có kẻ thì hả hê ta đã ăn được những con mèo đẹp mình thon, thịt thơm”

Thế giới ấy đầy dối trá: “không phải sự tận hiến nào cũng làm cho tình yêu vĩnh cửu vì sự phản bội đan xen và xâm lấn như sự ngấm ngầm của thói quen đầy dối trá” (Phản bội)

Thế giới ấy cái ác rập rình: “làm gì có tình yêu/ cơ hội và luôn là cơ hội/ của những kẻ săn mồi” (Một buổi chiều mùa hè); “họ im lặng giết nhau bằng thứ bạo lực không âm thanh không giai điệu họ trốn tìm nhau như con thú ác” (Tình yêu thời này).

Thế giới ấy khiến “nàng biến thành một con sâu rồi sinh ra cả một đàn sâu” và đến lúc “người đàn bà ăn cả đàn sâu/ trong đĩa” (Hoa tử cung), hết sức siêu thực khiến ta giật mình.

Và tất cả làm cho nàng trong cơn chán nản muốn đào hố chôn hết: “tự chôn mình, chôn cả linh thiêng, tận hiến/ chôn cả trái tim và bộ óc đủ đầy lý trí thị phi/ chôn đôi bàn tay viết lách trên những con chữ vô nghĩa và tình yêu trở thành phù phiếm” (Một buổi chiều mùa hè)

Thế giới ấy làm cho nàng tuyệt vọng, mệt nhoài, nàng có những toan tính để thoát khỏi thế giới. Những toan tính của nàng lại khiến chúng ta âu lo: “ta sẽ lấy những bàn chông siết chặt vào cái cổ/ ta sẽ lấy con dao phay khổng lồ chặt những đôi bàn tay, những đôi bàn chân, treo cổ trên cây bằng dây thừng/ ta sẽ kẹp những ngón tay viết lách cầm bút/ ta sẽ đổ thuốc độc qua cái phễu vào mồm và kéo chân của kẻ tử tù bằng ròng rọc/ ta sẽ chém cho đầu rơi vào túi rách nát/ ta sẽ đeo mặt nạ sắt với kẻ thù/ ta sẽ chết” (Lâu đài mùa xuân một buổi chiều)…

Nhưng thế giới ấy lại khiến nàng phải tin vào những điều đáng tin để tồn tại:“tin vào sự an nhiên/ tin vào sự cô độc/ tin vào sự kiếm tìm” (Tuyệt vọng tháng 5)…

Vậy cái gì dành cho tưởng tượng thi ca? Trong rất nhiều thứ tưởng tượng, có cái tưởng chừng như tưởng tượng mà lại rất thực: “Người đàn bà điên như nô lệ của chữ nghĩa, thi ca, trút ra…”(Mặt trời và người đàn bà điên)

Tình yêu thi ca của nàng mãnh liệt đến độ nàng đã tưởng tượng muốn được “ăn” tất cả. Đây là lần thứ hai ta gặp nàng “ăn”. Nhưng cái ăn này khác cái ham muốn “ăn cả cơ thể của anh”, bởi nàng muốn ngấu nghiến tất cả vì thơ, để làm nhựa sống cho nham thạch thơ của Tác giả - Nàng: “nàng muốn ăn được cả vạn vật trên thế giới”, “nàng muốn ăn cả những mái tóc xù”, “nàng muốn ăn cả những lời thối tha”, …; chỉ để “sau khi người ta đọc và ăn những bài thơ bằng mắt, ý nghĩ/ bằng cách nào đó/ nàng tiếp tục viết/ ăn cả loài người/ bằng ngòi bút/ trên bàn phím…” (Nàng thơ).

Bởi thi nhân muốn sẻ chia trong một nhân loại đầy những con người vô danh và cô đơn:

“Một người nằm xuống/ tôi mới biết rằng con người đó tồn tại/tài hoa/ tử tế/ thế giới thật rộng lớn/ khi sự hiểu biết của tôi còn giới hạn/ tôi nghiêng mình trước một người xa lạ/ thành thân quen/ tronng thế giới loài người”…(Cuộc thế).

*


Những dòng nham thạch ấy đã chảy thành những nhịp điệu riêng của Như Quỳnh de Prelle, những nhịp điệu mãnh liệt nhất, tha thiết nhất, day dứt nhất khi nó được thể hiện bởi dụng ý lặp chữ: “có lúc nàng tuyệt vọng như một đám tang suốt mùa/ có lúc nàng nhẹ dạ ngô nghê trao gửi không hề hấn chi/ có lúc nàng tin tin vào ngọn cỏ”, “những ngày mưa tháng 6 triền miên như khóc như khóc”, “những đàn kiến lầm lũi lầm lũi cặm cụi cặm cụi”,”anh nằm trên ngón tay em lặng im lặng im”, “em chỉ yêu thôi/ chỉ yêu thôi/ vô sở cầu vô sở cầu”…

Chữ thật sự quan trọng đối với thi nhân, vừa giúp trãi lòng trong kiếp người cô độc, vừa đọa đày trong cơn hoan lạc sáng tạo: “Chữ làm tình làm tội”, “chữ như thân phận”, “mỗi ngày chữ sinh ra/ bao nhiêu luyến ái”, “chữ rửa tội/ cho những tội đồ”, “chữ xưng tội/ với người”… (Chữ). Với những khả năng câm nín, truyền tải đồng vọng và bao dung ấy, khiến cho thi nhân: “tin chữ/ hơn tin người”…(Chữ). Nhưng chữ đối với Như Quỳnh de Prelle, như đã nói, không hề là những bí từ đánh đố, không hề mang tính ẩn mật cao, bởi người thơ đã muốn nói thẳng tất cả những gì mình cảm nhận bằng một thứ ngôn ngữ hết sức rõ ràng, dễ hiểu, dẫu có khi là một cú nói thẳng “tôi ước gì tôi là một con bò” (Hiện sinh), hay dẫu đôi khi là một ẩn dụ hiển nhiên: “mùa đông còn lại trên chiếc khăn choàng của em” (Mùa đông còn lại)…

Nhưng không vì vậy mà có thể nói “Song Tử” là tập thơ dễ đọc. Khi đọc tập thơ này, tôi đã nhiều lần đứng dậy mở cửa sổ để thở, để thoát khỏi thế giới thơ đang bị đốt cháy bởi nham thạch, xem thế giới ngoài kia mình đang nhìn lại có tồn tại thực hay không? Bởi thế giới của thơ Như Quỳnh quá rộng với những tâm tưởng lạ, ngập những bức bối day dứt ám ảnh về cõi nhân gian, tràn sức nóng; nó cuồn cuộn dung nham tự sự lịch đại, đồng đại giữa tình yêu và loài người, tình yêu và thi ca, chữ và thi nhân… Để làm gì? Là chỉ để như Tác giả - Nàng nói: “Thi ca của nàng tìm kiếm sự kết nối trong mọi trạng thái tương tác của con người, mọi trạng huống, ngẫu nhiên mà trùng lặp như một sự phân tâm của mối quan hệ tương hợp” (Thi ca hiện sinh). Dẫu nhiều khi nàng thảng thốt: “Thơ ca trong em bất lực/ không đủ đầy sẻ chia/ để cất lời/ để nói bằng tiếng yêu như nó vốn có”…(Và anh tồn tại).

Ôi thi sỹ giữa thế giới, thơ chỉ là một giải bày, một khát khao nhỏ nhoi về một thế giới tốt đẹp hơn, và chính vì thế nó bất lực và nó cô đơn hơn bao giờ hết, giữa muôn trùng vô cảm hôm nay.

H.Đ.T.N.

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN ĐĂNG MẠNHNguyễn Khải ở trong Nam, ít khi tôi được gặp. Tôi rất thích nói chuyện với anh. Đúng ra là tôi thích nghe anh nói.

  • PHẠM XUÂN HÙNG(Về cuốn Đọc văn - Tiểu luận - Phê bình của Phạm Phú Phong, NXB Thuận Hóa, 2008)

  • HÀ VĂN LƯỠNGChingiz Aitmatốp thuộc trong số các nhà văn lớn được độc giả nhiều nước trên thế giới biết đến. Tác phẩm của ông thể hiện những vấn đề đạo đức nhân sinh, nhân loại. Ngoài việc sử dụng các đặc điểm thời gian, không gian nghệ thuật, cấu trúc, giọng điệu tác phẩm... nhà văn còn đưa huyền thoại, truyền thuyết vào tác phẩm như là một thi pháp biểu hiện mang tính đặc trưng của ông.

  • TÔ NHUẬN VỸ(Nhân đọc một số bài tranh luận về cuốn THƠ ĐẾN TỪ ĐÂU)

  • NGUYỄN KHẮC PHÊBộ trường thiên tiểu thuyết “Sông Côn mùa lũ”(*) của nhà văn Nguyễn Mộng Giác, được bạn đọc chú ý trước hết vì bề dày 4 tập 2000 trang với nhân vật trung tâm là người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ; sau nữa, đây là tác phẩm văn học dày dặn nhất của một Việt kiều được xuất bản trong nước.

  • ĐỖ NGỌC YÊN…Thơ Hoàng Trần Cương là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa những chất liệu, hình ảnh và ngôn ngữ của đời sống, với sự đào sâu những suy tư, khát vọng sống của con người và một vùng quê mà anh đã nặng nghĩa sinh thành...

  • THỦY THANHCơn đại hồng thủy đầu tháng 11 năm 1999 được coi như "bản tổng kết thủy tặc" đầy bi tráng của thiên nhiên trong thế kỷ 20 đối với mảnh đất Thừa Thiên Huế. Nó đã gây ra nỗi kinh hoàng, đau thương, mất mát to lớn và cũng để lại không ít những hệ lụy nặng nề cho con người ở nơi đây. Và cũng chính nó - cơn lũ chưa từng có này - đã đi vào lịch sử.

  • BẾ KIẾN QUỐCNăm ấy, vào quãng mùa hè 1982, khi đang trực Ban văn xuôi của báo Văn Nghệ, tôi nhận được một bản thảo truyện ngắn kèm theo lời nhắn: “ Cái truyện này rất quan trọng đối với tôi. Rất mong được tòa soạn đọc kỹ và cho ý kiến. Mấy hôm nữa tôi sẽ quay lại”.

  • THÁI DOÃN HIỂUNgô Văn Phú là thi sĩ của đồng quê. Anh có thể viết nhiều đề tài như xây dựng, chiến tranh, lịch sử, tình yêu..., nhưng như lá rụng về cội, ngược về nguồn, Ngô Văn Phú trở lại nơi làng quê yêu dấu với một tình yêu bẩm sinh, yêu đến tận cùng gốc rễ như Nêruđa đã viết.

  • MAI VĂN HOANTrong số bạn bè cùng lứa thì Ngô Minh bước vào làng thơ muộn màng hơn cả. Nếu Lâm Thị Mỹ Dạ được chú ý ngay khi còn ngồi trên nghế nhà trường, Hải Kỳ có thơ in trên báo Văn nghệ những năm 69,70 thì Ngô Minh vẫn chưa hề có ai hay biết.

  • HOÀNG VŨ THUẬTCó những bài thơ đọc lên và bắt gặp ngay cái đẹp trong từng câu chữ. Lại có những bài thơ đọc đi đọc lại thấy hay mà không dễ gì tìm thấy ngay được. Nó như vẻ đẹp của người con gái có duyên thằm. Cái đẹp thầm kín, ẩn náu.

  • HOÀNG VŨ THUẬTTrong một bài thơ viết trên giường bệnh, trước khi mất vài hôm Thanh Hải tâm sự:     Ta làm con chim hót     Ta làm một cành hoa                                   Ta nhập trong hòa ca                                   Một nốt trầm xao xuyến                                          (Mùa xuân nho nhỏ)

  • Tiểu thuyết "Vạn Xuân" (Dix mille Printemps) của nữ văn sĩ Pháp Yveline Féray viết về cuộc đời Nguyễn Trãi và cuộc khởi nghĩa Lam Sơn dày trên 1200 trang, do Nguyễn Khắc Dương và một số cộng tác viên dịch, do Nhà xuất bản Văn học in năm 1997 đã được độc giả Việt Nam đón nhận nồng nhiệt.

  • PHAN VĂN CÁCTuy Lí Vương Nguyễn Miên Trinh (1820- 1897) là con thứ 11 vua Minh Mệnh triều Nguyễn, tự là Khôn Chương, lại có tự là Quý Trọng, hiệu là Tĩnh Phố (tên ngôi vườn ông ở) lại có hiệu là Vi Dã. Tuy Lí Vương là tước phong cuối cùng của ông (trước đó từng có tước Tuy Quốc công năm 19 tuổi).

  • HOÀNG CẦM(Lời Bạt cho tập thơ ĐÓA TẦM XUÂN của Trịnh Thanh Sơn - Nhà Xuất bản Văn học 1999)

  • NGUYỄN KHẮC PHÊTác phẩm đầu tay của tôi - tập ký sự “Vì sự sống con đường” (NXB Thanh Niên, Hà Nội, 1968) viết về những đồng đội của tôi trong cuộc chiến đấu anh hùng bảo vệ tuyến đường 12A lên đèo Mụ Dạ, một đoạn đường trọng yếu trong hệ thống đường Hồ Chí Minh giai đoạn 1965-1966, được xuất bản năm 1968, nhưng bài viết đầu tiên của tôi được in trên báo chí khi tôi vừa tròn 20 tuổi và đang học tại Hà Nội.

  • Thanh Hải tên thật là Phạm Bá Ngoãn. Anh sinh ngày 4 tháng 11 năm 1930, quê ở xã Phong Bình, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Nhà thơ mất ngày 15 tháng 12 năm 1980, tại thành phố Huế.

  • LÊ VĂN DƯƠNG1. Quý II năm 2005, Nhà xuất bản Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh phát hành, nói đúng ra là tái bản lần thứ nhất cuốn Tản mạn nhớ và quên của Nguyên Ngọc. Cuốn sách dày 560 trang, tập hợp 15 bài viết của tác giả ở những thời điểm khác nhau nhưng đa phần là vào những năm 90 của thế kỷ XX và một vài năm mở đầu thế kỷ XXI.

  • PHAN CHÍNSau khi làm tròn vai một nhà chính trị, không giống như nhiều người khác, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm rời Thủ đô Hà Nội về Huế sinh sống.

  • NGUYỄN THỊ KIM THANH(Nhân đọc Tập thơ Ngày đầu tiên của Trần Hữu Lục - NXB Hội Nhà Văn, 01-2010)