Những đổi mới của văn xuôi Puskin đối với văn xuôi Nga đầu thế kỷ XIX

08:46 09/12/2009
HÀ VĂN LƯỠNGPuskin không chỉ là nhà thơ Nga vĩ đại, nhà viết kịch có tiếng mà còn là nhà cải cách văn học lớn. Là người “khởi đầu của mọi khởi đầu” (M. Gorki) Puskin bước vào lĩnh vực văn xuôi với tư cách là một người cách tân trong văn học Nga những năm đầu thế kỷ. Những tác phẩm văn xuôi của ông đã đặt cơ sở vững chắc cho văn xuôi hiện thực và sự ra đời của chủ nghĩa hiện thực phê phán Nga, góp phần khẳng định những giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc.

Thi hào Puskin - Ảnh: tranphu.com

Nhận xét về văn xuôi Puskin, nhà văn M. Gorki viết, ông “đã đặt nền móng cho văn xuôi Nga hiện đại, mạnh dạn đưa vào văn học những đề tài mới và trong khi giải thoát ngôn ngữ Nga ra khỏi ảnh hưởng của tiếng Pháp, tiếng Đức, đồng thời cũng giải thoát nền văn học ra khỏi chủ nghĩa duy cảm nhạt nhẽo mà những tác giả trước Puskin đều mắc phải. Ngoài ra, Puskin cũng là người đặt nền tảng cho sự hòa hợp giữa chủ nghĩa lãng mạn và chủ nghĩa hiện thực, sự hòa hợp mà cho đến nay vẫn là đặc trưng tiêu biểu của nền văn học Nga, làm cho nó có một âm hưởng riêng, một diện mạo riêng” (1).

Những cách tân của Puskin về nội dung phản ánh và nghệ thuật biểu hiện đã góp phần đưa văn xuôi Nga chuyển sang một thời kỳ phát triển mới.

Trong bài viết này, chúng tôi không đi vào tìm hiểu toàn bộ những đổi mới về nội dung và nghệ thuật của văn xuôi Puskin đối với văn xuôi Nga đầu thế kỷ mà chỉ phân tích một số điểm đổi mới của nhà văn về ngôn ngữ, đề tài, nhân vật và kết cấu tác phẩm.

1. Ngôn ngữ gắn với chữ viết và văn học dân tộc, đồng thời “là yếu tố thứ nhất” để xây dựng tác phẩm văn học. Sự đổi mới không ngừng của ngôn ngữ văn học, một mặt giúp nhà văn thể hiện đúng bản chất nhân vật, khai thác triệt để thế giới nội tâm phong phú của nhân vật, mặt khác góp phần làm giàu thêm vốn ngôn ngữ dân tộc.

Được nuôi dưỡng bằng nguồn mạch văn học dân gian Nga qua nhiều thế kỷ, văn học viết, đặc biệt là văn xuôi Nga đã từng bước có những đổi mới trong việc sử dụng ngôn ngữ trong sáng tác văn học. Trước Puskin khẳng định ưu thế của tiếng Nga, nhà bác học Lômônôxốp đã từng viết: “Trong tiếng Nga, có bao hàm cái trang trọng của tiếng Tân Ban Nha, cái dịu ngọt của tiếng Ý, cái rắn rỏi của tiếng Đức, cái sinh động của tiếng Pháp. Hơn thế nữa, còn bao hàm cả cái súc tích, và cái mạnh mẽ của tiếng Hi Lạp và tiếng Latinh...” (2).

Các nhà văn, nhà thơ của chủ nghĩa cổ điển, chủ nghĩa tình cảm và chủ nghĩa lãng mạn từ Lômônôxốp, Phônvidin, Đécgiavin đến Karamdin, Giucôpxki và Puskin... đã có ý thức trau dồi, đổi mới ngôn ngữ văn chương Nga ngày càng phù hợp với thị hiếu công chúng.

Lômônôxốp là người đầu tiên chỉ ra sự phong phú của tiếng Nga và sử dụng nó rất linh hoạt trong các sáng tác của mình. Ông chủ trương dùng từ Xlavơ cổ không chỉ bó hẹp trong môi trường quý tộc, trong nhà thờ mà nên mở rộng phạm vi sử dụng của nó trong văn học và trong đời sống của các tầng lớp nhân dân khác. Chính điều này đã góp phần đưa văn học đến với độc giả thuộc các thành phần lớp dưới.

Là đại biểu của chủ nghĩa tình cảm, tiếp tục đổi mới ngôn ngữ văn học, Karamdin đã có công làm giàu tiếng nói dân tộc, chống lại việc sử dụng những từ ngữ cổ xưa mang tính khuôn mẫu, tìm đến lối viết phóng khoáng, dùng từ ngữ uyển chuyển và tinh tế hơn mà Nàng Lida bạc phận của ông là một thể nghiệm.

Như vậy, ngôn ngữ văn học đã có những thay đổi thể hiện trong tác phẩm văn học của các nhà văn trong nhiều thế kỷ trước. Nhưng nhìn chung, ngôn ngữ văn học chưa có sự phân định rạch ròi giữa các thể loại mà là sự pha tạp giữa ngôn ngữ thơ, ngôn ngữ văn xuôi với ngôn ngữ hằng ngày. Các nhà văn chỉ chú trọng làm “đẹp”, “hài hòa”, “bóng bẩy” ngôn từ mà chưa chú ý đến cấu trúc ngữ pháp và sự gắn bó giữa ngôn ngữ nhân vật với hành động và diễn biến nội tâm của họ. Đặc biệt, chủ nghĩa tình cảm lôi cuốn người đọc bởi sự “hoa mỹ” “cầu kỳ”. Người ta có cảm tưởng các nhân vật trong văn xuôi của họ đang “hát” với những lời trữ tình, bay bổng, đôi khi rất xa lạ với bản chất của mình mà chưa “nói” lên được những tâm tư sâu kín tận sâu thẳm đáy lòng con người.

Tiếp thu những thành tựu của các nhà văn thế hệ trước, Puskin có những cách tân về ngôn ngữ văn học. Xuất phát từ quan niệm, văn học “đem lời nói đốt tim muôn người” và gắn bó mật thiết với đời sống nhân dân, Puskin đã thay vào những từ sáo rỗng, êm dịu, kiểu cách của phòng khách quý tộc bằng những ngôn từ bình dị, ngắn gọn, chân chất để diễn tả tâm trạng nhân vật. Trong các tác phẩm Người da đen của Piốt đại đế, Tập truyện ông Ivan Pêtơrôvich Benkin đã quá cố, Đôbrốpxki, Con đầm pích, Người con gái viện đại úy..., nhà văn đã bỏ lối miêu tả rườm rà, dẫn dắt mà bằng những từ ngữ ngắn gọn, chính xác. Mở đầu Ông chủ hiệu đám ma, tác giả viết: “Những đồ vặt vãnh cuối cùng của ông chủ hiệu đám ma Ađrian Prôkhôrốp đã chất lên trên chiếc xe đòn và cặp ngựa gầy còm ì ạch kéo...” (3). Ở truyện ngắn Người coi trạm, người đọc tiếp xúc ngay với câu chuyện bằng những câu mở đầu với các câu hỏi: “Thử hỏi ai là kẻ chưa từng nguyền rủa những người coi trạm, ai là kẻ chưa từng chửi bới họ? Ai mà chẳng có lần, trong một phút giận dữ, đã đòi cho được quyển sổ tai hại để ghi vào đó những lời than phiền bất lợi về một sự xúc phạm, một thái độ lỗ mãng hay một điều sai hẹn” (4).

Công việc của người chủ hiệu đám ma và người coi trạm được Puskin giới thiệu ngay từ đầu truyện thu hút người đọc theo dõi số phận và cuộc đời họ sẽ ra sao.

Nói đến đặc trưng của văn xuôi,Puskin cho rằng: Chính xác và ngắn gọn là phẩm chất đầu tiên của văn xuôi. Nó đòi hỏi tư tưởng và tư tưởng. Không có tư tưởng thì những cách biểu hiện hào nhoáng nhất cũng chẳng lợi ích gì”.

2. Đề tài và nhân vật trong văn xuôi Puskin khá đa dạng. Khác với văn xuôi đương thời và các giai đoạn trước chỉ chú ý đến đời sống của tầng lớp quý tộc cung đình với những sinh hoạt xa hoa, trụy lạc hay những mối tình lãng mạn của những “chàng”, “nàng”, Puskin gắn sáng tác của mình với thực tế sôi động, với số phận của những con người thuộc lớp dưới của xã hội: những viên chức nghèo hèn, những người mugích xấu số, những người lính nơi biên ải. Đồng thời, nhà văn khai thác đề tài lịch sử và những biến cố bước ngoặt ảnh hưởng đến vận mệnh dân tộc.

Trong Người da đen của Piốt đại đế, bên cạnh việc dựng lại bức tranh sinh động của xã hội thượng lưu Nga đầu thế kỷ XVIII với những cải cách, đổi mới, Puskin đã khẳng định và đề cao vai trò to lớn của vua Piôt đại đế. Nhà văn mô tả cảnh nhà vua đích thân đi đón Ibraghim (Người con nuôi da đen của vua) và việc vua làm ông mối cho chàng thể hiện tình cảm gắn bó, gần gũi giữa vua với thần dân.

Ở truyện Rôxlavliép, nhà văn lấy bối cảnh nước Nga những năm đầu thế kỷ XIX mà trung tâm là cuộc chiến tranh 1812. Thông qua câu chuyện tình của một cô gái quý tộc Nga với một sĩ quan Pháp, Puskin muốn tranh luận với cuốn tiểu thuyết lịch sử Rôxlavliép, hay những người Nga năm 1812 của M.N. Dagôxkin. Puskin phân tích tính cách bợ đỡ mù quáng của giới quý tộc cung đình Nga đối với phương Tây và thói háo danh vô liêm sỉ của chúng đối với chủ nghĩa yêu nước và tinh thần anh dũng của nhân dân Nga trong chiến tranh 1812. Trước cảnh Matxcơva bị thiêu cháy, nhân vật Pôlia tự hào nói rằng: “... ta có thể tự hào rằng mình là một người Nga! Thiên hạ sẽ phải sửng sốt vì sự hy sinh lớn lao này! Bây giờ thì dù cho chúng ta có suy tàn, tôi cũng không sợ nữa, danh dự của chúng ta đã được cứu vãn. Không bao giờ Châu Âu còn dám đối chọi với một dân tộc đã tự mình chặt đứt cánh tay của mình, tự đốt cháy kinh đô của mình” (5).

Quan tâm đến những vấn đề lịch sử, đặc biệt là các cuộc khởi nghĩa nông dân vào thế kỷ XVIII là động lực thúc đẩy Puskin viết ĐubrốpxkiNgười con gái viên đại úy. Cuộc nổi loạn của nông dân vùng Pơxcốp vào năm 1737 do Đubrốpxki cầm đầu (Đubrốpxki) là bước chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa nông dân diễn ra mạnh mẽ, rộng khắp cả nước (những năm 1773- 1775) vào cuối thế kỷ XVIII do lãnh tụ nông dân Pugátsốp lãnh đạo (Người con gái viên đại úy).

Puskin phản ánh cuộc khởi nghĩa và nhân vật Pugátsốp với một thái độ thiện cảm. Do thiên kiến giai cấp, xem Pugátsốp là giặc, nhưng Puskin vẫn mô tả người lãnh tụ nông dân với những đức tính đáng quý trọng: giàu lòng vị tha, sống ân nghĩa (hai lần tha chết cho Piốt Anđrêvích, trả nghĩa cho người giúp đỡ mình thưở hàn vi...).

Một mảng hiện thực sinh động trong văn xuôi Puskin là viết về những “con người nhỏ bé”, những viên chức nghèo, những người làm nghề lương thiện, những tiểu thư nông dân có cuộc sống bấp bênh và công việc nặng nhọc. Nếu ở Người chủ hiệu đám ma, tác giả mô tả những công việc tưởng như rất bình thường của người bán quan tài, nhưng bị mọi người coi thường, dè bỉu thì truyện Người coi trạm nhà văn kể về số phận trớ trêu, gian khổ của Xamxôn Vưrin. “Con người nhỏ bé”, lương thiện và cần mẫn ở trạm giao thông heo hút trên đất Nga này bị lăng nhục thậm tệ và người con gái duy nhất của ông đã bị lừa đi theo một hành khách đểu cáng.

Viết về những con người này, nhà văn thể hiện sự đồng cảm sâu sắc, chia sẻ những nỗi bất hạnh của họ. Puskin không hề tô vẽ, nhưng sự việc và con người, nội tâm và chân dung bên ngoài của nhân vật cứ hiện ra chân thật, tự nhiên, rõ nét. Đây là điểm mới của văn xuôi Puskin,, là sự chiến thắng của chủ nghĩa hiện thực đối với chủ nghĩa lãng mạn.

3. Trong văn xuôi Puskin, đặc biệt là truyện ngắn thường có kết cấu ngắn gọn, súc tích, chặt chẽ. Sự ngắn gọn về hình thức và ngôn từ nhưng không ngắn về nội dung phản ánh. Các truyện của Puskin đưa người đọc tiếp xúc ngay với câu chuyện qua lời văn tự nhiên, cô đọng, tạo ra sự suy nghĩ, liên tưởng độc đáo về con người và sự việc. Điều này thể hiện qua một số đoạn mở đầu các truyện như sau: “Trong số những người trẻ tuổi được vua Piốt đệ nhất gửi ra nước ngoài để học hỏi những kiến thức cần thiết cho công việc duy tân có người con đỡ đầu của nhà vua là Ibraghim, một người thanh niên da đen” (Người da đen của Piốt đại đế). “Vào khoảng cuối năm 1811, một thời đại rất đáng ghi nhớ của chúng ta có một người trung hậu tên là Gavrila Gavrilôvích R... sống trong trại ấp riêng của mình ở Nênnarađôvô”. (Bão tuyết). Cách dẫn truyện và giới thiệu nhân vật, địa điểm, thời gian một cách cụ thể, chính xác đã làm tăng giá trị chân thực của tác phẩm.

Nghệ thuật kể chuyện của Puskin mang một phong cách riêng. Hầu hết trong các truyện, nhân vật người kể chuyện thường ở ngôi thứ nhất. Nhân vật tôi trực tiếp kể về mình hoặc chuyện được chứng kiến. Điều này khẳng định tính xác thực của câu chuyện, tạo sự tin tưởng ở độc giả. Trong Phát súng, nhà văn viết: “Chúng tôi đóng quân ở thị trấn X..., chúng tôi tụ tập ở nhà nhau, hết nhà này lại sang nhà khác”. Ở Rôxlavliép, người kể chuyện ở ngôi thứ nhất: “Tôi hết sức kinh ngạc (...) Tôi xin đứng ra làm kẻ bênh vực cho người quá cố”. Nhân vật tôi trong Người con gái viên đại úy kể về chính mình và những việc mà bản thân chứng kiến: “Cha tôi là Anđrây Pêtơrôvích Grinhốp, thời còn trẻ đã từng tòng ngũ dưới quyền bá tước Miních và đến năm 17... thì về hưu với chức trung tá. (Những chữ in nghiêng trong các phần trích do người viết nhấn mạnh- HVL).

Những đóng góp của Puskin trong lĩnh vực văn xuôi vào những thập niên đầu của thế kỷ XIX là những cách tân quan trọng của nhà văn. Các nhà văn đương thời và các thế hệ sau tiếp tục khẳng định vị trí to lớn của văn xuôi trong tiến trình văn học Nga thế kỷ XIX với tên tuổi của Gôgôn, Turghênhiép, Đốtxtôiépxki, L. Tônxtôi, Chêkhốp...

Nhà văn Gôgôn cho rằng trong văn xuôi Puskin “thiên nhiên Nga, tâm hồn Nga, ngôn ngữ Nga, tính cách Nga được phản ánh qua sự trong sáng, qua vẻ đẹp tinh khiết như một bức tranh sơn thủy được phản chiếu trên bề mặt lồi của ống kính quang học”. Puskin là một hiện tượng “vĩnh viễn sống”.

Huế, tháng 5/ 1999
HVL
(124/06-99)

-----------------------------------------------------------------
(1). M. Gorki: Bàn về văn học, NXB Văn học H. 1970, T 1 trang 179- 180.
(2). Dẫn theo Lịch sử Văn học Nga (Nhiều tác giả), NXB Giáo Dục, H. 1977 trang 8.
(3). Alếchxanđrơ Puskin: Tuyển tập văn xuôi, NXB Cầu Vồng, M. 1985, trang 73.
(4). Alếchxanđrơ Puskin: Sách đã dẫn, trang 80.
(5). Alếchxanđrơ Puskin: Sách đã dẫn, trang 123.




Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LÊ DỤC TÚCùng với nghệ thuật tiếp cận và phản ánh hiện thực, nghệ thuật miêu tả và khắc họa chân dung nhân vật, nghệ thuật châm biếm và sử dụng ngôn ngữ cũng là một trong những nét nghệ thuật đặc sắc ta thường gặp trong các phóng sự Việt Nam 1932 - 1945.

  • NGUYỄN VĂN DÂNTrong thế kỷ XX vừa qua, thế giới, đặc biệt là thế giới phương Tây, đã sản sinh ra biết bao phương pháp phục vụ cho nghiên cứu văn học, trong đó phương pháp cấu trúc là một trong những phương pháp được quan tâm nhiều nhất.

  • AN KHÁNHHai mươi tám năm kể từ ngày chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, đủ để một thế hệ trưởng thành, một dòng thơ định vị. Tháng 3 vừa qua, Hội Văn nghệ Hà Nội và nhóm nhà thơ - nhà văn - cựu binh Mỹ có cuộc giao lưu thú vị, nhằm tìm ra tiếng nói "tương đồng", sự thân ái giữa các thế hệ Mỹ - Việt thông qua những thông điệp của văn chương.

  • TRẦN ĐÌNH SỬ Bạn đọc Việt Nam vốn không xa lạ với phê bình phân tâm học hơn nửa thế kỷ nay, bởi nó đã bắt đầu được giới thiệu vào nước ta từ những năm ba mươi, bốn mươi thế kỷ trước. Nhưng đáng tiếc nó đã bị kỳ thị rất nặng nề từ nhiều phía. Giống như nhân loại có thời phản ứng với Darwin vì không chấp nhận lý thuyết xem con người là một loài cao quý lại có thể tiến hóa từ một loài tầm thường như loài khỉ, người ta cũng không thể chấp nhận lý thuyết phân tâm học xem con người - một sinh vật có lý trí cao quý lại có thể bị sai khiến bởi bản năng tầm thường như các loài vật hạ đẳng!

  • PHẠM ĐÌNH ÂN(Nhân kỷ niệm lần thứ 20 ngày mất của Thế Lữ 3-6-1989 – 3-6-2009)Nói đến Thế Lữ, trước tiên là nói đến một nhà thơ tài danh, người góp phần lớn mở đầu phong trào Thơ Mới (1932-1945), cũng là nhà thơ tiêu biểu nhất của Thơ Mới buổi đầu. Ông còn là cây bút văn xuôi nghệ thuật tài hoa, là nhà báo, dịch giả và nổi bật là nhà hoạt động sân khấu xuất sắc, cụ thể là đưa nghệ thuật biểu diễn kịch nói nước nhà trở thành chuyên nghiệp theo hướng hiện đại hóa.

  • THÁI DOÃN HIỂUPhàm trần chưa rõ vàng thauChân tâm chẳng biết ở đâu mà tìm.                                VẠN HẠNH Thiền sư

  • HỒ THẾ HÀ  Thi ca là một loại hình nghệ thuật ngôn từ đặc biệt. Nó là điển hình của cảm xúc và tâm trạng được chứa đựng bởi một hình thức - “hình thức mang tính quan niệm” cũng rất đặc biệt. Sự “quái đản” trong sử dụng ngôn từ; sự chuyển nghĩa, tạo sinh nghĩa trong việc sử dụng các biện pháp tu từ; sự trừu tượng hoá, khái quát hoá các trạng thái tình cảm, hiện thực và khát vọng sống của con người; sự hữu hình hoá hoặc vô hình hoá các cảm xúc, đối tượng; sự âm thanh hoá theo quy luật của khoa phát âm thực nghiệm học (phonétique  expérimentale)...đã làm cho thi ca có sức quyến rũ bội phần (multiple) so với các thể loại nghệ thuật ngôn từ khác.

  • LÊ XUÂN LÍTHỏi: Mã Giám Sinh sau khi mua được Kiều, Mã phải đưa Kiều đi ròng rã một tháng tròn mới đến Lâm Tri, nơi Tú Bà đang chờ đợi. Trên đường, Mã đâm thèm muốn chuyện “nước trước bẻ hoa”. Hắn nghĩ ra đủ mưu mẹo, lí lẽ và hắn đâm liều, Nguyễn Du viết:              Đào tiên đã bén tay phàm              Thì vin cành quít, cho cam sự đờiĐào tiên ở đây là quả cây đào. Sao câu dưới lại vin cành quít? Nguyễn Du có lẩm cẩm không?

  • CHU ĐÌNH KIÊN1. Có những tác phẩm người đọc phải thực sự “vật lộn” trên từng trang giấy, mới có thể hiểu được nhà văn muốn nói điều gì. Đó là hiện tượng “Những kẻ thiện tâm” (Les Bienveillantes) của Jonathan Littell. Một “cas” được xem là quá khó đọc. Tác phẩm đã đạt hai giải thưởng danh giá của nước Pháp là: giải Goncourt và giải thưởng của Viện hàn lâm Pháp.

  • PHONG LÊSinh năm 1893, Ngô Tất Tố rõ ràng là bậc tiền bối của số rất lớn, nếu không nói là tất cả những người làm nên diện mạo hiện đại của văn học Việt Nam thời 1932-1945. Tất cả - gồm những gương mặt tiêu biểu trong phong trào Thơ mới, Tự Lực văn đoàn và trào lưu hiện thực đều ra đời sau ông từ 10 đến 20 năm, thậm chí ngót 30 năm.

  • HẢI TRUNGHiện tượng ngôn ngữ lai tạp hay gọi nôm na là tiếng bồi, tiếng lơ lớ (Pidgins và Creoles) được ngành ngôn ngữ học đề cập đến với những đặc trưng gắn liền với xã hội. Nguồn gốc ra đời của loại hình ngôn ngữ này có nhiều nét khác biệt so với ngôn ngữ nói chung. Đây không chỉ là một hiện tượng cá thể của một cộng đồng ngôn ngữ nào, mà nó có thể phát sinh gắn liền với những diễn biến, những thay đổi, sự phát triển của lịch sử, xã hội của nhiều dân tộc, nhiều quốc gia khác nhau.

  • BÙI NGỌC TẤN... Đã bao nhiêu cuộc hội thảo, bao nhiêu cuộc tổng kết, bao nhiêu cuộc thi cùng với bao nhiêu giải thưởng, văn chương của chúng ta, đặc biệt là tiểu thuyết vẫn chẳng tiến lên. Rất nhiều tiền của bỏ ra, rất nhiều trí tuệ công sức đã được đầu tư để rồi không đạt được điều mong muốn. Không có được những sáng tác hay, những tác phẩm chịu được thử thách của thời gian. Sự thất thu này đều đã được tiêu liệu.

  • NGUYỄN HUỆ CHICao Bá Quát là một tài thơ trác việt ở nửa đầu thế kỷ XIX. Thơ ông có những cách tân nghệ thuật táo bạo, không còn là loại thơ “kỷ sự” của thế kỷ XVIII mà đã chuyển sang một giọng điệu mới, kết hợp tự sự với độc thoại, cho nên lời thơ hàm súc, đa nghĩa, và mạch thơ hướng tới những đề tài có ý nghĩa xã hội sâu rộng.

  • NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNĐã nhiều sử liệu viết về cuộc xử án vua Duy Tân và các lãnh tụ khởi xướng cuộc khởi nghĩa bất thành tháng 5-1916, mà trong đó hai chí sĩ Thái Phiên - Trần Cao Vân là hai vị đứng đầu. Tất cả các sử liệu đều cho rằng, việc hành hình đối với Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu diễn ra vào sáng ngày 17-5-1916. Ngay cả trong họ tộc hai nhà chí sĩ, việc ghi nhớ để cúng kỵ, hoặc tổ chức kỷ niệm cũng được tính theo ngày như thế.

  • PHONG LÊBây giờ, sau 60 năm - với bao là biến động, phát triển theo gia tốc lớn của lịch sử trong thế kỷ XX - từ một nước còn bị nô lệ, rên xiết dưới hai tầng xiềng xích Pháp-Nhật đã vùng dậy làm một cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại, rồi tiến hành hai cuộc kháng chiến trong suốt 30 năm, đi tới thống nhất và phát triển đất nước theo định hướng mới của chủ nghĩa xã hội, và đang triển khai một cuộc hội nhập lớn với nhân loại; - bây giờ, sau bao biến thiên ấy mà nhìn lại Đề cương về văn hoá Việt Nam năm 1943(1), quả không khó khăn, thậm chí là dễ thấy những mặt bất cập của Đề cương... trong nhìn nhận và đánh giá lịch sử dân tộc và văn hoá dân tộc, từ quá khứ đến hiện tại (ở thời điểm 1943); và nhìn rộng ra thế giới, trong cục diện sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại; và gắn với nó, văn hoá, văn chương - học thuật cũng đang chuyển sang giai đoạn Hiện đại và Hậu hiện đại...

  • TƯƠNG LAITrung thực là phẩm chất hàng đầu của một người dám tự nhận mình là nhà khoa học. Mà thật ra, đâu chỉ nhà khoa học mới cần đến phẩm chất ấy, nhà chính trị, nhà kinh tế, nhà văn hoá... và bất cứ là "nhà" gì đi chăng nữa, trước hết phải là một con người biết tự trọng để không làm những việc khuất tất, không nói dối để cho mình phải hổ thẹn với chính mình. Đấy là trường hợp được vận dụng cho những người chưa bị đứt "dây thần kinh xấu hổ", chứ khi đã đứt mất cái đó rồi, thì sự cắn rứt lương tâm cũng không còn, lấy đâu ra sự tự phản tỉnh để mà còn biết xấu hổ. Mà trò đời, "đã trót thì phải trét", đã nói dối thì rồi cứ phải nói dối quanh, vì "dại rồi còn biết khôn làm sao đây".

  • MÃ GIANG LÂNVăn học tồn tại được nhiều khi phụ thuộc vào độc giả. Độc giả tiếp nhận tác phẩm như thế nào? Tiếp nhận và truyền đạt cho người khác. Có khi tiếp nhận rồi nhưng lại rất khó truyền đạt. Trường hợp này thường diễn ra với tác phẩm thơ. Thực ra tiếp nhận là một quá trình. Mỗi lần đọc là một lần tiếp nhận, phát hiện.

  • HÀ VĂN LƯỠNGTrong dòng chảy của văn học Nga thế kỷ XX, bộ phận văn học Nga ở hải ngoại chiếm một vị trí nhất định, tạo nên sự thống nhất, đa dạng của thế kỷ văn học này (bao gồm các mảng: văn học đầu thế kỷ, văn học thời kỳ Xô Viết, văn học Nga ở hải ngoại và văn học Nga hậu Xô Viết). Nhưng việc nhận chân những giá trị của mảng văn học này với tư cách là một bộ phận của văn học Nga thế kỷ XX thì dường như diễn ra quá chậm (mãi đến những thập niên 70, 80 trở đi của thế kỷ XX) và phức tạp, thậm chí có ý kiến đối lập nhau.

  • TRẦN THANH MẠILTS: Nhà văn Trần Thanh Mại (1908-1965) là người con xứ Huế. Tên ông đã được đặt cho một con đường ở đây và một con đường ở thành phố Hồ Chí Minh. Trần Thanh Mại toàn tập (ba tập) cũng đã được Nhà xuất bản Văn học phát hành năm 2004.Vừa rồi, nhà văn Hồng Diệu, trong dịp vào thành phố Hồ Chí Minh dự lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Trần Thanh Mại, đã tìm thấy trang di cảo lưu tại gia đình. Bài nghiên cứu dưới đây, do chính nhà văn Trần Thanh Mại viết tay, có nhiều chỗ cắt dán, thêm bớt, hoặc mờ. Nhà văn Hồng Diệu đã khôi phục lại bài viết, và gửi cho Sông Hương. Chúng tôi xin cám ơn nhà văn Hồng Diệu và trân trọng giới thiệu bài này cùng bạn đọc.S.H

  • TRẦN HUYỀN SÂMLý luận văn học và phê bình văn học là những khái niệm đã được xác định. Đó là hai thuật ngữ chỉ hai phân môn trong Khoa nghiên cứu văn học. Mỗi khi khái niệm đã được xác định, tức là chúng đã có đặc trưng riêng, phạm trù riêng. Và vì thế, mục đích và ý nghĩa của nó cũng rất riêng.