Những đồ nghệ thuật giả

09:04 10/11/2009
NGUYỄN HÀO HẢITrong lịch sử, việc làm những đồ nghệ thuật giả chỉ bắt đầu xuất hiện ở những xã hội có đời sống kinh tế, đời sống văn hóa tinh thần khá phát triển.

Mốc đáng chú ý sự phát triển công việc làm đồ nghệ thuật giả là vào thời kỳ Phục hưng, khi những nghệ sĩ tìm thấy tấm gương lý tưởng nghệ thuật của mình ở những nền văn minh cổ và điểm ngời sáng nhất là nền văn hóa La Mã và Hy Lạp. Những nhà quý tộc, tư sản, những người giàu có yêu nghệ thuật, cũng bị dẫn dắt theo xu hướng ấy - tức thì hiếu thích nghệ thuật cổ bắt đầu phát triển. Vào thời kỳ này người ta thấy những tác phẩm điêu khắc cổ của La Mã, Hy Lạp trong những cửa hiệu bán đồ nghệ thuật ở các nước châu Âu, có cả những đồ giả. Một số người yêu thích nghệ thuật, mặc dù biết vậy, nhưng không có được bản chính cũng bằng lòng với một bản sao. Chính vì thế, Ghiberti đã nổi tiếng trong việc làm những huy chương giả. Có lẽ Michel-Ange đã bắt đầu con đường công danh của mình bằng việc sao một hệ thống động vật cổ La Mã. Và việc ông tạc bức tượng thần Cupidon đang ngủ, rồi được đem đi chôn bí mật, và lại được tổ chức một cuộc đào bới khá hồi hộp, long trọng, cuối cùng đã bán với giá 200 đồng Ducats vàng Venise cho Đức giáo hoàng Giorgio đã trở thành một vụ làm đồ giả nghệ thuật nổi tiếng đầu tiên trong lịch sử nghệ thuật.

Đến thế kỷ XVII, ngoài những đồ mỹ nghệ, tượng cổ các loại được làm giả, người ta đã thấy xuất hiện những tác phẩm hội họa giả. Công việc làm đồ nghệ thuật giả, đặc biệt là tranh giả khá trôi chảy và thuận lợi, vì sự buôn bán những đồ nghệ  thuật chủ yếu là do những nghệ sĩ quản lý. Thí dụ như Pietro Vecchia ở Venise chuyên về những tranh của Giorzione và Titien. Còn Sébastien Bourdon lại chuyên trách những tranh của Poussin ở Roma v.v... Những ông chủ này thường kiêm nhiệm nhiều công việc là nhà buôn, nhà phục chế và có khi cả là giám định viên nghệ thuật nữa. Thời kỳ này tranh của Raphael được làm nhiều nhất. Và Terenzio đa Urbino là người nổi tiếng nhất làm những tranh giả của Raphael.

Thế kỷ XVIII, ngành khai quật tìm kiếm những di tích nghệ thuật cổ đã có thêm nhiều kinh nghiệm, và được phát triển đáng kể. Sự kiện khám phá ra thành cổ Pompei, Herculanum đã làm cho nhiều người lóa mắt. Do tình trạng "Mật ít ruồi nhiều", "Cầu lớn hơn cung", nên nghề làm giả những đồ nghệ thuật có cơ hội phát triển thêm một bước nhằm đáp ứng những nguyện vọng, những sự say mê của những ai có thị hiếu này.

Nhưng chỉ đến thế kỷ thứ XIX và nhất là thế kỷ XX công việc làm những đồ nghệ thuật giả mới chính thức  trở thành một nghề thực sự của một số người. Đủ các loại đồ nghệ thuật làm giả: Những đồ vật thời tiền sử, những đồ bằng ngà thời Trung cổ, những tượng nhỏ Tanagra, tranh của các họa sĩ nguyên thủy Ý, Đức, đồ đạc, tranh tượng thời kỳ Phục hưng, và những thế kỷ tiếp sau đó, và cuối cùng cả những tác phẩm nghệ thuật đương thời có giá trị. Việc làm các đồ giả nghệ thuật ở một số người đã đạt tới trình độ cao về kỹ năng, tay nghề và đã tận dụng những kỹ thuật hiện đại để làm ra những cái cổ, cũ trong quá khứ. Việc đạt được nghệ thuật tinh vi, điêu luyện trong việc làm các đồ nghệ thuật giả đôi khi cũng đã làm cho ngay cả những chuyên gia, những giám định viên nghệ thuật cao cường, cũng như những người sành sỏi chơi nghệ thuật bị mắc lừa. Có thể kể vài ví dụ: Quách quan tài xứ Etrurie (Ý) do Viện Bảo tàng Anh mua năm 1873 mãi đến năm 1936 mới phát hiện được là đồ giả và phải loại bỏ. Tranh "Đức mẹ khiêm nhường" thuộc Bảo tàng Anh mua năm 1873 mãi đến năm 1936 mới phát hiện được là đồ giả và phải loại bỏ. Tranh "Đức mẹ khiêm nhường" thuộc Bảo tàng quốc gia Washington tưởng rằng của Masaccio, sau mới phát hiện ra đó là tác phẩm phục chế của ba anh em người Áo. Vương miện ba vòng độc đáo bằng vàng của Saitapharne, vua của dân tộc Scythes (Nga), trong một thời gian dài đã là niềm tự hào của Viện bảo tàng Louvre mua từ 1896, mãi sau này mới phát hiện đó là đồ giả do một người ở Crimel dựa vào một quyển sách về những đồ nghệ thuật cổ Nga phục chế ra. Gần đây nhất, bức tranh "Lễ truyền tin" của Dieric Bouts do viện bảo tàng Getty mua năm 1985 với một giá tiền khá cao cũng có khả năng là một đồ giả thực sự, người ta chỉ còn hy vọng vào sự khẳng định mong manh của những giám định viên ở bảo tàng Californie cho rằng: có thể là tranh thật nhưng bị phục chế qua nhiều và rất tùy tiện.

Trong những vụ làm tranh giả, có lẽ vụ Van Meegren là một trong những vụ nổi tiếng nhất và gây ra nhiều ý kiến tranh luận khác nhau. Van Meegren là một anh chàng họa sĩ trẻ không tên tuổi người Hà Lan. Trong thời Đức chiếm đóng, người ta đã phát hiện anh đã bán những bức tranh quí của họa sĩ Hà Lan bậc thầy Vermeer cho một viên nguyên soái Đức quốc xã và một vài sĩ quan Đức khác.Sau khi Berlin sụp đổ, ngày 25-5-1945 anh đã bị nhà tù Amsterđam vì tội đã đem bán những bảo vật văn hóa của Tổ quốc cho kẻ thù. Khi được hỏi cung, anh đã cực lực phản bác lời buộc tội đó, và còn cho rằng chính anh mới là người có tinh thần quốc gia, tinh thần yêu nước hơn nhiều công dân khác với lý do: Những tranh anh bán toàn là tranh giả. Anh đã đánh lừa được bọn phát xít. Những nhà chức trách cho anh là kẻ bịa đặt, vì những giám định viên nghệ thuật đã khẳng định những bức tranh anh bán đi hoàn toàn là những tranh đích thực của Vermeer. Người ta không còn chịu nổi sự khoác lác của anh, và những giám định viên nghệ thuật cảm thấy như bị xúc phạm, khi anh nói mạnh rằng: không chỉ những tranh đó là tranh giả, mà còn do tự tay anh làm ra chúng. Anh đề nghị cho được chứng minh, và cuối cùng lời đề nghị của anh đã được chấp nhận. Van Meegren đã vẽ lại bức "Chúa Giêxu giữa những nhà giảng đạo lý" dưới sự giám sát của cảnh sát, cai ngục và những chuyên gia, giám định viên nghệ thuật. Và tất cả mọi người đều sửng sốt trước tài nghệ của anh ta: đúng là một tác phẩm nổi tiếng của Vermeer đang hiện nguyên hình!

Khi được hỏi, tại sao anh lại làm như vậy, anh ta giải thích rằng để trả thù việc câu lạc bộ nghệ thuật thành phố La Haye nơi anh sinh sống và sáng tác đã không thừa nhận tài năng hội họa của anh. Van Meegren bị kết án một năm tù, nhưng vì liên quan đến nhiều việc phức tạp, vụ án đã kéo dài suốt 10 năm, và anh ta đã chết trong một cơn đau tim và rối loại tinh thần nặng.

Ở Việt Nam, việc làm giả những đồ nghệ thuật có lẽ chỉ thực sự bắt đầu được chú ý đến từ khoảng trên dưới một chục năm trở lại đây, khi việc giao lưu với nước ngoài trên nhiều lĩnh vực được dần dần mở rộng.

Người ta mới chỉ thấy một số đồ chạm khắc, đồ đúc bằng các chất liệu đá, gỗ, đồng và một số hợp kim khác, và đôi khi thấy cả đồ gốm làm giả. Thí dụ: về chất liệu đá: các loại tượng cổ nhỏ Cămpuchia, các nghiên mực, những con rồng, ấn, con dấu v.v... Về chất liệu đồng: Tiền cổ, các tượng với những đề tài cổ, các loại lư, đỉnh v.v...

Chất liệu gỗ: những đồ dùng chạm, khắc gia cố,đặc biệt tượng Bouddha các loại, làm theo nghệ thuật sơn son, thiếp vàng xưa (đồ Bois doré). Chất liệu gốm: một vài đồ gốm thời Lý Trần (chân đèn, bát...), Trình độ làm giả cũng đã khá tinh vi, có thể đánh lừa được một số những người châu Âu ít có kinh nghiệm và ít am hiểu về nghệ thuật Á-Đông, và đôi khi cả một vài ông chủ các Galerie, những nhà sưu tầm châu Á kiến thức còn chưa được sâu sắc trong lĩnh vực những đồ nghệ thuật cổ, gần đây cũng đã bắt đầu thấy xuất hiện những tranh giả của các họa sĩ bậc thầy đương thời nhất là các họa sĩ đã quá cố.

Có thể chia các loại đồ giả nghệ thuật làm ba loại:

1)- Loại các tác phẩm phỏng theo (loại này ý thức làm giả, bắt chước, với dụng ý về nghệ thuật hơn là dụng ý về kinh tế).

2- Loại giả một nửa: Những đồ nghệ thuật thật sự, nhưng do những điều kiện, hoàn cảnh khác nhau bị mất mát, bị hỏng những bộ phận, những phần đáng kể, được phục chế lại, làm thêm lại: các tượng bị mất tay, chân, gãy đầu, mất một nửa thân... các đồ nghệ thuật bị khuyết, bị tật nặng... hoặc những tác phẩm của những bậc thầy làm dở dang, những người về sau làm tiếp để hoàn thành, tất cả những đồ như vậy được người ta làm lại và đem bán đi như là những đồ nghệ thuật đích thực hoàn hảo 100%. Ở mạn Hòa Bình, Sơn Tây, một dạo dân chúng đào bới được rất nhiều đồ gốm thời Lý, Trần... trong đó có nhiều đồ quí đẹp, nhưng do bị chôn vùi trong lòng đất lâu, men bị thối, hỏng. Có người đã tạo ra được loại men (về hình thức) khá giống men Lý, Trần và lấy những cốt còn lành lặn với những đường nét hoa văn chìm đẹp của những đồ này, tráng loại men mới đó vào để làm giả những đồ quí xưa vẫn còn chu viên lành lặn - những loại đồ này cũng được coi như loại giả một nửa.

3- Loại hoàn toàn làm giả: Dựa trên những bản chính, bản gốc để làm ra một bản mới, thay thế, làm giả mạo những bản kia. Có hai cách phát hiện ra những đồ nghệ thuật giả.

Cách thứ nhất nhờ vào kinh nghiệm, những con mắt tinh đời của những chuyên gia nghệ thuật, những giám định viên nghệ thuật những người chơi nghệ thuật sành sỏi lâu năm. Trong phần nhiều trường hợp chỉ cách này là đủ.

Cách thứ hai xử lý bằng kỹ thuật. Từ nhiều năm gần đây người ta đã tận dụng những thành quả, những phát minh của khoa học kỹ thuật hiện đại cho công việc phát hiện những đồ nghệ thuật giả. Thí dụ: trên cơ sở khoa thiết tự (graphologie) người ta đã sử dụng những tia cực tím, tia hồng ngoại, quang tuyến X chiếu qua chữ ký, trong phòng thí nghiệm, căn cứ qua những ánh sáng được phát lộ ra khi chiếu qua chữ ký, có thể biết được chữ ký nào là giả, chữ ký nào là thật, vì chữ ký ít nhiều đều biểu hiện tâm lý, thể chất, tính cách... ở những đường nét những cách thức tiến hành riêng, mà người ta làm giả không bắt chước được. Hoặc có thể căn cứ vào tuổi của màu sắc. Màu xanh lam chàm được phát minh muộn hơn các màu khác, khoảng năm 1630; hay căn cứ vào sự thay đổi hoa học trong thuốc trắng chì dưới tác động của thời gian, cũng tương tự căn cứ vào những chất bẩn trộn vào các sắc tố v.v... người ta có thể xác định được tuổi của một bức tranh cũ.

Trong khi những bức tranh giả mạo có thể phát hiện được một cách không khó khăn lắm, thì những đồ vật, những tác phẩm điêu khắc bằng đá, gỗ và các loại kim loại khác, không phải lúc nào cũng dễ dàng, nhất là những loại đá hoa không có tuổi, và những hợp kim dễ tái tạo lại. Sự lùi bước trước chân lý của nghệ thuật đôi khi không phụ thuộc vào đồ vật, tác phẩm mà chính vào con người. Vì những lý do kinh tế, ngay cả những chuyên gia, những giám định viên lão luyện, những nhà sành chơi nghệ thuật cũng có thể tự nguyện gắn cho mình những đôi mắt mù lòa.

N.H.H
(128/10-99)



 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN VĂN QUYẾNTrong quá trình đi điền dã thu thập tư liệu Hán Nôm ở huyện Phú Lộc Thừa Thiên Huế, chúng tôi đã được tiếp cận hai đạo sắc phong cho người có công trị thủy ở từ đường dòng họ Lê Kim, thôn Đông, làng Bàn Môn, xã Lộc An.

  • PHAN THANH HẢIDưới thời quân chủ, hầu như ở tất cả các nước phương Đông đều có tục tế giao. Tế giao tức là tổ chức nghi lễ cúng để con người có thể giao tiếp được với trời, đất và các bậc thần linh.

  • LÊ NGUYỄN LƯUI. QUAN NIỆM VỀ SỐNG CHẾT

  • HUỲNH ĐÌNH KẾT

    Di tích cảnh quan Huế là một bộ phận cấu thành diện mạo văn hoá Huế. Ngày nay, di tích cảnh quan được quan niệm là loại hình văn hoá vật thể (Tangible culture) trong hàm nghĩa phân biệt với văn hoá phi vật thể (Intangible culture). Dẫu sao cũng chỉ tương đối.

  • LIỄU THƯỢNG VĂNCố đô Huế, một trong những trung tâm văn hoá, lịch sử của Việt Nam. Không những thế, Huế còn là một tổng thể di tích quan trọng, sánh hàng kì quan trên thế giới. Cố đô thơ mộng mang đầy tính nghệ thuật lẫn với cái nét sâu thẳm, ẩn bóng của học thuật Đông phương và truyền thống dân tộc…

  • NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNChuyện xưaGiờ đây, những vị tham gia biên dịch Mục lục Châu bản Triều Nguyễn (MLCBTN) trong Uỷ ban phiên dịch sử liệu Việt Nam thuộc Viện Đại học Huế những năm sáu mươi của thế kỷ trước, đã lần lượt quy tiên. Chỉ còn lại một người cuối cùng đang dưỡng lão trong một ngôi nhà khá yên tĩnh dưới bóng những lùm cây sớm chiều toả mát trong một xóm ven sông Cẩm Lệ, thuộc huyện Hoà Vang, ngoại ô Đà Nẵng. Đó là bác Ngô Văn Lại, năm nay ngoài tuổi bảy mươi.

  • NGUYỄN HỮU THÔNGCó những câu hỏi đặt ra, Huế mãi không có câu trả lời thuyết phục:* Tại sao mặt hàng lưu niệm trong thị trường du lịch, trong các lễ hội Festival là nghèo nàn đến thế! Sản phẩm thủ công Huế lác đác chen chúc khuất lấp trong lớp lớp hàng Trung Quốc và các tỉnh khác trong nước?* Tại sao trong quá trình trùng tu, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế lại phải mời thợ từ "Đàng Ngoài" trong nhiều khâu kỹ thuật từ sơn, thếp, mộc, làm ngói men, gạch bát tràng...?* Tại sao nhà phục chế Trịnh Bách lại phải sống ở Hà Nội, để gửi vào Huế những tấm long bào, long cổn, hia, mão và kể cả những phiên bản phục chế men lam thời Nguyễn?...

  • HOÀNG ĐẠO KÍNHVăn hoá xứ Huế là một hiện tượng: sinh sôi và thịnh vượng trong khoảng thời gian và không gian địa lý hạn hẹp. Cả hai nhân tố, vật thể lẫn phi vật thể, đều kịp đạt đến trình độ cao và thấm đậm những cái riêng, so với các thời kỳ lịch sử trước đó và so với các miền đất khác. Di sản văn hoá xứ Huế không chỉ phong phú, không chỉ đặc sắc, mà còn kiệt xuất, bởi nó sở hữu rất nhiều những cái duy nhất.

  • BEATRICE KALDUN         (Nhân viên chương trình Văn hoá của UNESCO tại Bangkok)Xin chào quý vị đại biểu!Hôm nay, tôi xin bày tỏ sự vui mừng khi có mặt tại đây, đại diện cho Ngài Richard Engelhardt, Cố vấn Văn hóa khu vực châu Á - Thái Bình Dương tham gia cuộc Hội thảo về vấn đề bảo tồn và phát triển hội nhập của Huế, một trong những di sản quý giá nhất của Việt Nam và Thế giới.

  • PHAN THUẬN ANSự quan hệ công tác giữa UNESCO với Việt Nam đã bắt đầu có từ hơn 50 năm về trước. Nhưng, sự hợp tác chặt chẽ để mang lại những hiệu quả thiết thực và hữu ích cụ thể thì chỉ mới diễn ra trong vòng vài chục năm trở lại đây. Ủy ban Quốc gia UNESCO Việt Nam và Bộ Văn hóa Thông tin nước chủ nhà đã đóng góp những vai trò xúc tác quan trọng trong mối quan hệ làm việc giữa tổ chức UNESCO đóng tại Paris và các quan chức Việt Nam ở những tỉnh có di sản văn hóa và di sản thiên nhiên nổi bật.

  • PHAN TIẾN DŨNGHuế một vùng non sông kỳ tú, với sự sáng tạo của con người đã lưu giữ trong lòng mình những tài sản vô cùng quý giá. Một trong những giá trị nổi bật mang tính toàn cầu là Quần thể Di tích Huế đã được công nhận vào Danh mục Di sản Văn hóa Thế giới (World Heritage List) ngày 11-12-1993. Bên cạnh đó, Huế còn là hội điểm về những di sản vật thể vừa phong phú vừa đa dạng. Từ mảnh đất này đã hình thành nên những phong cách, tạo nên nhiều loại hình nghệ thuật, đã sinh thành nhiều tài năng, đã hội tụ nhiều danh nhân để góp phần nên một Huế vừa mang đặc trưng bản sắc Việt Nam, vừa có sắc thái riêng của một vùng đất Cố đô.

  • NGUYỄN VĂN MỄ                    (Trích)Huế - thành phố lịch sử, một trung tâm văn hóa du lịch, là vùng đất có bề dày văn hóa với những tầng văn hóa khác nhau: di chỉ Khảo cổ học thời Tiền, Sơ sử; các dấu tích của văn hóa Sa Huỳnh; văn hóa Chămpa; văn hóa Đại Việt... và vô cùng quan trọng là hệ thống di tích Cố đô được xây dựng dưới vương triều Nguyễn.

  • LƯU TRẦN TIÊUHiếm có một miền đất nào mà ở đó những giá trị văn hóa lại đậm đặc, phong phú, đa dạng và đặc sắc như ở Huế. Từ góc nhìn địa - chính trị - văn hóa, xứ Huế xưa như là một vị trí chiến lược trọng yếu, vừa là cầu nối, vùng đất mở, vừa là nơi diễn ra sự chồng lấn, dung hợp, tiếp biến các vùng văn hóa, các dòng văn hóa để tạo dựng thành một trung tâm văn hóa trên cái nền chung của văn hóa Việt Nam, lóng lánh những nét riêng đặc sắc của mình.

  • NGUYỄN QUỐC HÙNGNăm nay, chúng ta kỷ niệm 10 năm Quần thể Di tích Kiến trúc Huế được ghi vào Danh mục Di sản Văn hóa Thế giới của UNESCO, 10 năm với rất nhiều thành tựu đổi thay. Nhớ lại chỉ sau 5 năm trở thành Di sản Văn hóa Thế giới, Tiến sĩ Richard Engelhardt chuyên gia về văn hóa khu vực châu Á - Thái Bình Dương của UNESCO đã mạnh dạn tuyên bố: “tình trạng cứu nguy khẩn cấp của khu di tích Huế đã qua đi” và “chúng ta chuyển từ giai đoạn khẩn cấp sang giai đoạn ổn định trong chiến dịch vận động bảo tồn di tích Huế”(1)

  • NGUYỄN KHOA ĐIỀMTrong các di sản văn hoá ở nước ta, Huế giữ một vị trí đặc biệt. Chính vì thế mà ngay sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, giữa bộn bề công việc, Đảng và Nhà nước ta vẫn dành cho di sản văn hoá Huế sự quan tâm thích đáng. Dù chưa tập hợp được hồ sơ đầy đủ, chưa có được nguồn kinh phí thoả đáng, nhưng từ năm 1979, Nhà nước ta đã có văn bản đặc cách quy định việc bảo vệ di tích thành nội Huế.

  • PHÙNG PHUCách đây vừa tròn 10 năm, ngày 11 tháng 12 năm 1993 đã đánh dấu một sự kiện quan trọng đối với Huế và với cả nền văn hóa lâu đời của dân tộc Việt Nam: Quần thể Di tích Cố đô Huế đã chính thức được UNESCO ghi tên vào danh mục Di sản Văn hoá Thế giới với dòng chữ “Ghi tên vào danh mục này là công nhận giá trị nổi bật toàn cầu của một tài sản văn hoá hoặc thiên nhiên để được bảo vệ vì lợi ích của nhân loại”. Lịch sử vùng đất Phú Xuân- Huế với Di sản Văn hóa Thế giới đầu tiên của Việt Nam mở ra một trang mới, giang rộng vòng tay đón bè bạn trong và ngoài nước đến tham quan, nghiên cứu và truyền đạt kinh nghiệm trong công việc bảo tồn và phát huy giá trị.

  • TRƯƠNG THỊ CÚCSau Hiệp định Paris năm 1973, Thành uỷ Huế chủ trương phải xây dựng thêm các tổ chức cách mạng biến tướng để tập hợp lực lượng trí thức, văn nghệ sĩ, sinh viên ở nội thành; tạo cho được những hoạt động công khai, hợp pháp nhằm thu hút quần chúng ở vùng địch tạm chiếm hướng đến mục tiêu đấu tranh giải phóng dân tộc, đòi dân sinh, dân chủ, tiến tới đòi thi hành Hiệp định Paris.

  • TRƯƠNG THỊ CÚCCách đây gần tròn 50 năm, từ Đại hội Anh hùng Chiến sĩ Thi đua lần thứ 3 năm 1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động chiến dịch “Vì miền Nam ruột thịt”. Thực hiện chủ trương nầy, năm 1957 Bộ Văn hoá và Thư viện Quốc gia Việt Nam đã chính thức chỉ đạo 26 thư viện các tỉnh và thành phố ở miền Bắc xây dựng trong lòng mỗi thư viện một “Thư viện Kết nghĩa” vì miền Nam ruột thịt theo quan hệ kết nghĩa giữa các tỉnh, thành Bắc-Nam.

  • PHAN THANH HẢISông Hương là báu vật mà trời đất đã ban tặng cho Huế. Đã tự bao giờ, sông Hương đã được xem là dòng sông của thi ca, nhạc họa, của kiến trúc, nghệ thuật xứ Huế. Đã có nhà văn từng thốt lên: “Nếu một ngày nào đó sông Hương đột nhiên biến mất, thì Huế có còn là Huế nữa không?!”...

  • BỬU ÝMột đất nước có lịch sử lâu đời hẳn nhiên thừa hưởng di sản phong phú và đủ loại.Trước hết, vấn đề di sản không nhất thiết đi đôi với Festival. Di sản có thể nằm  một cõi, mà Festival lại nằm một nơi. Cũng có thể phát huy riêng rẽ, phục vụ quần chúng khác nhau, nhưng cùng chung một trục văn hoá để cùng được bảo tồn và phát huy. Nhưng nếu di sản sánh đôi với Festival thì đó là một cuộc nên duyên như được dành sẵn.