Những Cuốn sách tôi đã đọc hồi còn bé [1]

09:02 04/10/2011
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGNhững cuốn sách đã giữ một vị trí đặc biệt trong thế giới tuổi thơ của tôi; trước hết là những sách giáo khoa tôi đã học trong những ngôi trường đầu tiên của đời mình, dưới thời Pháp thuộc.

Hoàng Phủ Ngọc Tường (trái) và Nguyễn Trọng Tạo năm 1986 - Ảnh: TL

Dù trong hoàn cảnh đất nước bị nô lệ, và dù những hạn chế hiển nhiên của chúng, tôi cho rằng những nhà sư phạm thời đó đã soạn ra những sách "giáo khoa thư" không đến nỗi tồi. Những bài vở trong đó thí dụ như "Ai bảo chăn trâu là khổ", như "Chốn quê hương đẹp hơn cả", từ bao giờ đã ràng buộc tâm hồn tôi với cái mảnh đất nguồn cội ấy của mỗi người Việt Nam, gọi là "làng", dù cho đến lúc đó, tôi chưa bao giờ nhìn thấy làng tôi cả. Cũng như thế, những bài khác đã dạy cho tôi, bằng một giọng mộc mạc nhưng gây ấn tượng mạnh về lòng biết ơn cha mẹ và thầy giáo, về tình bạn, v.v... Riêng bài ca dao "Con cò mà đi ăn đêm" thì ở mỗi độ tuổi của đời người tôi lại cảm nhận một cái hay riêng của nó, và cho đến bây giờ, tôi cảm thấy rằng tôi vẫn chưa đi thấu tận cùng vẻ đẹp của bài học thuộc lòng thuở nhỏ ấy. Đọc bài thơ "Quê Hương" của Giang Nam, tôi nhận ra rằng những trang sách thời thơ ấu xa xôi kia vẫn tiếp lục giữ sức nuôi dưỡng lâu dài của nó, để cuối cùng phát triển thành tình cảm lớn của nhà thơ. Nói điều này, tôi chỉ muốn lưu ý thêm một chút, về tầm quan trọng của việc chọn và soạn các sách giáo khoa dùng ở các trường phổ thông cơ sở, đặc biệt là cho học sinh cấp I. Bởi vì những cuốn sách "Tiếng Việt" đó, không phải chỉ là tập đọc, chính tả và ngữ pháp, mà còn đưa các em ngay từ phút đầu, tiếp cận với cái mà sau này chúng sẽ hiểu là "văn học". Cách đây ba năm, cháu bé của tôi vào lớp Một, và tôi thường giúp cháu trên cuốn sách học vần của cháu. Tôi nhớ có một bài học đại để như thế này: "Bé có ba vỏ hến, chú Tư cho Bé sáu vỏ hến, vậy Bé có chín vỏ hến". Bài học có tranh minh họa hẳn hoi, ôi, những chiếc vỏ hến! Tôi không hiểu chú Tư và những vỏ hến kia sẽ giúp ích gì cho tâm hồn của các cháu, trong khi một năm trước đó, ở mẫu giáo, các cháu đã biết dùng màu để vẽ những bông hoa. May mà những bài học vô lý kiểu ấy đã bị loại bỏ khỏi những sách giáo khoa mới. "Tôi đã học văn như thế nào?" Theo tôi, câu trả lời đúng cho mọi người sẽ là: "Tôi đã học văn trước tiên từ chính bài học chữ cái vỡ lòng của tôi".

Tuổi đọc sách của tôi bắt đầu vào những năm đầu kháng chiến chống Pháp. Gia đình tôi rời Huế về sống ở vùng kháng chiến, giữa một thung lũng yên tĩnh ở miền rừng núi tỉnh Quảng Trị cũ. Có người anh ở làng lên chơi, mang cho tôi mượn một chồng sách, thuộc tủ "Sách Hồng" và "Truyền Bá". Tôi vừa rời một ngôi trường Pháp, lần đầu tiên tôi thực sự tiếp xúc với văn học qua hai tủ sách thiếu nhi ấy; và tôi đã bị cuốn hút hoàn toàn vào thế giới tuổi thơ, mà tôi cảm thấy thực sự là thế giới của tôi. Tôi mê sách đến độ mỗi tháng một lần, tôi lại theo ba hoặc mẹ tôi về làng, đến nhà bác tôi để đổi lấy sách mới. Làng tôi ở vùng sâu gần thị xã: từ vùng tự do về, chúng tôi phải vượt đường quốc lộ vào ban đêm, phải mặc màu trắng để nằm lẫn vào những đụn cát mỗi khi gặp xe tuần tiểu của địch. Nhà bác tôi ở nông thôn, không hiểu sao lại nhiều sách đến thế, cơ man nào là sách thiếu nhi thành một kho dự trữ vô tận cung cấp món ăn tinh thần cho tôi suốt hơn ba năm tôi sống ở miền rừng hẻo lánh. Thường ngày khi nắng lên, tôi ôm một bó sách băng qua đồi, đến nơi đọc sách riêng của tôi: ấy là một khu mộ cổ im mát suốt ngày dưới bóng những cây cổ thụ, nằm giữa một cánh rừng sim muồng và trăm thứ quả dại đầy mật ngọt, tôi tha hồ ăn cho đến cuối mùa thu. Chính nơi cái "thư viện" hoang dã đó, tôi đã ngốn hầu hết các sách thiếu nhi xuất bản hồi tiền chiến, với những tác giả mà trong lặng lẽ, đã trở thành những bậc thầy của tâm hồn tôi: Xuân Diệu, Thâm Tâm, Thạch Lam, Tô Hoài, v. v... Ai đã đọc đều biết, toàn bộ hai tủ sách ấy đều gồm những phóng tác các truyện cổ dân gian, sự tích các anh hùng dân tộc kể theo dạng truyền thuyết, truyện loài vật và những câu chuyện đời có ngụ ý giáo dục. Tôi nhớ đặc điểm riêng của hai tủ sách đó: Sách Hồng thường tươi vui nhẹ nhàng, và sách Truyền Bá, in trên giấy gió, chứa đựng những tình đời, tình người hơi bùi ngùi nhưng bao giờ cũng đầy ưu ái, nhân hậu, làm tôi nhớ lâu. Trong số này, có hai tác phẩm đều là của Tô Hoài, có lẽ đã phát động ở nơi tôi những nét của tính cách lâu dài về sau: "Con chim gi sừng", đã đánh thức một lần và mãi mãi trong tôi nỗi ước mơ được đi khắp đất nước, và "Dế Mèn phiêu lưu ký" giúp tôi phát hiện tình bạn như một sức mạnh kỳ diệu của tâm hồn.

Do đọc nhiều, trí phán đoán từ lúc nào cũng đã hình thành trong tôi, đầu tiên là dưới dạng trực giác nhậy cảm. Truyện "Chú Bé Tý hon" của Pe-rôn [2] làm tôi thích thú về trí thông minh tuyệt vời của chú, nhưng tôi lại thấy ghê rợn khi nghĩ rằng ở đâu đó lại có những bố mẹ vì nghèo đói đã tìm mọi cách phĩnh con, đem thả chúng vào rừng để giành lấy phần ăn về mình. Còn cái ông Quách Cự người Tàu trong truyện Nhị Thập Tứ Hiếu - do mẹ tôi kể lại - thì cũng vì đói, đã đem chôn sống con để giành phần bánh nuôi mẹ; chuyện này cũng làm tôi vừa cảm động vừa ớn xương sống. Tôi liên hệ hai cảnh đói đó với hoàn cảnh trong truyện Dế Mèn: khi đói quá sắp chết thì Dế Dũi đã đưa càng cho Dế Mèn đề nghị bạn ăn lấy thịt mình để mà sống. Tôi nhận ra rằng chính Mèn và Dũi mới là nhân vật của tâm hồn tôi, đã làm tôi chảy nước mắt.

Trước khi tạm biệt khu rừng này, tôi muốn giới thiệu một nét riêng về nó, có liên quan đến câu chuyện tôi đang trình bày: đó là một vùng đồi và thung lũng đẹp nhất mà tôi đã từng sống, dù rằng sau này tôi đã có dịp trải qua gần mười năm sống với rừng núi thời chống Mỹ. Hồi chiến tranh đó, giặc Pháp ít khi càn lên vùng này, pháo và bom cũng hầu như không có, tuổi thơ của tôi cứ việc sa đà với thiên nhiên quanh tôi. Tôi gia nhập vào một cộng đồng xã hội mới là những bạn nhỏ chăn bò, mùa xuân đi bẫy chim, mùa hạ lang thang ăn trái chín trên đồi, mùa thu đặt lờ bắt cá dọc những con suối và mùa đông mang tơi lá đi hái nấm dưới những bụi cây muồng. Tôi không bao giờ quên được cái mặt hồ xanh biếc ấy trong thung lũng xóm Mộ, nơi tôi và lũ bạn ngồi lại nhóm lửa nướng ăn những vật nhỏ săn bẫy được, vừa ngắm bóng những đàn chim trời lặng lẽ bay qua mặt nước. Cũng không bao giờ tôi tìm thấy lại được ở bất cứ một nơi nào khác, những đêm trăng vằng vặc ấy, mấy chị em tôi nép mình sau những gốc sim mải mê ngồi xem đàn thỏ rừng nhảy múa dỡn trăng trên thảm cỏ bát ngát của cái vườn hoang nọ... Thiên nhiên trong cuộc vận động mùa màng kỳ ảo của nó đã in vào tâm hồn thơ bé của tôi một dấu ấn không bao giờ phai mờ; và sau này trở thành một tình cảm bầu bạn không thể thiếu được khi tôi suy nghĩ về một mảnh đất. Dù có một vài người nghĩ khác, tôi vẫn quả quyết rằng thói quen chăm chú theo dõi các cảnh tượng của tạo vật là một thái độ có ích đối với nhà văn, bởi vì thiên nhiên sẵn sàng mang đến vô vàn những thông tinh về cái đẹp của vũ trụ, và thẩm mỹ là một trong những chức năng của văn học. Nhưng không phải chỉ có cái đẹp ngoại vật, thiên nhiên là yếu tố thống nhất biện chứng với ý niệm về Tổ quốc, với tình yêu Tổ quốc, thiên nhiên chính là diện mạo sâu thẳm của Tổ quốc.

Cho phép tôi quay lại với câu chuyện về những cuốn sách của tôi.

Năm thứ ba của cuộc kháng chiến chống Pháp, tôi theo gia đình về sống ở làng quê, làng tôi bấy giờ đã trở thành khu hoạt động của du kích. Tôi trở lại tiếp tục việc học ở một ngôi trường đặt trong một cái đình làng cổ tại thị trấn Chợ Sãi; mỗi lần đi về, chúng tôi luôn luôn được các chú tự vệ hướng dẫn đúng vị trí an toàn để vượt qua cái hàng rào chiến đấu ngăn cách giữa làng tôi và khu vực địch kiểm soát. Tôi giữ mãi suốt đời hình ảnh người thầy giáo dạy tôi năm ấy, khuôn mặt vuông và gầy, da trắng xanh, giọng nói hết sức dịu dàng và cái nhìn thật buồn. Thường thầy tôi vẫn mang theo một em bé gái, để cho nó nói bi bô và chạy vòng quanh trong lớp. Đó là đứa con duy nhất còn lại của thầy tôi, vợ và các con khác của thầy đã bị giặc Pháp bắn chết trong một làng quê ở Vĩnh Linh. Tôi ngồi ở bàn đầu, ngay trước mặt của thầy; có hôm cả lớp đang cắm cúi làm toán, tôi chợt nghe mấy tiếng "tôc, tôc" rất khẽ. Tôi ngẩng lên nhìn: từ đôi mắt buồn bã của thầy tôi, những giọt nước mắt lăn tròn, rơi xuống quyển sổ gọi tên. Tôi hiểu, đó là vết thương chiến tranh đang chảy máu trong trái tim thầy. Từ đó, những ngày chủ nhật tôi thường lên nhà thầy để chơi đùa với em bé con thầy. Hôm ấy, thầy dúi vào tay tôi một cuốn sách nhỏ, và dặn: "Ở dưới ấy (ở làng tôi) hãy đọc cẩn thận, Tây nó nghi". Đó là cuốn "Thù nhà nợ nước" của nhà văn Lý Văn Sâm. Tôi mang về đọc luôn một hơi, hôm sau mang trả thầy tôi và xin mượn cuốn khác. Chẳng bao lâu, thầy tôi đã hết sách đề cho mượn. Thấy tôi quá ham đọc sách, thầy cho tôi tiền để tôi lên thị xã tự tìm mua lấy. Tôi dò theo bảng danh mục ghi các cuốn sách đã xuất bản và sách "đón đọc", tôi mua và đọc không sót cuốn nào của Nhà xuất bản Tân Việt Nam: Thù nhà nợ nước, Mười năm nuốt hận, Mây trôi về Bắc, Bên kia phòng tuyến Pháp, Mẹ cũng chết vì tổ quốc, Xin đắp mặt tôi mảnh lụa hồng... hầu hết đều là của Lý Văn Sâm. Tất cả tủ sách đó đều chỉ có một đề tài, về cuộc kháng chiến chống Nhật và chống Pháp ở Nam Bộ, không hiểu bằng cách nào vẫn xuất bản công khai đều đều ở Sài Gòn hồi đó. Lại giống như cảnh băng qua đường quốc lộ ban đêm mấy năm trước, bây giờ tôi lòn qua hàng rào chiến đấu, hoặc là chạy băng đồng qua những cuộc càn của Pháp, luôn luôn với những cuốn sách Lý Văn Sâm trong tay. Nhưng bây giờ tôi đã là độc giả của những cuốn sách thiếu nhi khác, trong đó tất cả nhân vật đều lao mình trong lửa khói của cuộc kháng chiến đang diễn ra quanh tôi hàng ngày. Rồi một buổi tối, một chú cán bộ vào nhà, gọi tôi giao nhiệm vụ: dùng bước chân để đo chiều dài, rộng của trụ sở quận lỵ Triệu Phong của địch. Tôi làm việc đó một cách dễ dàng, vẽ cả bản sơ đồ bố trí của địch quanh căn cứ và nộp cho chú chỉ nội trong tối hôm sau. Vâng, tôi là một độc giả đã trưởng thành.

Nhớ năm ấy ở trên rừng, nghe đài phát thanh giới thiệu Hội Văn nghệ Giải Phóng có tên nhà văn Lý Văn Sâm làm Tổng thư ký tôi đã kêu lên một tiếng vui mừng tưởng như gặp lại người cũ vừa thoát ly kháng chiến. Anh em quây lại yêu cầu tôi giới thiệu về nhà văn, và đều chưng hửng khi nghe tôi trả lời: "Tôi chưa hề biết nhà văn Lý Văn Sâm là ai cả, ngoài những cuốn sách thiếu nhi của ông tôi đã đọc cách đây hai mươi năm". (Nhân đây, tôi xin phép nói thêm một điều: với tư cách độc giả trung thành, tôi vẫn mong đợi một tuyển tập Lý Văn Sâm; lý do là văn học dành cho thiếu nhi về cuộc kháng chiến chống Pháp quả thật là hiếm hoi).

- "Tôi đã học văn như thế nào?". Thực tình là hồi ấy tôi chưa bao giờ có ý học để làm văn cả. Tôi chỉ đọc sách theo nỗi ham mê hồn nhiên, và may mắn thay tôi đã gặp được những cuốn sách tốt (dù chỉ là tốt ở một vài mặt nào đó đi nữa), theo tôi nghĩ. Những cuốn sách đó, phù hợp với trình độ tiếp thu của tôi ở từng lứa tuổi, đã nói với tôi một cách dịu dàng, về lòng nhân hậu biết yêu thương con người tình yêu lẽ phải, dần dần đi đến tình cảm yêu quý và kính trọng đối với Tổ quốc và nhân dân của của mình. Để trở thành nhà văn, tất nhiên là còn phải làm nhiều việc khác, phải được đào tạo ở nơi mà Mắcxim Goócki từng gọi là "trường đại học" của ông chính là thực tiễn CUỘC SỐNG, và còn phải lao động nghệ thuật, vân vân... Nhưng ở bất cứ nhà văn chân chính nào, tôi cũng đều nhìn thấy những nét lớn đó của nhân cách, là lý tưởng Tổ quốc và chủ nghĩa nhân đạo.

Và như vậy thì những cuốn sách tốt luôn luôn là ngọn gió góp lại từ bốn phương, để đem gieo vào tâm hồn người đọc trẻ tuổi của chúng những hạt giống quý không chờ đợi, những "mầm mống văn học". Hóa ra tôi chỉ nói chuyện về tuổi thiếu nhi thôi sao? Vâng, nhưng mà Lép Tôn-xtôi đã từng nói với sự cường điệu cố ý, rằng tất cả những tri thức thu thập được trong quãng đời về sau của ông thì chẳng có gì quan trọng hơn so với những gì ông đã hiểu biết được trong thời thơ ấu.

Huế tháng 11-1985
H.P.N.T
(17/2-86)


--------------------
(1) Trong loạt bài cộng tác của các nhà văn với Sở Giáo dục Nghĩa Bình dưới đề tài "Tôi đã học văn như thế nào?"
(2) Nhà văn viết truyện thiếu nhi Pháp (1628 - 1703)












Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN THỊ THANH NHỊ “Tôi bị thôi thúc bởi một thứ khao khát hiểu biết có liên quan đến những quan hệ giữa người với người hơn là với các đối tượng tự nhiên.”(Sigmun Freud)

  • TZVETAN TODOROV(Cuộc tranh luận văn học giữa George Sand và Gustave Flaubert - qua đánh giá của Tzvetan Todorov)

  • ĐỖ LAI THÚYCon gì sáng bốn chântrưa hai chântối bốn chân?Câu đố của Sphinx

  • HÀ VĂN LƯỠNG1. Trong hai thập niên cuối của thế kỷ XX và những năm đầu thế kỷ XXI, nước Nga đã có những biến đổi chính trị sâu sắc làm thay đổi đất nước trên nhiều phương diện: chính trị - xã hội, kinh tế, văn hoá, giáo dục và văn học nghệ thuật… Những nền tảng xã hội, những chuẩn mực đạo đức trước đây đã từng tồn tại trên bảy chục năm, được tiếp nối qua nhiều thế hệ đã thay đổi.

  • TRẦN QUỐC HỘIGenette coi thời gian là nhân tố trung chuyển cốt truyện đến truyện kể, qua hành vi kể chuyện. Ông đã sáng tạo ra mô hình xử lý thời gian rất thú vị, mô hình xử lý của ông xung quanh những vấn đề cơ bản như trình tự, tốc độ, tần suất kể chuyện.

  • HÀ VĂN THỊNH                                                  Luận điểm trung tâm của Tư tưởng Hồ Chí Minh là Độc lập dân tộc phải gắn liền với CNXH. Đó là quan điểm chiến lược có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ tiến trình Cách mạng Việt . Chính vì thế, nắm bắt một cách sâu sắc tinh thần biện chứng của chủ nghĩa Lê Nin để vận dụng thật sáng tạo kinh nghiệm của Cách mạng tháng Mười (CMT10) vào hoàn cảnh cụ thể của Cách mạng Việt Nam (CMVN) là mục đích xuyên suốt của Tinh thần và Tư tưởng Hồ Chí Minh.

  • HOÀNG NGỌC HIẾNĐây là hai vấn đề tôi tâm đắc nhất trong nhiều vấn đề lý thú được nêu lên trong  tác phẩm của André Chieng (1).

  • HOÀNG NGỌC HIẾN(tiếp theo và hết)Trong tập chuyên luận của A.Cheng, tìm hiểu những nguyên nhân tư tưởng tạo ra thần tích kinh tế Trung Hoa trong 3 thập kỷ qua, từ chương này sang chương khác, tác giả nhấn mạnh những nét đặc sắc của văn hoá Trung Hoa:...

  • NGUYỄN HỮU QUÝ1. Einarokland, nhà thơ Na Uy đã phát biểu tại hội thảo Thơ và toàn cầu hóa, tổ chức ở Vácsava tháng 10 năm 2001 rằng: “Con người, còn ngôn ngữ thì còn thi ca. Thi ca biết tự lo toan cho bản thân mình”.

  • BẢO NHÂNỞ nước ta, Huế được xem là kinh đô của Phật giáo, không phải bởi vì ở đây có nhiều chùa tháp, đông đảo tín đồ theo Phật hay từng có một thời là cái rốn của Phật giáo Việt , biệt xuất nhiều bậc cao tăng đương đại. Theo chúng tôi, nói như nhà viết kí Hoàng Phủ Ngọc Tường, bởi vì tính cách Huế, không phải Nho, mà chính là Thiền.

  • ĐỖ LAI THÚY(Tiếp theo Sông Hương 11/2007)Tiếng nói của tình yêu đồng giới, của dục cảm đồng giới không chỉ bằng ngôn ngữ của hữu thức, trực tiếp, mà chủ yếu còn bằng ngôn ngữ của vô thức, hàm ẩn.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆPNhững ai gần Trương Đăng Dung, thường nghe anh nói nhiều về các loại giới hạn: giới hạn của đời, sự phi lý của cõi nhân sinh, sự cản trở của những tín điều xưa cũ...

  • TƯỞNG THUẬT TRÁC Có phải hiện nay văn học đang đối mặt với thời đại tiêu dùng hay không? Nhiều người còn hoài nghi vấn đề này. Thậm chí có người còn phủ định sự có mặt của thời đại tiêu dùng trong khi miền Đông và miền Tây Trung Quốc đang có sự không cân bằng và tất cả đều đang xây dựng một xã hội khá giả.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHKhông Lộ là một vị thiền sư thời Lý, ông họ Dương, quê ở Hải Thanh, chùa Nghiêm Quang - nay là chùa Keo, thuộc xã Vũ Nghĩa, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình; dòng dõi nhiều đời làm nghề chài lưới, sau bỏ nghiệp sông nước, xuất gia tu Phật, thường trì tụng Đà-la-ni.

  • THÁI DOÃN HIỂUNguyễn Khắc Thạch làm thơ như đi chân trần trên lưỡi dao bén của sự thật, máu toé vãi ra. Anh lấy dự cảm của mình làm thuốc băng bó. Vết thương thành sẹo. Thạch gọi đấy là thơ! “Thơ là sẹo của sự thật”.

  • TÂM VĂNNgười xưa có câu: “Tòng thiện bất túc dĩ vi chính” (Chỉ theo điều thiện thì không đủ để làm chính trị). Câu nói đó xem ra rất đúng với Tào Tháo.

  • LƯU KHÁNH THƠ1. Nam Trân trong dòng thơ tả chân của phong trào thơ mớiHoài Thanh đã dùng khái niệm tả chân để định danh một nhóm các tác giả Thơ mới tương đối gần nhau về bút pháp.

  • NGUYỄN DƯƠNG CÔN(Trao đổi về tiểu luận Văn học như là tư duy về cái khả nhiên của Trần Đình Sử, Văn Nghệ số 24 ngày16/6/2007)

  • VĂN TÂMXứ Huế – Thừa Thiên có một vị lão thành cách mạng được nhiều người biết tên tuổi. Đó là cụ Nguyễn Vạn, tức Lê Bốn; tên khai sinh là Phùng Lưu – "thầy Lưu", sinh năm 1916, quê ở làng Thanh Thủy Thượng (nay thuộc xã Thủy Dương), huyện Hương Thủy.

  • NGUYỄN BÙI VỢI"Chống tham ô lãng phí" là một bài thơ về đề tài chính trị xã hội, một vấn đề bức xúc của cuộc sống. Nó được viết ra năm 1956 khi miền Bắc sau chín năm kháng chiến chống Pháp gian khổ đang hàn gắn vết thương chiến tranh, khai hoang, phục hoá, tìm công ăn việc làm...