Những chí sĩ tham gia Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa: Linh mục Phạm Bá Trực - 'một nhà tận tụy ái quốc'

14:46 09/09/2015

Đó là đánh giá của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong điếu văn linh mục Phạm Bá Trực.

Linh mục Phạm Bá Trực tại Đại hội thống nhất Mặt trận Việt Minh - Liên Việt (3.1951) - Ảnh: Tư liệu


“Đứng trước Chúa, không có sự phân biệt màu da”

“Thế còn linh mục Phạm Bá Trực?” - thủ đô Tân Trào những ngày trước Tổng khởi nghĩa, nghe Ông Cụ hỏi, ông Vũ Đình Huỳnh, một nhà hoạt động lâu năm có uy tín lớn trong giới trí thức, báo cáo để Hồ Chủ tịch rõ:

Linh mục Phạm Bá Trực sinh năm 1898 tại Bách Nguyên, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình. Linh mục là một trong những khuôn mặt nổi bật nhất, nổi tiếng là một người yêu nước chống Pháp kiên quyết nhất.

Những năm đầu 1930, sau khi học xong tại Roma, đã đậu bằng tiến sĩ triết học và thần học, trở về nước, linh mục càng thấy rõ hơn ai hết, những cảnh bất công đồng bào mình cũng như cả Giáo hội VN phải chịu. Ai cũng nghĩ Phạm Bá Trực sẽ được phong giám mục, vậy mà giáo chức người Pháp lại đưa về thị xã Hà Đông giữ một xứ đạo nhỏ, chỉ vì Phạm Bá Trực bướng bỉnh chống lại những lề thói phân biệt đối xử giữa các linh mục Tây và VN. Thấy cố đạo Tây lộng hành, cha mắng. Thấy linh mục người Việt không được phép ăn chung với linh mục Tây, cha chống. Linh mục Phạm Bá Trực chống cả việc linh mục Tây vào gặp giám mục thì bắt tay mà linh mục ta thì phải tụt giày, vái lễ.

Linh mục Phạm Bá Trực có câu nói nổi tiếng: “Đứng trước Chúa, không có sự phân biệt màu da”.

Cách mạng Tháng 8 năm 1945 thành công, cuộc Tổng tuyển cử ngày 6.1.1946 bầu cử đại biểu Quốc hội lập hiến đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Linh mục Phạm Bá Trực trúng cử đại biểu Quốc hội tỉnh Hà Nam, được cử vào Ban Thường trực rồi Phó trưởng ban Thường trực Quốc hội.

“Vua Hùng kén rể”

Phiên họp “tất niên” của Hội đồng Chính phủ mừng chiến thắng thu đông 1947 đồng thời vui tết đón xuân Mậu Tý (1948) diễn ra giữa núi rừng Việt Bắc khi rét đậm tràn về. Các thành viên Chính phủ đều có mặt đông đủ, trừ ông Đặng Phúc Thông vì ốm, còn các cụ Bùi Bằng Đoàn - Trưởng ban, Linh mục Phạm Bá Trực - Phó trưởng ban Thường trực Quốc hội... là những người tiêu biểu cho khối đại đoàn kết của dân tộc, dù tuổi già sức yếu đều tới dự. Có chiến sĩ, có quan thượng thư, có đức linh mục, có trí thức, có Việt Minh, những người tóc đã bạc bên những người mái đầu xanh tuổi mới ba mươi... Tất cả cùng chung một ý chí “Tổ quốc trên hết, Kháng chiến trước hết”.

Cuối buổi, anh em phục vụ bưng lên mấy đĩa cam sành Bố Hạ vàng mọng của Đặc ủy đoàn do Bộ trưởng Bộ Tư pháp Vũ Đình Hòe mua về đãi quà tết. Hội đồng Chính phủ vừa ăn cam vừa nghĩ về việc đóng góp một trò vui để cùng ăn tết thật vui vẻ. Hồ Chủ tịch giới thiệu cụ Bùi Bằng Đoàn sẽ mở đầu cuộc vui xuân mừng chiến thắng... Sau đó là màn diễn Vua Hùng kén rể.

Diễn viên đầu tiên vở kịch Vua Hùng kén rể bước lên sân khấu trong tiếng hò la và vỗ tay rầm rộ của khán giả. Phó trưởng ban Thường trực Quốc hội, linh mục Phạm Bá Trực, vai vua Hùng lụng thụng trong chiếc áo dạ to xù của lính Pháp mà quân nhu mới cấp, và chiếc mũ dạ to tướng thường ngày để thay mũ bình thiên. Tiếp đó là Sơn Tinh - Bộ trưởng Bộ Tư pháp Vũ Đình Hòe đóng vai - nhảy ra múa mấy vòng, rồi khuỳnh khuỳnh tay tâu với vua Hùng về chiến công đuổi được Thủy Tinh ra tận ngoài biển.

“Vua Hùng” vểnh râu lên, khoái trá vuốt, rồi gọi to: “Bớ Mỵ Nương! Con gái ta, mau mau ra mắt...”. Lời vừa dứt, công chúa choàng chiếc áo ca pốt cũ của lính lê dương yểu điệu, da trắng nõn, đôi bờ vai hơi rộng, ra trình vua cha. Khán giả cười lăn, cười bò vì công chúa có râu lún phún đó là luật sư Phan Anh, Bộ trưởng Bộ Kinh tế. Vua cha, chàng rể, công chúa cùng nhau ôm bụng cười...

Cụ Bùi Bằng Đoàn, trưởng ban ôm chặt lấy cụ linh mục phó ban của mình, đấm thùm thụp vào lưng và nói: “Giỏi quá! Giỏi quá! Thật là vui như tết, vui hơn tết!”.

Bài điếu văn do Bác Hồ viết

Hiệp định Genève ký kết, miền Bắc được giải phóng, Chính phủ sắp trở về thủ đô. Nhưng bị cuộc sống vất vả trong chiến khu vắt kiệt sức, linh mục Phạm Bá Trực đã tạ thế hồi 12 giờ 55 phút ngày 5.10.1954, hưởng thọ 56 tuổi.

Hồ Chủ tịch thức trắng đêm, từng dòng lệ rơi trên trang giấy đọng lại trong lời ai điếu. Viết xong điếu văn, không thể đến nổi nơi hành tang linh mục Phạm Bá Trực, Hồ Chủ tịch dặn ông Vũ Đình Huỳnh, Bí thư riêng của Người và là Vụ trưởng Vụ Lễ tân - Bộ Ngoại giao: “Chú vốn là đạo hữu của cụ linh mục. Chú thay mặt tôi đặt vòng hoa lên mộ phần cụ...”.

Hồi 9 giờ 30 ngày 7.10.1954, lễ an táng linh mục Phạm Bá Trực được tổ chức tại nhà thờ An Huy, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi vòng hoa viếng kèm lời điếu. Bộ trưởng Phan Anh thay mặt Hồ Chủ tịch đọc điếu văn:

“Tôi xin thay mặt Chính phủ kính cẩn nghiêng mình trước linh hồn Cụ. Từ ngày nhân dân tin cậy cử Cụ làm đại biểu Quốc hội và Quốc hội cử Cụ vào Ban thường trực, Cụ đã đưa hết tinh thần và lực lượng giúp Chính phủ trong mọi vấn đề quan trọng. Trong mọi việc, Cụ đã kết hợp đạo đức bác ái theo lời Chúa dạy, với tinh thần nồng nàn yêu nước của người đại biểu chân chính cho nhân dân Việt Nam.
Nay Cụ mất đi, Chính phủ và nhân dân vô cùng thương xót.
Trong lúc ốm nặng Cụ thường nói với tôi: Mong trông thấy kháng chiến thắng lợi thì dù chết Cụ cũng thỏa lòng.
Nay hòa bình đã trở lại Cụ đã thỏa lòng.
Nhưng tiếc rằng Cụ không còn nữa để giúp nước, giúp dân. Với lòng vô cùng thương tiếc một nhà tận tụy ái quốc và một người bạn thân mến, trước linh hồn Cụ, chúng tôi nguyện kiên quyết một lòng, đoàn kết toàn dân để làm tròn sự nghiệp mà suốt đời Cụ mong muốn là: củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập dân chủ trong toàn nước Việt Nam yêu quý của chúng ta.
Hồ Chí Minh”.

Theo Kiều Mai Sơn - TN
 

 
Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • BỬU Ý

    Hàn Mặc Tử (Nguyễn Trọng Trí) từng sống mấy năm ở Huế khi còn rất trẻ: từ 1928 đến 1930. Đó là hai năm học cuối cùng cấp tiểu học ở nội trú tại trường Pellerin (còn gọi là trường Bình Linh, thành lập năm 1904, do các sư huynh dòng La San điều hành), trường ở rất gần nhà ga tàu lửa Huế. Thời gian này, cậu học trò 17, 18 tuổi chăm lo học hành, ở trong trường, sinh hoạt trong tầm kiểm soát nghiêm ngặt của các sư huynh.

  • LÊ QUANG KẾT
                   

    Giai điệu và lời hát đưa tôi về ngày tháng cũ - dấu chân một thuở “phượng hồng”: “Đường về Thành nội chiều sương mây bay/ Em đến quê anh đã bao ngày/ Đường về Thành nội chiều sương nắng mới ơ ơ ơ/ Hoa nở hương nồng bay khắp trời/ Em đi vô Thành nội nghe rộn lòng yêu thương/ Anh qua bao cánh rừng núi đồi về sông Hương/ Về quê mình lòng mừng vui không nói nên lời…” (Nguyễn Phước Quỳnh Đệ).

  • VŨ THU TRANG

    Đến nay, có thể nói trong các thi sĩ tiền chiến, tác giả “Lỡ bước sang ngang” là nhà thơ sải bước chân rong ruổi khắp chân trời góc bể nhất, mang tâm trạng u hoài đa cảm của kẻ lưu lạc.

  • TRẦN PHƯƠNG TRÀ

    Đầu năm 1942, cuốn “Thi nhân Việt Nam 1932-1941” của Hoài Thanh - Hoài Chân ra đời đánh dấu một sự kiện đặc biệt của phong trào Thơ mới. Đến nay, cuốn sách xuất bản đúng 70 năm. Cũng trong thời gian này, ngày 4.2-2012, tại Hà Nội, Xuân Tâm nhà thơ cuối cùng trong “Thi nhân Việt Nam” đã từ giã cõi đời ở tuổi 97.

  • HUYỀN TÔN NỮ HUỆ - TÂM
                                      Đoản văn

    Về Huế, tôi và cô bạn ngày xưa sau ba tám năm gặp lại, rủ nhau ăn những món đặc sản Huế. Lần này, y như những bợm nhậu, hai đứa quyết không no nê thì không về!

  • LƯƠNG AN - NGUYỄN TRỌNG HUẤN - LÊ ĐÌNH THỤY - HUỲNH HỮU TUỆ

  • BÙI KIM CHI

    Nghe tin Đồng Khánh tổ chức kỷ niệm 95 năm ngày thành lập trường, tôi bồi hồi xúc động đến rơi nước mắt... Con đường Lê Lợi - con đường áo lụa, con đường tình của tuổi học trò đang vờn quanh tôi.

  • KIM THOA

    Sao anh không về chơi Thôn Vỹ
    Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên        
          
                       (Hàn Mạc Tử)

  • NGUYỄN VĂN UÔNG

    Hôm nay có một người du khách
    Ở Ngự Viên mà nhớ Ngự Viên         
     

    (Xóm Ngự Viên - Nguyễn Bính)

  • HOÀNG THỊ NHƯ HUY

    Tôi biết Vân Cù từ tấm bé qua bóng hình người đàn bà gầy đen, gánh đôi quang gánh trĩu nặng trên vai, rảo khắp các xóm nhỏ ở Thành Nội, với giọng rao kéo dài: “Bún…bún…ún!” mà mẹ đã bao lần gọi mua những con bún trắng dẻo mềm.

  • LÊ QUANG KẾT                
                      Tùy bút

    Hình như văn chương viết về quê hương bao giờ cũng nặng lòng và giàu cảm xúc - dù rằng người viết chưa hẳn là tác giả ưu tú.

  • TỪ SƠN… Huế đã nuôi trọn thời ấu thơ và một phần tuổi niên thiếu của tôi. Từ nơi đây , cách mạng đã đưa tôi đi khắp mọi miền của đất nước. Hà Nội, chiến khu Việt Bắc, dọc Trường Sơn rồi chiến trường Nam Bộ. Năm tháng qua đi.. Huế bao giờ cũng là bình minh, là kỷ niệm trong sáng của đời tôi.

  • LÊ QUANG KẾT

    Quê tôi có con sông nhỏ hiền hòa nằm phía bắc thành phố - sông Bồ. Người sông Bồ lâu nay tự nhủ lòng điều giản dị: Bồ giang chỉ là phụ lưu của Hương giang - dòng sông lớn của tao nhân mặc khách và thi ca nhạc họa; hình như thế làm sông Bồ dường như càng bé và dung dị hơn bên cạnh dòng Hương huyền thoại ngạt ngào trong tâm tưởng của bao người.

  • HUY PHƯƠNG

    Nỗi niềm chi rứa Huế ơi
    Mà mưa trắng đất, trắng trời Thừa Thiên         
                          
                                              (Tố Hữu)

  • PHAN THUẬN AN

    Huế là thành phố của những dòng sông. Trong phạm vi của thành phố thơ mộng này, đi đến bất cứ đâu, đứng ở bất kỳ chỗ nào, người ta cũng thấy sông, thấy nước. Nước là huyết mạch của cuộc sống con người. Sông là cội nguồn của sự phát triển văn hoá. Với sông với nước của mình, Huế đã phát triển theo nguyên tắc địa lý thông thường như bao thành phố xưa nay trên thế giới.

  • MAI KIM NGỌC

    Tôi về thăm Huế sau hơn ba thập niên xa cách.Thật vậy, tôi xa Huế không những từ 75, mà từ còn trước nữa. Tốt nghiệp trung học, tôi vào Sài Gòn học tiếp đại học và không trở về, cho đến năm nay.

  • HOÀNG HUẾ

    …Trong lòng chúng tôi, Huế muôn đời vẫn vĩnh viễn đẹp, vĩnh viễn thơ. Hơn nữa, Huế còn là mảnh đất của tổ tiên, mảnh đất của trái tim chúng tôi…

  • QUẾ HƯƠNG

    Năm tháng trước, về thăm Huế sau cơn đại hồng thủy, Huế ngập trong bùn và mùi xú uế. Lũ đã rút. Còn lại... dòng-sông-nước-mắt! Người ta tổng kết những thiệt hại hữu hình ước tính phải mươi năm sau bộ mặt kinh tế Thừa Thiên - Huế mới trở lại như ngày trước lũ. Còn nỗi đau vô hình... mãi mãi trĩu nặng trái tim Huế đa cảm.

  • THU TRANG

    Độ hai ba năm thôi, tôi không ghé về Huế, đầu năm 1999 này mới có dịp trở lại, thật tôi đã có cảm tưởng là có khá nhiều đổi mới.

  • TUỆ GIẢI NGUYỄN MẠNH QUÝ

    Có lẽ bởi một nỗi nhớ về Huế, nhớ về cội nguồn - nơi mình đã được sinh ra và được nuôi dưỡng trong những tháng năm dài khốn khó của đất nước, lại được nuôi dưỡng trong điều kiện thiên nhiên vô cùng khắc nghiệt. Khi đã mưa thì mưa cho đến thúi trời thúi đất: “Nỗi niềm chi rứa Huế ơi/ Mà mưa xối xả trắng trời Trị Thiên…” (Tố Hữu). Và khi đã nắng thì nắng cho nẻ đầu, nẻ óc, nắng cho đến khi gió Lào nổi lên thổi cháy khô trời thì mới thôi.