Những câu thơ hồn vía

14:40 29/07/2008
TẠ VĂN SỸĐọc tập thơ CÁT MẶN của LÊ KHÁNH MAI, NXB Hội nhà văn - Hà Nội 2001

Ở bài thơ "Ảo" trong tập Cát Mặn - Lê Khánh Mai viết "Câu thơ hồn vía/Gửi mây bồnh bềnh". Thế nào là hồn vía? Nếu hiểu điều đó là cái gì bản ngã nhất, tinh tuý và cá tính nhất của một người thì riêng tập thơ này ta có thể nhặt được một số câu có thể gọi là "hồn vía" của thơ Lê Khánh Mai.
Ngay câu lục bát trong bài "Tự cảm" dùng để đề từ cho cả tập, ta đã thấy "hồn vía" của tác giả nữ này: "Trót dan díu với mưa nguồn/Trái tim chớp bể mãi còn đa đoan"! Ở đây, bất giác có sự liên tưởng đến một tác giả nữ khác, nhỏ hơn Lê Khánh Mai một phần tư thế kỷ, là Vũ Thị Tú Anh, khi trả lời phỏng vấn trên báo Người Đẹp: "Là nữ sĩ đâu cứ nhất thiết phải đa đoan"! Tại sao thế nhỉ? Cũng cùng là nữ sĩ mà người thì "mãi còn đa đoan" và người thì "đâu cứ phải đa đoan" Một đứng tuổi, một trẻ măng; một tít Bắc, một tận Nam; một khi nói và một khi viết không hề hay biết gì ý nghĩ trong đầu của người kia, vậy mà. .. Thôi thì tuỳ quan niệm, tuỳ cách xử trí và số phận từng người. Ở đây ta thử tìm cái nỗi "đa đoan" của Lê Khánh Mai trong tập thơ "Cát mặn".
Không đa đoan sao được khi mà, nhìn những chiếc lá xanh thường tình muôn thuở, tác giả lại phải bật thốt lên: "Dẫu là một kiếp phù sinh/Vẫn xanh vật vã hết mình thì thôi" (Lá). Cái hồn vía của câu thơ này là "vật vã" và "hết mình". Sao mà đớn đau và tội nghiệp cho kiếp lá đến thế! Kiếp lá hay chính là kiếp người nữ sĩ?.
Ơ một bài thơ khác - bài "Nghĩ về biển" - Lê Khánh Mai lại viết: "Vì sao biển không nguôi vị mặn/Dưới lòng sâu/Quằn quại một niềm đau"! Đã "vật vã" sống lại "quằn quại" đau thì phải là người "đa đoan" mới viết được những câu thơ không nguôi" đau đáu nỗi đời như thế. Và, không chỉ tự nhận riêng mình niềm đau ấy để cam chịu, người phụ nữ này còn muốn sẵn sàng hy sinh để - nếu được - cho người khác vơi bớt đi nỗi niềm nhân thế: "Buồn ơi/Gọi chẳng thành tên/Sao như giằm sắt ghim lên tim này/Giá mà hoá kiếp loài trai/Đau kia hết ngọc/Cho người long lanh" (Nỗi niềm). Vì chỉ nghĩ đến thế nhân nên tác giả bằng lòng với thân phận: "Tôi gom hương sắc tháng Ba/Tặng riêng tôi/Một phận hoa lỗi mùa" (Viết cho một mùa sinh). Đã vật vã, quằn quại đến lỗi mùa, vậy mà "Những câu thơ/Như chú ngựa bất kham trong lồng ngực" vẫn thôi thúc Lê Khánh Mai "Em khát viết những vần thơ định mệnh". (Khát). Đúng là định mệnh! Định mệnh đã bắt Lê Khánh Mai làm thơ nên định mệnh đã buộc Lê Khánh Mai vào vòng đa đoan khó lòng ra khỏi, giống như "Bao nhiêu con sóng đi hoang/Cũng không thoát được đại dương ngàn trùng" (Sóng). Âu đành với định mệnh người thơ (mà người thơ nào chả có chút... dại khờ) nên tác giả lại cũng như sóng biển "Bạc đầu sóng vẫn dại khờ/Khi yêu vồ vập như trò trẻ con" (Sóng).Vì dại khờ, vì yêu vồ vập nên người thơ này đã. .. "Ngàn năm giấu lửa để... nhen một chiều" (Giây phút tình cờ)! Vâng, đó là cách diễn thơ tuyệt vời cho câu thành ngữ nôm na mà sâu sắc "Khôn ba năm dại chỉ một giờ"...
Ngoài những câu thơ tự sự đằm sâu triết lý nhân sinh, đau đáu nhân tình của một tâm hồn "đa đoan" mà đằm thắm ấy, Lê Khánh Mai còn có những câu thơ hay khác ở mảng thơ tả cảnh, trữ tình. Hãy xem cảnh đêm ở núi rừng hoang dã Tây Nguyên: "Những cơn gió la đà say ngật ngưỡng/Kìa góc trời/Lơ lửng một liềm trăng" (Uống rượu với bạn thơ ĐăkLăk), hoặc chỉ 2 câu thơ tả buổi sớm ở thôn quê mà khiến người đọc phải vận động cả thị giác, thính giác và cảm giác khi thưởng thức: "Trâu ra chuồng lịch kịch phì phà sương/Móng trâu gõ một điệu buồn vạn thuở" (Ký ức mùa đông). Cái đồng quê ấy ngoài hình ảnh con trâu cày của cha đã khá hay lại còn có chiếc đòn gánh của mẹ cũng rất gợi hình tinh tế: "Lời ru mặn cả trưa nồng/Mẹ tôi đòn gánh vít cong bóng chiều" (Cát mặn). Và, cái quê nhà ấy càng thêm vời vợi trong tâm tưởng khi đọc được lời tự thú rất đỗi ngậm ngùi của đứa con xa: "Bây giờ thành thị ta say/Quê nhà hoa khế rụng đầy vườn hoang" (Cây khế trong vườn mẹ)
Những câu thơ vừa nhặt nhạnh được trên đây theo tôi là những "câu thơ hồn vía" của Lê Khánh Mai. Và tôi tin rằng đó là những câu thơ hay của Lê Khánh Mai và của thơ hiện nay.
T.V.S

(nguồn: TCSH số 155 - 01 - 2002)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LÝ HẠNHAi trong đời chẳng đã một lần làm thơ. Dù làm thơ để giải trí hay sẻ chia thì những trang thơ ấy cũng là tiếng hát của trái tim, là nơi dừng chân của tâm hồn.

  • LTS: Có một chuyện ít người biết là các nhà văn Tô Hoài, Xuân Diệu, Huy Cận không nhớ ngày sinh của mình. Xuân Diệu, con nhà Nho, thì biết mình sinh giờ Thìn, ngày Thìn, tháng Thìn, năm Thìn, nhưng không biết dương lịch ngày nào. Nhà văn Tô Hoài cũng vậy, nhưng nhớ Bà Cụ cho biết sinh ông đêm rằm Trung Thu. Sau này, sang Nga, bạn người Nga hỏi, mới tra ra ngày Tây là 27-9-1920. Do đó trên các tư liệu, thường thấy ghi ngày sinh: 07-9-1920, và nhà văn cũng không buồn đính chính. Nhân kỷ niệm 90 năm ngày sinh nhà văn Tô Hoài, Sông Hương nhận được bài viết của nhà văn Đặng Tiến cùng thông tin về ngày sinh Tô Hoài nói trên. Xin giới thiệu cùng bạn đọc.

  • HOÀNG DŨNGKhông phải ngẫu nhiên khi ta nói vũ trụ, thế giới thì vũ, giới là không gian, mà trụ, thế là thời gian. Ngay trong những khái niệm tưởng chỉ là không gian, cũng đã có thời gian quấn quýt ở đấy.

  • LTS: Trong các ngày 7-9/9/2010 sắp đến, Ủy ban Văn hóa Hội đồng Giám mục Việt Nam và Tòa Tổng Giám mục Giáo phận Huế sẽ tổ chức Hội thảo về thân thế và sự nghiệp của Léopold Cadière (1869-1955), Nhà nghiên cứu về Huế và Việt Nam học, chủ bút của tập san Bulletin des Amis du Vieux Hué (B.A.V.H), một trong số các tờ báo hay nhất ở Đông Dương thuở trước. Hội thảo sẽ có một số nội dung liên quan đến văn hóa Huế như Văn hóa Huế, Mỹ thuật Huế, Cổ vật Huế dưới con mắt của L. Cadière... Nhân dịp này, Tạp chí Sông Hương đăng bài viết của nhà nghiên cứu Hồ Vĩnh, chuyển tải vài nét về hoạt động văn hóa của Léopold Cadière. Xin giới thiệu cùng bạn đọc.S.H

  • NGUYỄN THỊ HÒA Không cần phải bàn cãi, Từ điển tiếng Huế của Tiến sĩ, Bác sĩ Bùi Minh Đức là một tác phẩm Từ điển. Một quyển từ điển về phương ngữ địa phương Huế mà dày dặn, công phu, với 2050 trang, thể hiện công sức nghiên cứu miệt mài của một vị bác sĩ - nghiệp dư với nghề ngôn ngữ, nhưng đầy nhiệt tình và khá chuyên nghiệp trong nghiên cứu.

  • Sinh ngày 6-2-41 tại Huế. Hy sinh ngày 11-10-68 tại vùng biên giới tỉnh Tây Ninh, nguyên quán làng Bát Tràng tỉnh Bắc Ninh. Học sinh cũ Trường Quốc Học, tốt nghiệp Đại học Sư phạm Ban Việt văn. Tên thật và bút hiệu công khai, chính thức: Trần Quang Long. Các bút hiệu khác: Thảo Nguyên, Chánh Sử, Trần Hoàng Phong.

  • TRẦN HỮU LỤCỞ tuổi 20, hành trình sáng tác của Nhóm Việt gắn liền với những biến cố lịch sử ở miền Nam (1965-1975). Những cây bút trẻ của Nhóm Việt đã bày tỏ một thái độ dấn thân ngày càng sâu sắc, vừa trên bình diện ý thức công dân, vừa trên bình diện ý thức nghệ sĩ.

  • PHONG LÊ(Kỷ niệm 100 năm ngày sinh Nguyễn Tuân 10-7-1910 – 28-7-1987)

  • NGUYÊN QUÂN Phía đằng sau những con chữ bình dị như một chốn quê nhà chưa bị ô nhiễm cơn đau phố bụi, một ngôi làng yên bình vẫn luôn hằng hiện trong mỗi hơi thở, mỗi bước gian truân của tác giả là sự chân thật đến nao lòng.

  • LÝ HOÀI THU Những câu thơ đầu tay của Hữu Thỉnh cất lên từ những cánh rừng Trường Sơn được anh gọi là “Tiếng hát trong rừng”. Anh viết về đồng đội, về cơn sốt rét rừng, về những trận bom và vết hằn xe xích, về mây, suối, dốc, thác Trường Sơn.

  • THÁI DOÃN HIỂU…Khi sự vong ân bội nghĩa của người đời đang diễn ra ở khắp đó đây thì Hoàng Trần Cương là người sống bằng ân sâu nghĩa cả. Với anh, ân nghĩa là một gánh nặng phải gánh. Anh nói về ân nghĩa như là một thứ trí nhớ của lương tri, một món nợ không bao giờ trả xong…

  • VŨ DUY THÔNG        (Thơ - Nghiêm Huyền Vũ, Nxb Trẻ 2000)Khác với bên ngoài, Nghiêm Huyền Vũ trong thơ là người trầm tư, cái trầm tư nhuốm vị triết học.Vây bọc quanh anh là không gian, thứ không gian cô liêu.

  • TRẦN QUỐC THỰCÍt người chịu đi tìm tiếng nói riêng khi đọc một tập thơ, một chặng thơ của một người. Qua từng chặng thơ, tiếng nói riêng ấy sẽ trở thành một cách thơ riêng biệt. Và đó là điều đáng mừng cho đội ngũ sáng tác.

  • NGUYỄN THANH TÚ          (Phác thảo chân dung nhà văn Nguyễn Bảo)

  • LGT: Cuốn tiển thuyết “Biết đâu địa ngục thiên đường” của nhà văn Nguyễn Khắc Phê vừa xuất bản được xem là tác phẩm thành công nhất của ông, cũng là cuốn tiểu thuyết viết kỹ lưỡng nhất, lâu nhất. Cuốn tiểu thuyết này hiện nay nằm trong danh sách những cuốn vào chung khảo cuộc thi tiểu thuyết của Hội Nhà văn Việt Nam. Sông Hương xin giới thiệu những ý kiến nhận định rất chân thành của Giáo sư Trần Đình Sử, nhà văn Ma Văn Kháng và nhà nghiên cứu phê bình Từ Sơn.

  • FAN ANHCon người khác con vật không chỉ ở đặc điểm con người có một bản ngã, một cái tôi luôn biến động, mấu chốt nằm ở chỗ, con người có thể có nhiều bản ngã khác nhau, tồn tại một cách âm thầm trong những thế giới mà nhiều khi ngay bản thân mỗi cá nhân chúng ta cũng không thể am tường hết.

  • VĂN CẦM HẢI(Nhân đọc “Giọng nói mơ hồ” - Nguyễn Hữu Hồng Minh. Nxb trẻ 1999)

  • ĐỖ NGỌC YÊNHồ Quý Ly là một nhân vật lịch sử có thật. Hơn nữa ông đã từng làm đến chức quan Thái sư dưới thời nhà Trần khoảng từ năm 1370 - 1400, và lập nên nhà Hồ từ năm 1400 - 1407.

  • Phỏng vấn nhà nghiên cứu Nguyễn Việt - chuyên viên Hiệp hội CLB UNESCO Việt Nam – nhân cuộc triển lãm thư pháp thơ “Nhật ký trong tù” của Bác Hồ tại Bảo tàng Hồ Chí Minh Thừa Thiên Huế 8-2000

  • LÊ HUY QUANGVào ngày 19/5/2010 này, cả nước ta sẽ tưng bừng Kỷ niệm 120 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân Văn hóa thế giới, nhà thơ Hồ Chí Minh, một người Việt Nam đẹp nhất.