Những bất cập trong việc điều hành quỹ sáng tạo văn học nghệ thuật

10:46 15/10/2008
NGUYỄN KHẮC THẠCHTrước hết phải thừa nhận rằng, từ ngày có quỹ hỗ trợ sáng tạo tác phẩm, công trình Văn học Nghệ thuật cho các Hội địa phương thì các hoạt động nghề nghiệp ở đây có phần có sinh khí hơn. Nhiều tác phẩm, công trình cá nhân cũng như tập thể được công bố một phần nhờ sự kích hoạt từ quỹ này.

Tính hiệu quả xét từ mặt thực dụng của nó là rõ ràng, minh bạch. Song, đó chưa phải mục đích chính yếu, là mục đích cao cả của quỹ đầu tư sáng tạo. Cái chúng ta cần xem xét là chất lượng nghệ thuật chứ không phải số lượng công trình, tác phẩm. Mặc dầu Nhà nước đã bỏ ra hàng chục tỷ đồng mỗi năm suốt mấy năm liền và cũng có nhiều cá nhân, bằng cách nào đó, họ được lĩnh vài ba lần tiền đầu tư in sách nhưng cho đến nay, chưa hề thấy tác phẩm nào có giá trị, có dấu ấn trên văn đàn. Phần lớn là làng nhàng, vô thưởng vô phạt. Nếu nói một cách thẳng thắn, sòng phẳng thì nó chỉ góp phần làm tăng lượng rác rưởi trong văn học mà thôi. Những kẻ bất tài, háo danh trong làng văn nghệ cũng có cơ hội phô trương. Khả năng tự tri và lòng tự trọng trước đồng tiền, trước danh lợi của kẻ sĩ thời nay dường như đã trơ lì, xơ cứng. Tất nhiên, nói vậy không có nghĩa vơ đũa cả nắm. Cũng có những người biết cân nhắc, biết từ chối nhận tiền khi được xét cấp. Điển hình ở Huế có người còn “giãy nảy” lên khi biết tin mình sắp được tài trợ in sách. Đó là trường hợp nhà thơ Trần Vàng Sao, một người tâm huyết, tài năng, thanh bạch thà để thơ bỏ xó chứ nhất quyết không hưởng “miếng mồi danh lợi” ở chốn thị phi. Những người như thế và những tập bản thảo khả quan của họ mà chúng ta chưa biết hẳn còn không ít. Trong giới văn nghệ có một nghịch lý mang tính quy luật là người sáng tạo đích thực thì lặng lẽ làm việc, không khoe khoang, đòi hỏi, người viết lách bĩnh bút thì ồn ào, eo sèo đòi quyền lợi. Đấy cũng là cái tật đồ của thói đời mà Đạo Lão từng cảnh báo rằng “Tri giả (thì) bất ngôn, ngôn giả (thì) bất tri”. Vậy cũng có nghĩa là việc đầu tư của Hội chúng ta chưa chắc đã đúng chỗ cả. Vẫn còn tình trạng “gãi ngứa ngoài giày”. Có thể có những tác phẩm hay, chất lượng cao đang nằm ngoài “vùng phủ sóng” của quỹ này. Vô hình trung, việc đầu tư quỹ sáng tạo văn học nghệ thuật chỉ làm thoả mãn những cái tầm thường, ảo tưởng hoặc những nhu cầu phù phiếm. Sáng tạo nghệ thuật vốn là sự lao động trong sáng, vô vụ lợi, không bắt nguồn từ vật chất tiền bạc sao cứ phải gán ghép tiền vào cho nó. Những gì mặc cả với tiền bạc chắc chắn không phải là nghệ thuật. Nếu tiền bạc mà làm ra được tác phẩm, công trình nghệ thuật thì có lẽ không đến lượt cái Hội danh giá của chúng ta làm bởi các doanh nhân, các tỷ phú, thậm chí các trọc phú đã làm hết cả rồi.

Một điểm bất ổn khác trong việc quy định các điều kiện đầu tư là sự khuôn sáo, máy móc. Nếu Hội giao cho “đối tác” một khoản tiền kèm đơn đặt hàng phải viết đề tài này, thể loại nọ mới được thanh lý hợp đồng thì chẳng khác gì người ta giao cá bột cho người câu cá và bảo họ chỉ được câu loại cá này nên trước hết phải nuôi cho nó lớn lên đã. Sản phẩm nghề chúng ta không phải sản phẩm công nghiệp, nó là thứ hàng may đo chứ không phải hàng may sẵn. Hội chỉ cần đầu tư cho họ cái cần câu còn câu cá gì thì tuỳ thuộc vào tài năng sáng tạo và sự may rủi của họ. Mặt khác, khi phân bổ tiền cho các cấp cơ sở thực hiện mà quy định quá cụ thể, quá chặt chẽ thì e rằng có nơi, có lúc không phù hợp với tình hình thực tế. Sự vận động biến dịch của cuộc sống, sự lao động sáng tạo của con người là đa dạng, đa chiều. Chỉ giới hạn trong phạm vi viết và đọc bây giờ cũng rất phong phú, rất nhiều kênh. Gần đây đã hình thành dòng văn học mạng và khá đông độc giả chỉ có thói quen truy tìm trên mạng. Xu thế này đang ngày càng bành trướng. Có lẽ rồi đến lúc nền văn minh giấy mực sẽ phải nhường chỗ cho nền văn minh điện tử. Người ta sẽ trực tiếp viết, công bố và đọc luôn trên mạng, không cần in ấn sách báo nữa. Việc đầu tư in sách coi chừng bị lạc hậu. Đã có nhiều cá nhân, nhiều tổ chức trong lĩnh vực văn nghệ lập ra các trang Website riêng. Nó rất thiết thực và diệu dụng đối với lối sống hiện đại. Câu hỏi khó được trả lời ngay ở đây là liệu quỹ đầu tư của chúng ta có cho phép các đơn vị cơ sở vận dụng tiền dược cấp trích ra làm Website không? Trên thực tế đã có nơi làm, cụ thể là Hội Nhà văn Huế (một Hội chuyên ngành thuộc Hội liên hiệp VHNT TT. Huế) đã có trang Web được làm bằng khoản tiền vận dụng từ việc “khai khống” in một tập sách (khoảng 10 triệu) chuyển qua làm trang Web. Nếu làm một cách “chính danh” thì chắc chắn số tiền chi cho trang Web kia sẽ bị xuất toán nhưng vì nó được “nguỵ trang” bằng một công trình tập thể (in sách) đúng quy định nên chưa biết thế nào (?). Nó sẽ được khen là sự vận dụng sáng tạo hay bị quy cho tội hồ đồ gian lận? Cái cơ chế duy ý chí của chúng ta nhiều khi tự mâu thuẫn, tự trở mặt với chính mình.

Qua 4 năm điều hành thực hiện quỹ hỗ trợ tác phẩm, công trình văn học nghệ thuật, chúng ta thấy còn ít nhiều những điều chưa ổn. Rõ ràng nhất là sự mơ hồ, sự kém hiệu quả trong việc đầu tư cho các cá nhân. Bởi vậy hướng đầu tư sắp tới nên tập trung cho các tác phẩm, công trình tập thể. Tổ chức đi thâm nhập thực tế, mở thêm các trại sáng tác, tạo điều kiện tốt nhất để công bố tác phẩm công trình trên các phương tiện truyền thông thích hợp với từng loại hình nghệ thuật, đặc biệt là mở các trang Website. Song song với các hoạt động đó, thiết tưởng cũng nên mở các lớp học chuyên đề về lòng tự trọng cho những người “thích tiền” không phải do chính mình làm ra.
N.K.T

(nguồn: TCSH số 222 - 08 - 2007)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN HỒNG DŨNG"HỘI CHỨNG VIỆT NAM"Trong lịch sử chiến tranh Mỹ, thì chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến tranh mà người Mỹ bị sa lầy lâu nhất (1954-1975), và đã để lại những hậu quả nặng nề cho nước Mỹ. Hậu quả đó không chỉ là sự thất bại trong cuộc chiến, mà còn ở những di chứng kéo dài làm ảnh hưởng trầm trọng đến đời sống Mỹ, mà người Mỹ gọi đó là "Hội chứng Việt Nam".

  • BÍCH THUNăm 2005, GS. Phong Lê vinh dự nhận giải thưởng Nhà nước về Khoa học với cụm công trình: Văn học Việt Nam hiện đại - những chân dung tiêu biểu (Nxb ĐHQG, H, 2001, 540 trang); Một số gương mặt văn chương - học thuật Việt hiện đại (Nxb GD, H, 2001, 450 trang); Văn học Việt hiện đại - lịch sử và lý luận (Nxb KHXH. H, 2003, 780 trang). Đây là kết quả của một quá trình nghiên cứu khoa học say mê, tâm huyết và cũng đầy khổ công, vất vả của một người sống tận tụy với nghề.

  • THÁI DOÃN HIỂU Trong hôn nhân, đàn bà lấy chồng là để vào đời, còn đàn ông cưới vợ là để thoát ra khỏi cuộc đời. Hôn nhân tốt đẹp tạo nên hạnh phúc thiên đường, còn hôn nhân trắc trở, đổ vỡ, gia đình thành bãi chiến trường. Tình yêu chân chính thanh hóa những tâm hồn hư hỏng và tình yêu xấu làm hư hỏng những linh hồn trinh trắng.

  • NGUYỄN THỊ MỸ LỘCLà người biết yêu và có chút văn hóa không ai không biết Romeo and Juliet của Shakespeare, vở kịch được sáng tác cách ngày nay vừa tròn 410 năm (1595 - 2005). Ngót bốn thế kỷ nay Romeo and Juliet được coi là biểu tượng của tình yêu. Ý nghĩa xã hội của tác phẩm đã được thừa nhận, giá trị thẩm mĩ đã được khám phá, hiệu ứng bi kịch đã được nghiền ngẫm... Liệu còn có gì để khám phá?

  • NGUYỄN VĂN HẠNH1. Từ nhiều năm nay, và bây giờ cũng vậy, chúng ta chủ trương xây dựng một nền văn nghệ mới ngang tầm thời đại, xứng đáng với tài năng của dân tộc, của đất nước.

  • HỒ THẾ HÀ(Tham luận đọc tại Hội thảo Tạp chí văn nghệ 6 tỉnh Bắc miền Trung)

  • LÊ GIA NINHNgày 10 tháng 10 năm 1955, Hà Nội, thủ đô của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa bừng lên niềm vui, ngập trong cờ, hoa và nắng thu. Những chàng trai ngày “ra đi đầu không ngoảnh lại”, trải qua cuộc trường chinh ba ngàn ngày trở về trong niềm vui hân hoan và những dòng “nước mắt dành khi gặp mặt” (Nam Hà).

  • THANH TÙNGChống tham nhũng, đục khoét dân lành không chỉ là công việc của nhà chức trách mà còn ở tất cả mọi người dù ở chế độ xã hội nào. Các thi sĩ không chỉ làm thơ ca ngợi cuộc sống tình yêu, đất nước con người mà còn dùng ngọn bút thông qua nước thi phẩm của mình để lên án, vạch mặt bọn quan tham này.

  • NGÔ ĐỨC TIẾNTrong lịch sử các nhà khoa bảng ở Việt , ít có gia đình nào cả ba ông cháu, cha con đều đỗ Trạng nguyên. Đó là gia đình Trạng nguyên Hồ Tông Thốc ở Kẻ Cuồi, Tam Công, Thọ Thành, Yên Thành, Nghệ An.

  • PHẠM XUÂN NGUYÊN1. Trước hết ta phải bàn với nhau về chữ hay, tức thế nào là một tác phẩm hay. Bởi cái hay không bất biến trong không gian và thời gian, nó vận động và biến đổi tùy theo hoàn cảnh, với những tiêu chí cụ thể khác nhau.

  • TRẦN HUYỀN SÂMRuồng bỏ - Disgrace (1) là một cuốn tiểu thuyết mang phong cách giản dị. Nhưng đó là sự giản dị của một bậc thầy về thể loại roman. Giới lý luận văn học và các chính trị gia phương Tây (2) đã đặt ra những câu hỏi có tính hoài nghi. Điều gì ở cuốn sách có độ trang khiêm tốn này đã mang lại giải Nobel cho Coetzee: Vấn đề kỹ thuật tiểu thuyết, nỗi điếm nhục về nhân cách con người, hay là bi kịch lịch sử hậu Apartheid?

  • NGUYỄN THÀNHLịch sử phê bình văn học Việt Nam thế kỷ XX đánh dấu bởi nhiều khuynh hướng phê bình hiện đại: phê bình ấn tượng, phê bình phân tâm học, phê bình xã hội học, phê bình mác xít, phê bình thi pháp học...

  • TRẦN LỘC HÙNG“NỒI HƠI NGUYÊN TỬ” NGĂN NGỪA THẾ CHIẾN THỨ BAChuyện kể rằng sau cuộc thử nghiệm thành công của trái bom nguyên tử đầu tiên vào năm 1949, cha đẻ của nó - Igor Vaxilevich Kurchatov - đã khóc nức nở.

  • HÀ VĂN THỊNHSố 7 là một con số huyền thoại. Nếu như tính xuất xứ xa nhất, công đầu về việc “tìm ra” số 7, thuộc về người Ai Cập, cách nay ít nhất 5.000 năm. Khi hiểu được rõ ràng việc con sông Nil chia làm 7 nhánh trước lúc đổ ra Địa Trung Hải, người Ai Cập vận “lý” để tin là nó nhất định phải hàm chứa nghĩa bí ẩn nào đó phản ánh cái “tư tưởng” triết lý của Đấng Tạo hóa.

  • TRẦN VIẾT THIỆNNăm 1987, người ta từ ngạc nhiên, ngỡ ngàng đến sững sờ trước sự trình làng của một cây bút đã vào độ tứ tuần. Tuổi bốn mươi lại là thời kỳ son sắt nhất của cây bút này, nói theo quan niệm của ông: “Đời viết văn cũng giống như đời người đàn bà”.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO - NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Trích)...

  • TRẦN NGỌC CƯChúng ta thường nghĩ rằng ở trong mỗi tâm hồn Việt Nam đều có một thi sĩ, hay nói thế khác, người Việt Nam sinh ra và lớn lên trong bầu khí văn hoá ra-ngõ-gặp-thi-nhân. Đầu đời là những câu ca dao mẹ hát ru con, cuối đời là câu kinh tiếng kệ, những lời nguyện cầu, đều là thơ cả.

  • PHẠM TUẤN ANHSau 1975, văn xuôi đóng vai trò chủ đạo trong vận động đổi mới của văn học Việt Nam. Vai trò cách tân của văn xuôi đã được khẳng định đồng thời với vị thế mới của cái hài. Cái hài, với tiếng cười hài hước (humor) phồn thực đã góp phần quan trọng trong quá trình giải thể ý thức “quần thể chính trị”, để văn học thoát khỏi cục diện nhất thể của cái cao cả, sáp tới cuộc sống muôn màu với những giá trị thẩm mĩ đa dạng.

  • TUẤN ANH“Ở đâu bản năng nghèo nàn, nhân cách cũng nghèo nàn” (Jean Lacroix)

  • NGUYỄN THẾNhững năm gần đây, vấn đề nghiên cứu về Truyện Kiều đã được các học giả Việt trong và ngoài nước quan tâm. Nhiều cuộc trao đổi, thảo luận về Truyện Kiều được đưa ra trong các cuộc hội thảo chuyên ngành về ngôn ngữ, văn học và trên diễn đàn báo chí, Internet...