DƯƠNG PHƯỚC THU
Chiều ngày 12/5/2014, tôi nhận được món quà vô cùng quý giá, đó là cuốn sách Hải Triều Toàn Tập do chính gia đình của Nhà văn hóa, Nhà báo Hải Triều gửi tặng.
Cuốn sách quý này vừa được Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia - Sự thật ấn hành “Nhằm tôn vinh những cống hiến của Hải Triều Nguyễn Khoa Văn trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa và hướng tới kỷ niệm 60 năm ngày mất của ông (6/8/1954)”, mới ra mắt bạn đọc vào tháng 4 năm nay, mà chỉ mở có vài trang tôi đã cảm nhận được mùi thơm tinh nguyên của giấy mực. Tôi thích thú đọc liền ba ngày.
So với lần đầu Hải Triều Toàn Tập được Nhà xuất bản Văn học thực hiện vào năm 1996, chỉ mới có 64 bài; lần này được bổ sung thêm 17 bài nữa của Hải Triều. Tổng cộng có 81 bài viết và 5 phụ lục với một số hình phụ bản, cùng lời giới thiệu của Tiến sĩ Vũ Ngọc Hoàng, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Phó Trưởng ban Thường trực Ban Tuyên giáo Trung ương, và 1 bài của Tiến sĩ Phạm Hồng Toàn, 1 bài của nhà nghiên cứu Chu Giang… cuốn sách dày hơn bảy trăm trang, khổ 16 x 24cm, đóng bìa cứng khá xinh xắn. Quả là món quà rất quý đối với người làm báo, nhất là với những ai muốn tìm hiểu, nghiên cứu sâu về lịch sử báo chí cách mạng Việt Nam.
Theo người Chủ biên cuốn sách thì Hải Triều Toàn Tập xuất bản lần này được bổ sung thêm 17 bài viết của Hải Triều, trong đó có 16 bài do chính nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm - con trai của Hải Triều Nguyễn Khoa Văn tìm ra và 1 bài do Tiến sĩ Phạm Hồng Toàn sưu tầm được…
Trong mấy năm qua, thực hiện chủ trương của lãnh đạo tỉnh Thừa Thiên Huế, Hội Nhà báo tỉnh đã cử cán bộ đi nhiều nơi sưu tầm nguồn tư liệu báo chí để phục vụ cho việc biên soạn cuốn Lịch sử Báo chí Thừa Thiên Huế, từ sơ khởi đến 2015. Chúng tôi đã tìm được đủ 9 số báo Nhành Lúa và phát hiện ra ở đấy còn nhiều bài viết của Hải Triều chưa in lại ở vào bất cứ cuốn sách nào cả. Dưới đây là những bài viết của Hải Triều đăng trên Nhành Lúa chưa có trong Hải Triều Toàn tập nói trên:
1. Một bức thư trả lại cho người gửi, Nhành Lúa số 1, ra ngày 15/1/1937.
2. Những lời nói mà người dân Đông Dương không bao giờ quên, Nhành Lúa số 2, ra ngày 22/1/1937.
3. Hỏi… trả lời: Kinh tế - Xã hội - Chính trị - Quốc tế - Văn hóa (viết chung với Hải Thanh), Nhành Lúa số 2, ra ngày 22/1/1937.
4. Chúng tôi rất phàn nàn về sự cấm 2 tờ báo Tiếng Trẻ, Hà Nội cùng các tờ báo khác gần đây, Nhành Lúa số 3, ra ngày 29.1.1937.
5. Hỏi… trả lời: Kinh tế - Xã hội - Chính trị - Quốc tế - Văn hóa (viết chung với Hải Thanh), Nhành Lúa số 3, ra ngày 29/1/1937.
6. Hỡi anh em chị em thợ thuyền, hỡi anh em chị em dân cày, hỡi anh em chị em học sanh, hỡi những người bị áp bức, hãy đi đón rước ô. Godard cho đông, Nhành Lúa số 4, ra ngày 5/2/1937.
7. Một công trình vĩ đại của lịch sử loài người Mười chín năm kiến thiết xã hội chủ nghĩa ở Liên bang Sô -Viết, Nhành Lúa số 6, ra ngày 19/2/1937.
8. Hơn một vạn quần chúng nông, công, học sanh và tiểu thương rước viên Lao công Đại sứ của Chánh phủ chiến tuyến bình dân, Nhành Lúa số 8, số đặc biệt về việc đón ông Godard, ra ngày 5/3/1937.
9. Lại vấn đề ngôn luận tự do: Báo Dân Quyền được trắng án, Báo Le Travail lại bị đưa ra tòa. Nhành Lúa số 9, ngày 19/3/1937.
Sau khi tìm được thêm 9 bài viết trên của Hải Triều, chúng tôi trân trọng chuyển đến nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm để ông bổ sung vào tập tư liệu gia đình. Trong khoảng thời gian này chúng tôi vẫn tiếp tục sưu tầm tư liệu ở các thư viện trong và ngoài Thừa Thiên Huế và rất may, đã tìm thêm được 2 bài nữa của Hải Triều đăng trên Báo Phụ Nữ Tân Tiến:
1. Ông Hoàng Tăng Bí với vấn đề Phụ nữ - Đáp lại bài: Ý kiến của hai nhà đại chính trị đối với Phụ nữ Trung Bắc Tân Văn ngày 9/2/34, đăng ở mục Bình đàn, Phụ Nữ Tân Tiến số 3, ra ngày 5/3/1934.
2. Sau khi đọc quyển La Condition humani của André Malraux, Phụ Nữ Tân Tiến số 4, ra ngày 5/4/1934.
Riêng bài “Ông Phan Khôi là một học giả duy tâm” đăng ở số 1 Phụ Nữ Tân Tiến ra tháng 2/1934, đã đưa vào Hải Triều Toàn Tập rồi.
Ngoài ra cũng cần bổ sung và đưa vào thư mục trong Hải Triều Toàn Tập những tờ báo đã in tác phẩm của Hải Triều.
1. Báo Phụ Nữ Tân Tiến (bộ mới). Chủ bút: Phạm Bá Nguyên, xuất bản ở Huế vào tháng 2/1934 và chỉ ra được 4 số, thì có 3 số (1, 3 và 4) đăng bài của Hải Triều.
2. Nhật báo Ánh Sáng. Chủ bút: Tôn Quang Phiệt từ số 2 đến số 23, xuất bản ở Huế năm 1935, ra được 52 số; các số 23 và 24 ra tháng 4 và 5/1935, đăng trọn vẹn bài Nghệ thuật vị nghệ thuật hay nghệ thuật vị nhân sinh của Hải Triều. Bài này trước đó đăng ở Báo Đời Mới, Hà Nội, tháng 3 và 4/1935.
Như vậy, tính từ tháng 3/1928 đến lúc lâm bệnh qua đời vào ngày 6/8/1954, Hải Triều đã viết nhiều bài bút chiến nổi tiếng, nhiều bài có nội dung về triết học, chính trị, kinh tế học, văn hóa, văn học, báo chí… cho 27 tờ báo lớn trong Nam ngoài Bắc và ở Liên khu IV. Cộng tất cả những bài viết của ông thì hiện có 93 tác phẩm đã tìm ra. Và có thể vẫn còn một số bài viết của Hải Triều nằm lại đâu đó mà chúng ta chưa tìm thấy?
Trong quá trình sưu tầm nghiên cứu, chúng tôi nhận ra rằng, tất cả các bài viết của Hải Triều dù được in thành sách từ những năm ba mươi hay sau này mới in lại thành toàn tập thì ban đầu đều là những tác phẩm báo chí được Hải Triều viết để đăng trên báo chí, rồi sau đó mới in thành tập.
Với Hải Triều, ngoài tư cách là một người viết báo đích thực, ông còn tham gia tích cực vào công việc tổ chức nội dung của các tờ báo.
Dưới vai trò Biên tập: Hải Triều có chân trong Ban Biên tập của tờ tuần báo Sông Hương Tục Bản và Báo Dân của Xứ ủy Trung Kỳ; tờ Xã Hội Mới và Tạp chí Ánh Sáng cơ quan cổ động tuyên truyền của Hội Nghiên cứu chủ nghĩa Các Mác Trung Bộ; Tạp chí Đại Chúng của Liên đoàn Văn hóa Cứu quốc Trung Bộ; Tạp chí Tiên Phong cơ quan vận động văn hóa mới của Hội Văn hóa Cứu quốc Việt Nam…
Dưới vai trò Chủ nhiệm, Tổng Biên tập: Hải Triều trực tiếp làm Tổng Thư ký Tòa soạn báo Nhành Lúa của Xứ ủy Trung Kỳ; Chủ nhiệm Tạp chí Tìm Hiểu của Chi Hội Nghiên cứu Chủ nghĩa Mác Liên khu IV từ tháng 3/1949 đến đầu tháng 8/1954; Chủ nhiệm Báo Thi Đua Ái Quốc Liên khu IV từ tháng 7/1948. Báo Thi Đua Ái Quốc xuất bản mỗi tháng hai kỳ, khổ 20 x 26cm, mỗi số có 16 trang cả bìa; số 1 ra ngày 15/7/1948, ra được trên tám số mà chúng tôi vừa tìm thấy. Theo ngày tháng ghi ở trang 2 phần “lý lịch” tờ báo thì Hải Triều làm Chủ nhiệm tờ Thi Đua Ái Quốc trước khi làm Chủ nhiệm Tạp chí Tìm Hiểu đến 9 tháng.
Nhưng trước hết và hơn hết Nguyễn Khoa Văn là một nhà báo đích thực, nhà báo cách mạng tài năng, với sinh lực dồi dào, trí tuệ mẫn tiệp, tính cách mạnh mẽ, quyết liệt, không chịu khoan nhượng trước những quan điểm lệch lạc về tư tưởng, học thuật; ông viết nhiều bài bút chiến vô cùng xuất sắc khi mới ngoài hai mươi tuổi. Bài báo đầu tiên của Nguyễn Khoa Văn có tựa đề Cuộc chiến tranh thế giới sau này đăng 4 kỳ trên Báo Tiếng Dân của Tiến sĩ Nho học Huỳnh Thúc Kháng, các số 66, 67, 69, 70; kỳ thứ nhất ra ngày 31/3/1928, dưới bút danh Xích Nam Tử (Chàng trai đỏ). Từ đấy ông luôn cộng tác với Tiếng Dân và nhiều tờ báo khác bằng những bài viết sắc sảo, lời lẽ đanh thép. Sau năm 1932, ông mới lấy bút danh Hải Triều (Sóng biển), bút danh này đã gắn với cuộc đời hoạt động chính trị, văn hóa, văn học nghệ thuật, nghiệp cầm bút hơn cả tên thật của ông. Bút danh Hải Triều đã trở nên thân thiết với bạn đọc từ rất lâu, chính vì thế mà có nhiều người biết đến Nhà báo, Nhà tư tưởng Hải Triều nhiều hơn là Nguyễn Khoa Văn!
Cách mạng Tháng Tám thành công, Hải Triều hăm hở ra Hà Nội nhận công tác một thời gian rất ngắn ở Bộ Thông tin Tuyên truyền, rồi ông được lệnh trở về Huế. Từ giữa tháng 9/1945 đến hết năm 1946, Hải Triều hoạt động sôi nổi ở vùng đất Cố đô; ông tham gia tích cực trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là công tác chỉ đạo, tuyên truyền chính trị, văn hóa, văn nghệ và báo chí.
Với tư cách là Giám đốc Sở Thông tin Tuyên truyền Trung Bộ, ông có nhiều buổi nói chuyện về “nền văn học Việt Nam dưới thời Pháp - Nhật thuộc” tại nhà Đại chúng ở đường Hàng Bè, thành phố Huế. Vào giữa tháng 9/1945, Hải Triều cùng Thanh Tịnh, Hoài Thanh hiệu triệu anh chị em văn nghệ sĩ, báo chí để thành lập Liên đoàn Văn hóa Cứu quốc Trung Bộ.
Báo Quyết Chiến, số 19, ra ngày 15/9/1945 Thông báo: “Tối thứ ba ngày 18 tháng 9, vào hồi 7 giờ tối sẽ có cuộc hội nghị các nhà văn, nhà báo, kịch sĩ, họa sĩ, nhạc sĩ và các nhà nhiếp ảnh tại Sở Tuyên truyền Thuận Hóa. Để bàn chuyện thiết lập một Liên đoàn Văn hóa Trung Bộ với mục đích cấp thiết tham gia vào công cuộc cứu quốc của toàn thể đồng bào Việt Nam”.
Theo Thông báo này thì Ban tổ chức mời tất cả các giới văn nghệ đến dự “cho đông đủ” để bàn chuyện thiết lập một Liên đoàn Văn hóa Trung Bộ. Tại buổi họp tối hôm ấy Ban tổ chức lại quyết định thành lập Liên đoàn Văn hóa Cứu quốc Thừa Thiên, còn Đoàn Văn hóa Cứu quốc Trung Bộ thì mãi đến ngày 23 tháng 11 năm 1945 mới tổ chức được và do Nguyễn Lân (nhà văn Từ Ngọc) làm Chủ tịch.
Buổi thành lập ấy có “Hơn 50 nhà văn, nhà báo, nghệ sĩ ở Thuận Hóa họp tại Sở Tuyên truyền tối hôm 18/9/1945 đã lập xong Liên đoàn Văn hóa Cứu quốc Thừa Thiên. Liên đoàn này gồm có 4 ban: Văn học, Hội họa điêu khắc và kiến trúc, Âm nhạc, Ca kịch, dưới sự điều khiển của một Ủy ban chấp hành lâm thời 5 người:
Chủ tịch: Hoài Thanh; Phó Chủ tịch: Đào Duy Dếnh
Thư ký: Thanh Tịnh, Hà Thế Hạnh
Thủ quỹ: chị Quốc Thuận.
Chương trình và Điều lệ Liên đoàn do Ủy ban Chấp hành lâm thời dự thảo sẽ đưa ra thảo luận trong một cuộc Đại hội nghị các nhà văn, nhà báo, nghệ sĩ ở Thuận Hóa sắp tới”.
Và chỉ sau 4 ngày hoạt động lâm thời, Đại hội nghị Liên đoàn Văn hóa cứu quốc Thừa Thiên đã chính thức khai mạc như dự kiến. Quyết chiến số 26 ra ngày 23/9/1945, đưa tin về kết quả Đại hội chính thức lần thứ nhất: “Tối hôm 22/9, Liên đoàn Văn hóa Cứu quốc Thừa Thiên họp Đại hội nghị tại trụ sở Ban Tuyên truyền Trung Bộ, đã duyệt y điều lệ và chương trình hành động của Liên đoàn do Ủy ban Chấp hành lâm thời dự thảo và bầu Ủy ban Chấp hành chính thức như sau:
Chủ tịch: Hoài Thanh;
Phó Chủ tịch: Đào Duy Dếnh;
Thư ký: Hoàng Hữu Xứng, Thanh Tịnh;
Ủy viên tài chính: chị Quốc Thuận.
Liên đoàn dự định xuất bản một tờ tuần báo lấy tên là Đại Chúng và lập một Đoàn tuyên truyền lưu động sẽ đi khắp các huyện trong tỉnh”. (Trên thực tế Đại Chúng đã xuất bản được bốn kỳ).
Trụ sở tạm thời của Liên đoàn đóng ở số 2 đường Nguyễn Tri Phương; về sau chuyển qua số 35 đường Hàng Bè, Thuận Hóa.
Ban Chấp hành Liên đoàn Văn hóa Cứu quốc Thừa Thiên vừa mới hoạt động được ba tháng, do yêu cầu của cách mạng trước tình hình mới, một số cán bộ của Liên đoàn được điều động nhận công tác khác - như Hoài Thanh chuyển ra Hà Nội, nên Liên đoàn quyết định tổ chức Đại hội nghị để bầu lại Ban Chấp hành.
Theo Quyết Chiến số 103, ra ngày 22/12/1945 thì “Đại hội nghị Đoàn Văn hóa Cứu quốc Thừa Thiên đã họp vào lúc 8 giờ tối ngày thứ năm 20/12/1945 tại Trụ sở Ban Tuyên truyền Trung Bộ đã bầu lại Ban Chấp hành và bàn nhiều vấn đề quan hệ khác”.
Ban Chấp hành mới Liên đoàn Văn hóa Cứu quốc Thừa Thiên gồm các anh:
Hải Triều: Chủ tịch;
Nguyễn Xuân Dương: Phó Chủ tịch;
Dương Kỵ: Thư ký;
Vương Tứ Ba: Phó Thư ký;
Trần Đình Giám: Thủ quỹ.
Trên cương vị Giám đốc Sở Thông tin Tuyên truyền Trung Bộ, Hải Triều còn kiêm giữ chức danh Chủ tịch Liên đoàn Văn hóa Cứu quốc Thừa Thiên cho đến đầu năm 1947, khi ông cùng cơ quan và gia đình rời Huế.
Huế, tháng 8/2014
D.P.T
(SH309/11-14)
LÊ HUỲNH LÂMDạo này, thỉnh thoảng tôi nhận được tin nhắn “nhìn đời hiu quạnh”, mà theo lời thầy Chạy đó là câu của anh Định Giang ở Vỹ Dạ mỗi khi ngồi nhâm nhi. Khi mắc việc thì thôi, còn rảnh rang thì tôi đến ngồi lai rai vài ly bia với thầy Chạy và nhìn cổ thành hắt hiu, hoặc nhìn cội bồ đề đơn độc, nhìn một góc phố chiều nguội nắng hay nhìn người qua kẻ lại,… tất cả là để ngắm nhìn cõi lòng đang tan tác.
THU NGUYỆTLTS: Tập truyện Cánh đồng bất tận của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư được giới chuyên môn đánh giá cao như một hiện tượng văn học trong thời gian gần đây. Giữa lúc đông đảo bạn đọc đang hứng vị với hiện tượng này thì có một hiện tượng khác “ngược chiều” đã gây sốc dư luận.Để bạn đọc Sông Hương có thêm thông tin, chúng tôi xin trích đăng một số ý kiến sau đây.
HIỀN LƯƠNGVậy là Nguyễn Ngọc Tư sẽ bị kiểm điểm thật. Cầm tờ biên bản của Ban Tuyên giáo tỉnh Cà Mau trên tay, trong tôi trào dâng nhiều cảm xúc: giận, thương, và sau rốt là buồn...
BÙI VIỆT THẮNGTôi có theo dõi “vụ việc Nguyễn Ngọc Tư” đăng tải trên báo Tuổi trẻ (các số 79, 80, và 81 tháng 4 năm 2006) thấy các ý kiến khen chê thật ngược chiều, rôm rả và quyết liệt. Kể ra không có gì lạ trong thời đại thông tin mọi người đều có quyền cập nhật thời sự, nhất là trong lĩnh vực văn chương vốn rất nhạy cảm.
NGUYỄN KHẮC PHÊ“Người kinh đô cũ” (NKĐC - NXB Hội Nhà văn, 2004) là tác phẩm thứ 14 của nhà văn Hà Khánh Linh, cũng là tác phẩm văn học dày dặn nhất trong số tác phẩm văn học của các nhà văn ở Thừa Thiên - Huế sáng tác trong khoảng 20 năm gần đây.
HỒ THẾ HÀ Trong cuộc đời mỗi con người, điều sung sướng nhất là được hiểu biết, khám phá và sáng tạo để ý nghĩa tồn sinh không ngừng được khẳng định và nâng lên những tầm cao mới. Theo đó, những thang bậc của nhận thức, nhân văn, của thành quả lao động lại biến thành những giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể lấp lánh lời giải đáp.
TÔ VĨNH HÀNếu có thể có một miền thơ để mà nhớ mong, khắc khoải; tôi tin mình đã tìm được rồi, khi đọc Mưa Kim Cương của nhà thơ Đông Hà (Nxb Thuận Hoá, Huế, tháng 11.2005). Sợi dây mảnh mục như các khớp xương đan chằng, xéo buốt, chơi vơi; được giăng giữa hai bờ lở xói của cuộc đời. Trên cao là “hạt” kim cương thô ráp và gan lỳ hơn cả là đá nữa, nhưng lại giống với thân hình thần Vệ Nữ đang rơi, đang rơi, nhọn sắc, dữ dằn... Minh hoạ ở trang bìa xanh và sâu thẳm như những trang thơ.
TRẦN THANH HÀLGT: Có thể nói rằng, “Tiểu thuyết và tiểu luận về tiểu thuyết của Milan Kundera được xem như là một trong những hiện tượng độc đáo đáng được chú ý trong văn học Châu Âu hiện đại”. Mỗi cuốn tiểu thuyết cô đọng của nhà văn, mang lại cho độc giả một cái nhìn độc đáo về thế giới hiện đại và vị trí con người trong đó, một thứ triết học riêng về cuộc sống và mối quan hệ liên cá nhân, “các chủ đề sắc sảo và các tính cách con người sinh động được kết hợp với những suy tư về các đề tài triết học và hiện sinh mang tính toàn cầu”.
HOÀNG VĂN Đọc Hoang thai ta có thể hình dung ra xã hội Ba Lan đương đại và những vấn đề nẩy sinh trong xã hội này.
NGUYỄN KHẮC PHÊGặp nhà văn - dịch giả Đoàn Tử Huyến - một người “chơi” sách có hạng ở đất Hà Thành - tại nhà sách lớn của Trung tâm văn hoá ngôn ngữ Đông Tây mới khai trương trên khu Cầu Giấy, trước ngày hội thảo về tiểu thuyết “Mẫu Thượng ngàn” của Nguyễn Xuân Khánh, tôi hỏi: “Có đúng là ông đã nói trên một tờ báo rằng “Một tác phẩm kiệt xuất như “Nghệ nhân và Margarita” (NNVM) mà chưa có một nhà phê bình Việt Nam nào sờ đến cả! “Đúng vậy không?” Đoàn Tử Huyến cười nhăn cả mũi: “Thì đúng vậy chứ sao!”
HOÀNG VŨ THUẬT(Đọc Hoạ mi năm ngoái - Thơ Trần Kim Hoa, NXB Văn học, 2006)
LTS: Sông Hương vừa nhận được lá thư của ông Tế Lợi Nguyễn Văn Cừ gửi cho nhà nghiên cứu Phan Thuận An nhằm cung cấp lại bản gốc của bài thơ “Cầu ngói”. Xin nói thêm, ông Nguyễn Văn Cừ là con của ông Nguyễn Văn Lệ, tác giả bài thơ.Sông Hương xin đăng lá thư này để hầu mong rộng đường trao đổi.
HOÀNG VŨ THUẬT(Đọc Ngày không ngờ - thơ Nguyễn Bình An, NXB Thuận Hóa 2007)
VĨNH NGUYÊN(Nhân xem tập thơ Nhật thực của Nhất Lâm, Nxb Thanh Niên, 2008)
NGÔ MINHLTS: Ngày 13-2-2007, Bộ Văn hoá Thông tin đã công bố quyết định của Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam về việc tặng giải thưởng Hồ Chí Minh và giải thưởng nhà nước về văn học nghệ thuật. Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ được là 1 trong 47 nhà văn được giải thưởng nhà nước với chùm tác phẩm: Đề tặng một giấc mơ (tập thơ 1988), Trái tim sinh nở ( tập thơ - 1974), Bài thơ không năm tháng (tập thơ - 1983). Nhân dịp ngày Quốc tế phụ nữ 8-3, TCSH xin giới thiệu bài viết của nhà thơ Ngô Minh về nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ.
BÙI VIỆT THẮNGVịt trời lông tía bay về (*) là sự lựa chọn có thể nói rất khắt khe của chính nhà văn Hồng Nhu, rút từ cả chục tập và chưng cất ba mươi truyện ngắn tiêu biểu của gần trọn một đời văn. Con số 33 là ít những không là ít vì nhà văn ý thức được sâu sắc quy luật nghiệt ngã của nghệ thuật ngôn từ “quý hồ tinh bất quý hồ đa”. 33 truyện được chọn lọc trong tập sách này có thể gọi là “tinh tuyển truyện ngắn Hồng Nhu”.
PHẠM PHÚ PHONGPhạm Đương có thơ đăng báo từ khi còn là sinh viên khoá bốn, khoa Ngữ văn đại học Tổng hợp Huế. Đó là thời kỳ anh sinh hoạt trong câu lạc bộ văn học của thành đoàn Huế, dưới sự đỡ đầu của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm (lúc này vừa rời ghế Bí thư thành đoàn, sang làm Tổng biên tập Tạp chí Sông Hương vừa mới thành lập.)
HÀ KHÁNH LINHNgười lính chiến trở về bỏ lại một phần thân thể của mình trên trận mạc, tựa vào gốc nhãn hoang bên vỉa hè lầm lụi kiếm sống, thẳng ngay, chân thật, khiêm nhường.
PHẠM XUÂN NGUYÊNTrong Ngày Thơ Việt vừa qua, một tuyển tập thơ “nặng hàng trăm năm” đã được đặt trang trọng tại Văn Miếu Quốc Tử Giám Hà Nội. Rất nhiều những bài thơ xứng đáng với danh xưng hay nhất thế kỷ XX đã “biện lý do” vắng mặt, và ngược lại. Đấy là một trong nhiều sự thật được đa phần dư luận kiểm chứng. Cũng là một góc nhìn khá rõ nét, Sông Hương xin giới thiệu ba bài viết của Phạm Xuân Nguyên, Nguyễn Hữu Qúy và Phước Giang về tuyển tập thơ “nặng ký” trên.
NGUYỄN HỮU QUÝCuộc thi bình chọn 100 bài thơ hay nhất Việt Nam thế kỷ XX do Trung tâm Văn hoá doanh nhân và Nhà xuất bản Giáo Dục phối hợp tổ chức đã kết thúc. Một ấn phẩm mang tên “100 bài thơ hay nhất Việt thế kỷ XX” đã được ra đời. Nhiều người tìm đọc, trong đó có các nhà thơ và không ít người đã tỏ ra thất vọng, nghi ngờ.