Những bài viết và chức danh của nhà báo Hải Triều chưa có trong 'Hải Triều toàn tập'

16:18 24/11/2014

DƯƠNG PHƯỚC THU

Chiều ngày 12/5/2014, tôi nhận được món quà vô cùng quý giá, đó là cuốn sách Hải Triều Toàn Tập do chính gia đình của Nhà văn hóa, Nhà báo Hải Triều gửi tặng.

Cuốn sách quý này vừa được Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia - Sự thật ấn hành “Nhằm tôn vinh những cống hiến của Hải Triều Nguyễn Khoa Văn trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa và hướng tới kỷ niệm 60 năm ngày mất của ông (6/8/1954)”, mới ra mắt bạn đọc vào tháng 4 năm nay, mà chỉ mở có vài trang tôi đã cảm nhận được mùi thơm tinh nguyên của giấy mực. Tôi thích thú đọc liền ba ngày.

So với lần đầu Hải Triều Toàn Tập được Nhà xuất bản Văn học thực hiện vào năm 1996, chỉ mới có 64 bài; lần này được bổ sung thêm 17 bài nữa của Hải Triều. Tổng cộng có 81 bài viết và 5 phụ lục với một số hình phụ bản, cùng lời giới thiệu của Tiến sĩ Vũ Ngọc Hoàng, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Phó Trưởng ban Thường trực Ban Tuyên giáo Trung ương, và 1 bài của Tiến sĩ Phạm Hồng Toàn, 1 bài của nhà nghiên cứu Chu Giang… cuốn sách dày hơn bảy trăm trang, khổ 16 x 24cm, đóng bìa cứng khá xinh xắn. Quả là món quà rất quý đối với người làm báo, nhất là với những ai muốn tìm hiểu, nghiên cứu sâu về lịch sử báo chí cách mạng Việt Nam.

Theo người Chủ biên cuốn sách thì Hải Triều Toàn Tập xuất bản lần này được bổ sung thêm 17 bài viết của Hải Triều, trong đó có 16 bài do chính nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm - con trai của Hải Triều Nguyễn Khoa Văn tìm ra và 1 bài do Tiến sĩ Phạm Hồng Toàn sưu tầm được…

Trong mấy năm qua, thực hiện chủ trương của lãnh đạo tỉnh Thừa Thiên Huế, Hội Nhà báo tỉnh đã cử cán bộ đi nhiều nơi sưu tầm nguồn tư liệu báo chí để phục vụ cho việc biên soạn cuốn Lịch sử Báo chí Thừa Thiên Huế, từ sơ khởi đến 2015. Chúng tôi đã tìm được đủ 9 số báo Nhành Lúa và phát hiện ra ở đấy còn nhiều bài viết của Hải Triều chưa in lại ở vào bất cứ cuốn sách nào cả. Dưới đây là những bài viết của Hải Triều đăng trên Nhành Lúa chưa có trong Hải Triều Toàn tập nói trên:

1. Một bức thư trả lại cho người gửi, Nhành Lúa số 1, ra ngày 15/1/1937.

2. Những lời nói mà người dân Đông Dương không bao giờ quên, Nhành Lúa số 2, ra ngày 22/1/1937.

3. Hỏi… trả lời: Kinh tế - Xã hội - Chính trị - Quốc tế - Văn hóa (viết chung với Hải Thanh), Nhành Lúa số 2, ra ngày 22/1/1937.

4. Chúng tôi rất phàn nàn về sự cấm 2 tờ báo Tiếng Trẻ, Hà Nội cùng các tờ báo khác gần đây, Nhành Lúa số 3, ra ngày 29.1.1937.

5. Hỏi… trả lời: Kinh tế - Xã hội - Chính trị - Quốc tế - Văn hóa (viết chung với Hải Thanh), Nhành Lúa số 3, ra ngày 29/1/1937.

6. Hỡi anh em chị em thợ thuyền, hỡi anh em chị em dân cày, hỡi anh em chị em học sanh, hỡi những người bị áp bức, hãy đi đón rước ô. Godard cho đông, Nhành Lúa số 4, ra ngày 5/2/1937.

7. Một công trình vĩ đại của lịch sử loài người Mười chín năm kiến thiết xã hội chủ nghĩa ở Liên bang Sô -Viết, Nhành Lúa số 6, ra ngày 19/2/1937.

8. Hơn một vạn quần chúng nông, công, học sanh và tiểu thương rước viên Lao công Đại sứ của Chánh phủ chiến tuyến bình dân, Nhành Lúa số 8, số đặc biệt về việc đón ông Godard, ra ngày 5/3/1937.

9. Lại vấn đề ngôn luận tự do: Báo Dân Quyền được trắng án, Báo Le Travail lại bị đưa ra tòa. Nhành Lúa số 9, ngày 19/3/1937.

Sau khi tìm được thêm 9 bài viết trên của Hải Triều, chúng tôi trân trọng chuyển đến nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm để ông bổ sung vào tập tư liệu gia đình. Trong khoảng thời gian này chúng tôi vẫn tiếp tục sưu tầm tư liệu ở các thư viện trong và ngoài Thừa Thiên Huế và rất may, đã tìm thêm được 2 bài nữa của Hải Triều đăng trên Báo Phụ Nữ Tân Tiến:

1. Ông Hoàng Tăng Bí với vấn đề Phụ nữ - Đáp lại bài: Ý kiến của hai nhà đại chính trị đối với Phụ nữ Trung Bắc Tân Văn ngày 9/2/34, đăng ở mục Bình đàn, Phụ Nữ Tân Tiến số 3, ra ngày 5/3/1934.

2. Sau khi đọc quyển La Condition humani của André Malraux, Phụ Nữ Tân Tiến số 4, ra ngày 5/4/1934.

Riêng bài “Ông Phan Khôi là một học giả duy tâm” đăng ở số 1 Phụ Nữ Tân Tiến ra tháng 2/1934, đã đưa vào Hải Triều Toàn Tập rồi.

Ngoài ra cũng cần bổ sung và đưa vào thư mục trong Hải Triều Toàn Tập những tờ báo đã in tác phẩm của Hải Triều.

1. Báo Phụ Nữ Tân Tiến (bộ mới). Chủ bút: Phạm Bá Nguyên, xuất bản ở Huế vào tháng 2/1934 và chỉ ra được 4 số, thì có 3 số (1, 3 và 4) đăng bài của Hải Triều.

2. Nhật báo Ánh Sáng. Chủ bút: Tôn Quang Phiệt từ số 2 đến số 23, xuất bản ở Huế năm 1935, ra được 52 số; các số 23 và 24 ra tháng 4 và 5/1935, đăng trọn vẹn bài Nghệ thuật vị nghệ thuật hay nghệ thuật vị nhân sinh của Hải Triều. Bài này trước đó đăng ở Báo Đời Mới, Hà Nội, tháng 3 và 4/1935.

Như vậy, tính từ tháng 3/1928 đến lúc lâm bệnh qua đời vào ngày 6/8/1954, Hải Triều đã viết nhiều bài bút chiến nổi tiếng, nhiều bài có nội dung về triết học, chính trị, kinh tế học, văn hóa, văn học, báo chí… cho 27 tờ báo lớn trong Nam ngoài Bắc và ở Liên khu IV. Cộng tất cả những bài viết của ông thì hiện có 93 tác phẩm đã tìm ra. Và có thể vẫn còn một số bài viết của Hải Triều nằm lại đâu đó mà chúng ta chưa tìm thấy?

Trong quá trình sưu tầm nghiên cứu, chúng tôi nhận ra rằng, tất cả các bài viết của Hải Triều dù được in thành sách từ những năm ba mươi hay sau này mới in lại thành toàn tập thì ban đầu đều là những tác phẩm báo chí được Hải Triều viết để đăng trên báo chí, rồi sau đó mới in thành tập.  

Với Hải Triều, ngoài tư cách là một người viết báo đích thực, ông còn tham gia tích cực vào công việc tổ chức nội dung của các tờ báo.

Dưới vai trò Biên tập: Hải Triều có chân trong Ban Biên tập của tờ tuần báo Sông Hương Tục Bản và Báo Dân của Xứ ủy Trung Kỳ; tờ Xã Hội Mới và Tạp chí Ánh Sáng cơ quan cổ động tuyên truyền của Hội Nghiên cứu chủ nghĩa Các Mác Trung Bộ; Tạp chí Đại Chúng của Liên đoàn Văn hóa Cứu quốc Trung Bộ; Tạp chí Tiên Phong cơ quan vận động văn hóa mới của Hội Văn hóa Cứu quốc Việt Nam…

Dưới vai trò Chủ nhiệm, Tổng Biên tập: Hải Triều trực tiếp làm Tổng Thư ký Tòa soạn báo Nhành Lúa của Xứ ủy Trung Kỳ; Chủ nhiệm Tạp chí Tìm Hiểu của Chi Hội Nghiên cứu Chủ nghĩa Mác Liên khu IV từ tháng 3/1949 đến đầu tháng 8/1954; Chủ nhiệm Báo Thi Đua Ái Quốc Liên khu IV từ tháng 7/1948. Báo Thi Đua Ái Quốc xuất bản mỗi tháng hai kỳ, khổ 20 x 26cm, mỗi số có 16 trang cả bìa; số 1 ra ngày 15/7/1948, ra được trên tám số mà chúng tôi vừa tìm thấy. Theo ngày tháng ghi ở trang 2 phần “lý lịch” tờ báo thì Hải Triều làm Chủ nhiệm tờ Thi Đua Ái Quốc trước khi làm Chủ nhiệm Tạp chí Tìm Hiểu đến 9 tháng.

Nhưng trước hết và hơn hết Nguyễn Khoa Văn là một nhà báo đích thực, nhà báo cách mạng tài năng, với sinh lực dồi dào, trí tuệ mẫn tiệp, tính cách mạnh mẽ, quyết liệt, không chịu khoan nhượng trước những quan điểm lệch lạc về tư tưởng, học thuật; ông viết nhiều bài bút chiến vô cùng xuất sắc khi mới ngoài hai mươi tuổi. Bài báo đầu tiên của Nguyễn Khoa Văn có tựa đề Cuộc chiến tranh thế giới sau này đăng 4 kỳ trên Báo Tiếng Dân của Tiến sĩ Nho học Huỳnh Thúc Kháng, các số 66, 67, 69, 70; kỳ thứ nhất ra ngày 31/3/1928, dưới bút danh Xích Nam Tử (Chàng trai đỏ). Từ đấy ông luôn cộng tác với Tiếng Dân và nhiều tờ báo khác bằng những bài viết sắc sảo, lời lẽ đanh thép. Sau năm 1932, ông mới lấy bút danh Hải Triều (Sóng biển), bút danh này đã gắn với cuộc đời hoạt động chính trị, văn hóa, văn học nghệ thuật, nghiệp cầm bút hơn cả tên thật của ông. Bút danh Hải Triều đã trở nên thân thiết với bạn đọc từ rất lâu, chính vì thế mà có nhiều người biết đến Nhà báo, Nhà tư tưởng Hải Triều nhiều hơn là Nguyễn Khoa Văn!

Cách mạng Tháng Tám thành công, Hải Triều hăm hở ra Hà Nội nhận công tác một thời gian rất ngắn ở Bộ Thông tin Tuyên truyền, rồi ông được lệnh trở về Huế. Từ giữa tháng 9/1945 đến hết năm 1946, Hải Triều hoạt động sôi nổi ở vùng đất Cố đô; ông tham gia tích cực trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là công tác chỉ đạo, tuyên truyền chính trị, văn hóa, văn nghệ và báo chí.

Với tư cách là Giám đốc Sở Thông tin Tuyên truyền Trung Bộ, ông có nhiều buổi nói chuyện về “nền văn học Việt Nam dưới thời Pháp - Nhật thuộc” tại nhà Đại chúng ở đường Hàng Bè, thành phố Huế. Vào giữa tháng 9/1945, Hải Triều cùng Thanh Tịnh, Hoài Thanh hiệu triệu anh chị em văn nghệ sĩ, báo chí để thành lập Liên đoàn Văn hóa Cứu quốc Trung Bộ.

Báo Quyết Chiến, số 19, ra ngày 15/9/1945 Thông báo: “Tối thứ ba ngày 18 tháng 9, vào hồi 7 giờ tối sẽ có cuộc hội nghị các nhà văn, nhà báo, kịch sĩ, họa sĩ, nhạc sĩ và các nhà nhiếp ảnh tại Sở Tuyên truyền Thuận Hóa. Để bàn chuyện thiết lập một Liên đoàn Văn hóa Trung Bộ với mục đích cấp thiết tham gia vào công cuộc cứu quốc của toàn thể đồng bào Việt Nam”.

Theo Thông báo này thì Ban tổ chức mời tất cả các giới văn nghệ đến dự “cho đông đủ” để bàn chuyện thiết lập một Liên đoàn Văn hóa Trung Bộ. Tại buổi họp tối hôm ấy Ban tổ chức lại quyết định thành lập Liên đoàn Văn hóa Cứu quốc Thừa Thiên, còn Đoàn Văn hóa Cứu quốc Trung Bộ thì mãi đến ngày 23 tháng 11 năm 1945 mới tổ chức được và do Nguyễn Lân (nhà văn Từ Ngọc) làm Chủ tịch.

Buổi thành lập ấy có “Hơn 50 nhà văn, nhà báo, nghệ sĩ ở Thuận Hóa họp tại Sở Tuyên truyền tối hôm 18/9/1945 đã lập xong Liên đoàn Văn hóa Cứu quốc Thừa Thiên. Liên đoàn này gồm có 4 ban: Văn học, Hội họa điêu khắc và kiến trúc, Âm nhạc, Ca kịch, dưới sự điều khiển của một Ủy ban chấp hành lâm thời 5 người:

Chủ tịch: Hoài Thanh; Phó Chủ tịch: Đào Duy Dếnh
Thư ký: Thanh Tịnh, Hà Thế Hạnh
Thủ quỹ: chị Quốc Thuận.

Chương trình và Điều lệ Liên đoàn do Ủy ban Chấp hành lâm thời dự thảo sẽ đưa ra thảo luận trong một cuộc Đại hội nghị các nhà văn, nhà báo, nghệ sĩ ở Thuận Hóa sắp tới”.

Và chỉ sau 4 ngày hoạt động lâm thời, Đại hội nghị Liên đoàn Văn hóa cứu quốc Thừa Thiên đã chính thức khai mạc như dự kiến. Quyết chiến số 26 ra ngày 23/9/1945, đưa tin về kết quả Đại hội chính thức lần thứ nhất: “Tối hôm 22/9, Liên đoàn Văn hóa Cứu quốc Thừa Thiên họp Đại hội nghị tại trụ sở Ban Tuyên truyền Trung Bộ, đã duyệt y điều lệ và chương trình hành động của Liên đoàn do Ủy ban Chấp hành lâm thời dự thảo và bầu Ủy ban Chấp hành chính thức như sau:

Chủ tịch: Hoài Thanh;
Phó Chủ tịch: Đào Duy Dếnh;
Thư ký: Hoàng Hữu Xứng, Thanh Tịnh;
Ủy viên tài chính: chị Quốc Thuận.

Liên đoàn dự định xuất bản một tờ tuần báo lấy tên là Đại Chúng và lập một Đoàn tuyên truyền lưu động sẽ đi khắp các huyện trong tỉnh”. (Trên thực tế Đại Chúng đã xuất bản được bốn kỳ).

Trụ sở tạm thời của Liên đoàn đóng ở số 2 đường Nguyễn Tri Phương; về sau chuyển qua số 35 đường Hàng Bè, Thuận Hóa.

Ban Chấp hành Liên đoàn Văn hóa Cứu quốc Thừa Thiên vừa mới hoạt động được ba tháng, do yêu cầu của cách mạng trước tình hình mới, một số cán bộ của Liên đoàn được điều động nhận công tác khác - như Hoài Thanh chuyển ra Hà Nội, nên Liên đoàn quyết định tổ chức Đại hội nghị để bầu lại Ban Chấp hành.

Theo Quyết Chiến số 103, ra ngày 22/12/1945 thì “Đại hội nghị Đoàn Văn hóa Cứu quốc Thừa Thiên đã họp vào lúc 8 giờ tối ngày thứ năm 20/12/1945 tại Trụ sở Ban Tuyên truyền Trung Bộ đã bầu lại Ban Chấp hành và bàn nhiều vấn đề quan hệ khác”.

Ban Chấp hành mới Liên đoàn Văn hóa Cứu quốc Thừa Thiên gồm các anh:

Hải Triều: Chủ tịch;
Nguyễn Xuân Dương: Phó Chủ tịch;
Dương Kỵ: Thư ký;
Vương Tứ Ba: Phó Thư ký;
Trần Đình Giám: Thủ quỹ.

Trên cương vị Giám đốc Sở Thông tin Tuyên truyền Trung Bộ, Hải Triều còn kiêm giữ chức danh Chủ tịch Liên đoàn Văn hóa Cứu quốc Thừa Thiên cho đến đầu năm 1947, khi ông cùng cơ quan và gia đình rời Huế.

Huế, tháng 8/2014
D.P.T  
(SH309/11-14)





 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • XUÂN CANGNhờ cuốn hồi ký nhỏ Ngày ấy Trường Sơn (Nxb Hội Nhà văn - Hà Nội - 2000) của Nguyễn Khoa Như Ý- tên khai sinh của Hà Khánh Linh, bạn đọc được biết đây là một nhà văn nữ có khí chất không bình thường. Một người con gái mảnh dẻ, nhưng có chí, mơ mộng, ham hành động, vì nghĩa lớn mà dấn thân vào nơi nguy hiểm.

  • Sau Vị giáo sư và ẩn sĩ đường, Ba lần đến nước Mỹ, trong năm 2002, GS. Hà Minh Đức tiếp tục ra mắt bạn đọc tác phẩm Tản mạn đầu ô. Vậy là trong khoảng 5 năm, bên cạnh một khối lượng lớn những tác phẩm nghiên cứu, lý luận, phê bình, ông đã sáng tác 3 tập thơ và 3 tập bút ký. Đó là những con số mang nhiều ý nghĩa thể hiện sự "đa năng" của một đời văn tưởng đã yên vị với nhiều danh hiệu cao quý và hơn 30 tập sách nghiên cứu, lý luận, phê bình. Tản mạn đầu ô ra đời được dư luận chú ý, quan tâm. Sau đây là cuộc trao đổi giữa PGS. TS Lý Hoài Thu với GS. Hà Minh Đức xung quanh tập sách này.

  • HUỲNH HẠ NGUYÊN         (Đọc tập thơ "Khúc đêm" của Châu Thu Hà - Nxb Thuận Hoá - 11/2002)...Thơ Châu Thu Hà mang đậm nữ tính. Khi trái tim biết cười, hay khi giàn giụa nước mắt, ta bỗng thấy quý sao những phút sống chân thành với cuộc đời, với mọi người. Châu Thu Hà không để trái tim mình tuột xuống phía bên kia triền dốc, chị cố bước tới và neo lại, để thấy mình được xẻ chia, được yêu chiều, xoa dịu...

  • LÊ MỸ Ý (L.M.Y):  Thưa nhà thơ, là một người có thể tạm gọi là thuộc thế hệ đi trước nhưng lại luôn "gây sốc" bằng những tác phẩm tìm tòi mới, chắc hẳn ông có quan tâm nhiều đến thế hệ thơ trẻ? Có thể có một nhận xét chung về thơ trẻ hiện nay chăng?NHÀ THƠ HOÀNG HƯNG (H.H): Tất nhiên là tôi rất quan tâm. Nhận xét chung của tôi về thơ trẻ bây giờ là đa số vẫn mang tính phong trào. Có thể nói là những người làm thơ trẻ vẫn đi theo một vết mòn của thế hệ trước, chưa thấy rõ những bứt phá, chỉ nổi lên một số tác giả theo cách lẻ tẻ.

  • Tại sao cô chỉ làm thơ tự do?- Trước hết, bởi tôi thích tự do. Tự do ở đây, được hiểu là: nói, làm, dám mơ ước và tham vọng tất cả những gì mình muốn, không bị tác động và chi phối bởi ai, bởi bất cứ điều gì.

  • NGUYỄN THỤY KHA Đã là lạ tên một tác phẩm khí nhạc mang tực đề "Eo lưng" của nữ nhạc sĩ Kim Ngọc. Lại thu thú khi đọc tập thơ "Nằm nghiêng" của nữ thi sĩ Phan Huyền Thư. Một thế kỷ giải phóng của Việt Nam thật đáng kính ngạc.Cái cách giải phóng mình, phái yếu trong đó có mình của Phan Huyền Thư là sự độ lượng với cũ kỹ, là mỉa mai sự nửa vời, là quyết liệt lặng lẽ vươn tới cách tân theo một thế của “Nằm nghiêng”.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠOCòn nhớ mùa Huế mưa 1992, Nguyễn Khắc Thạch và Ngô Minh đến nhà tôi chơi, mang theo bản thảo đánh máy tập thơ đầu tay của một tác giả mới 20 tuổi có tên là Văn Cầm Hải. Một cái tên lạ mà tôi chưa nghe bao giờ. Những bài thơ của anh cũng chưa hề xuất hiện trên mặt báo. Nguyễn Khắc Thạch và Ngô Minh đều nói rằng; "Thơ tay này lạ lắm. Ông xem thử".

  • NGUYỄN QUANG HÀNgồi đọc NGÀN NĂM SAU mà như đang ngồi nói chuyện tay đôi với Nguyễn Trọng Bính. Giọng thơ anh cũng cứ chân chất, yêu quê hương và say đời như chính con người anh. Từ thời chiến tranh, chúng tôi đã ở trong rừng với nhau. Cứ ngồi với nhau là bộc bạch hết. Một lá thư riêng, một rung động mới, chúng tôi cũng chia sẻ với nhau.

  • PHAN THÀNH MINHĐó cũng là tựa đề tập thơ rất dễ thương của Trần Tịnh Yên - nhà thơ của đất kinh kỳ thơ mộng thuở nào - thú thật  là tôi đã vô cùng hạnh phúc khi nhận được tập thơ này do chính  tác giả gởi tặng, dễ thương ở chỗ khổ giấy nhỏ nhắn, trình bày đẹp trang nhã, sách 80 trang với 46 bài thơ cũng mỏng mảnh như thế nhưng nhìn rất thơ, càng thơ hơn nữa khi chính tác giả tự viết lời phi lộ cho mình, tôi rất hợp với anh ở điểm này bởi lẽ chẳng ai có thể thay thế cho mình bằng mình để nói hộ những gì mình muốn nói...:...năm xưa qua ngõ sân đìnhcó người nhặt được mối tình ai rơi

  • NAM NGỌC            (Về tập truyện ngắn mới nhất của nhà văn Võ Thị Xuân Hà do Công ty Truyền thông Hà Thế liên kết NXB Phụ nữ xuất bản và phát hành quý I năm 2009)Tập truyện gồm 14 truyện  ngắn, với những mô típ khác nhau nhưng cùng chung gam màu thấm đẫm chất liệu hiện thực. Tất cả đã tạo nên một chỉnh thể thống nhất mà ở đó các nhân vật dù xấu dù tốt cũng đều hướng tới cái đẹp, cái nhân bản của con người. Cách viết truyện lạ cùng với những chi tiết, tình tiết được lắp ghép một cách khéo léo, Võ Thị Xuân Hà đã một lần nữa gây ngạc nhiên cho người đọc bằng bút pháp ẩn không gian đa chiều của mình.

  • BÍCH THUHơn một thập niên trước đây, với hai truyện ngắn Hồi ức của một binh nhì và Vết thương lòng, Nguyễn Thế Tường đã đoạt giải cao trong cuộc thi truyện ngắn do Tạp chí Văn nghệ quân đội tổ chức năm 1992 - 1994. Tôi còn nhớ một trong số các nhà phê bình đã thành danh của nhà số 4 Lý Nam Đế không kìm được cảm xúc của mình với chùm truyện dự thi của Nguyễn Thế Tường lúc ấy đã thốt lên: “Tôi thích truyện ngắn Nguyễn Thế Tường”. Từ đó đến nay, Nguyễn Thế Tường vẫn miệt mài viết và lặng lẽ ra sách. Người đàn bà không hoá đá là lần ra mắt thứ năm của anh.

  • HOÀNG VŨ THUẬT                (Đọc “Trăng đợi trước thềm”, thơ Hải Bằng, NXB Thuận Hoá - 1987)Đổi mới là trách nhiệm vừa là bổn phận đang diễn ra sôi động trong đời sống văn học hôm nay. Nhưng ranh giới giữa cũ và mới không dễ dàng phân định khi đánh giá một tác phẩm văn chương nghệ thuật.

  • ĐINH NAM KHƯƠNG               (Nhân đọc “ru em ru tôi” Thơ Trương Vĩnh Tuấn NXB: Hội nhà văn - 2003)Có một nhà thơ nổi danh thi sĩ, làm “quan” khá to ở báo văn nghệ. Nhưng chẳng bao giờ thấy ông vỗ ngực, ngạo mạn nói lời: “ta là quan đây” mà ông luôn dân giã tự gọi mình là hắn, xưng hô với bạn bè là mày tao:                          “...Hình như hắn là nhà quê                          Hình như hắn từ quê ra...”                                                                (Gốc)

  • NGÔ MINHKhông thể đếm là tập thơ đầu tay của cây bút nữ Nguyễn Thị Thái người Huế, sống ở thành phố Buôn Ma Thuột vừa được NXB Thuận Hóa ấn hành. Tôi đã đọc một mạch hết tập thơ với tâm trạng phấn khích. Tập thơ có nhiều bài thơ hay, có nhiều câu thơ và thi ảnh lạ làm phấn chấn người đọc.

  • MINH KHÔICuối tháng bảy vừa qua, giáo sư ngôn ngữ và văn chương Wayne S.Karlin và nữ phóng viên Valerie, công tác ở một Đài phát thanh thuộc bang Maryland, Mỹ đã đến Huế tìm thăm nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ, để chuyển cho chị bản hợp đồng in ấn và phát hành tập thơ Green Rice (Cốm Non) do cơ quan xuất bản gửi từ Mỹ sang.

  • FRED MARCHANTCó những vết thương chẳng thể nào lành lặn và có những nỗi đau chẳng bao giờ mất đi. Kinh nghiệm nhân loại khuyên ta không nên “chấp nhận” hay “bỏ đi” hay “vượt lên” chúng. Với một con người mà tâm hồn thương tổn vì đã làm cho người khác khổ đau hay chứng kiến nhiều nỗi đau khổ thì những câu nói như thế hoàn toàn vô nghĩa.

  • BÍCH THU          (Đọc thơ Dòng sông mùa hạ của Hoàng Kim Dung. NXB Hội Nhà văn, 2004)Nhìn vào tác phẩm đã xuất bản của Hoàng Kim Dung, tôi nhận thấy ở người phụ nữ này có sự đan xen giữa công việc nghiên cứu khoa học với sáng tạo thi ca. Ngoài bốn tập thơ và bốn cuốn sách nghiên cứu về nghệ thuật đã in, với tập thơ thứ năm có tựa đề Dòng sông mùa hạ mới ra mắt bạn đọc, đã làm cán cân nghiêng về phía thơ ca.

  • ĐÔNG HÀVăn hoá và văn học bao giờ cũng có một mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Có thể thấy rằng văn học là một bộ phận của văn hoá, nó chịu sự ảnh hưởng của văn hoá. Khi soi vào một thời kì văn học, người đọc có thể thấy được những khía cạnh về phương diện đời sống văn hoá tinh thần của một thời đại, một giai đoạn của xã hội loài người.

  • HÀ KHÁNH LINHViết được một câu thơ hay có khi phải chiêm nghiệm cả một đời người, hoàn thành một tập truyện, một tập thơ là sự chắt chiu miệt mài suốt cả quá trình, sau Đại hội nhà văn Việt Nam lần thứ VII Lê Khánh Mai liên tiếp trình làng tập thơ "Đẹp buồn và trong suốt như gương" (Nhà xuất bản Hội Nhà văn) và "Nết" tập truyện ngắn (Nhà xuất bản Đà Nẵng).

  • NGUYỄN TRỌNG TẠOCó người làm thơ dễ dàng như suối nguồn tuôn chảy không bao giờ vơi cạn. Có người làm thơ khó khăn như đàn bà vượt cạn trong cơn đau sinh nở. Có người không đầy cảm xúc cũng làm được ra thơ. Có người cảm xúc dâng tràn mà trước thơ ngồi cắn bút. Thơ hay, thơ dở, thơ dở dở ương ương tràn ngập chợ thơ như trên trời dưới đất chỉ có thơ. Thơ nhiều đến ngạt thở chứ thơ chẳng còn tự nhiên như hơi thở mà ta vẫn hoài vọng một thời.