Những bài ký của Miên Thẩm

14:27 25/11/2021

NGÔ THỜI ĐÔN

Trước tác của Tùng Thiện Vương Miên Thẩm (1819-1870) lâu nay mới được dịch thuật, giới thiệu ít nhiều ở phần thơ.

Chân dung Tùng Thiện vương - Ảnh: wiki

Miên Thẩm cũng có văn xuôi. Tập Thương Sơn Văn Di do người con trai nhà thơ là Hồng Phì, tự Sĩ Thắng sưu tầm và khắc in có 34 bài, thuộc các thể quen thuộc của cổ văn. So với các nhà thơ lớn của nước ta thời Nguyễn thì hơn ba mươi bài văn xuôi không phải là ít! Từ trước, có lẽ do ảnh hưởng của hai câu Văn như Siêu, Quát vô Tin Hán; Thi đáo Tùng, Tuy, thất Thịnh Đường mà người nghiên cứu chỉ nghĩ đến thơ của Tùng Thiện chăng? Hai ông Nguyễn Văn Siêu, Cao Bá Quát tuy có làm văn song hai ông thực sự nổi tiếng về thơ. Cho nên, hai câu ấy là nói chung thơ-văn, chứ không có ý tách bạch ông Siêu, ông Quát giỏi văn (văn xuôi); ông Tùng, ông Tuy hay thơ (văn vần). Ở ta, có nhiều nhà thơ chỉ làm thơ, không làm văn hoặc ngược lại; Miên Thẩm là loại tác giả vừa có thơ, vừa có văn. Thực tế thì Miên Thẩm làm thơ nhiều hơn văn, nên vì thế mà giới nghiên cứu chú trọng dịch thuật, giới thiệu về thơ? Sự thật không hẳn thế. Công việc dịch thuật vốn rất gian nan nên khó đáp ứng kịp thời mọi nhu cầu của người nghiên cứu muốn có tất cả thơ văn của một nhà.

Đọc kỹ tập Thương Sơn Văn Di, người viết cũng rất mong giới thiệu tất cả, song thấy không thể chu tất được. Vì thế, trong bài viết này, người viết chỉ xin dịch và giới thiệu qua về mảng ký của Miên Thẩm, mong sao cung cấp được một vài nét về tâm hồn tế nhị, chân thành của Miên Thẩm, một nhà thơ lớn của xứ Huế thời Nguyễn.

Miên Thẩm đã viết các bài ký: Con ngựa trng xám chất phác; Am An Dưỡng; Đề tên vào núi Ngũ Phong; Biệt hiệu Thương Sơn; Đình Sở Tụng; Ruộng tự đin Thanh Lam; Trại ruộng Cu Hậu. Nhìn chung, đây là những bài viết về Huế và các vùng phụ cận. Ký của Miên Thẩm xinh xắn, gọn gàng, không nhiều chi tiết, hình ảnh rực rỡ; nói như bây giờ, chúng không "đầy ắp" "ngồn ngộn" hiện thực. Chúng chỉ là những nét vẽ nhẹ nhàng, thanh thoát, những ý gợi hơn là tả. Chúng đơn sơ, im ắng như con đường vào núi Ngũ Phong. “Từ Dương Xuân, đi thuyn đến An cựu, lên bộ, theo đường thiên lý vào Nam, chưa đầy ba dặm, rẽ phi là đến núi Ngũ Phong". Cảnh sắc thiên nhiên trong bài ký cũng vậy, nó có vẻ tiêu sơ, thoáng ẩn thoáng hiện nhưng lại đậm đà phong vị cảnh Huế xưa: "Phía Tây chùa có mái nhà tranh, dưới nhà là khe sui, chảy từ đá trúc ra, đưa cao tiếng đàn, tiếng sáo quanh chùa. Nước rửa được, trúc cho bóng râm, khóm cao, khóm thp mọc theo suối quanh co, tạo nên cái thế như ngh ngơi, như ngửng lên, như đứt ri ni, như để dành cho thi nhân chỗ ngồi" (Ngũ Phong sơn đề danh ký)

Miên Thẩm rất yêu cảnh sắc quê hương. Huế đi vào thơ ông đã đẹp, Huế trong ký của ông cũng xinh lạ. Ngọn Thương Sơn, bến nước Thiên Mụ, Am An Dưỡng, núi Ngũ Phong... đều để lại cái vẻ riêng của chúng - trong ký của ông, từ thuở ấy. Ông muốn phả vào cảnh sắc thanh lịch của quê nhà cái tình đằm thắm của mình. Ngồi với vị sư già ở am An Dưỡng, trong một khoảng nhỏ vừa đủ thờ một pho tượng Di Đà, kê một chiếc giường, mà hai người nói chuyện say sưa quên cả trời chiều. "Giờ này, trời chiều sắp tắt, bn mặt núi non mây phủ, mưa lạnh theo gió đến, nước sui róc rách thành dòng, cùng ngi ở giường chùa, đun trà núi, nghe sui reo, lòng tự dưng phát sinh ý tưởng ngoại trn. Tôi hỏi Thượng Nhân: " trong ch ấy, "đắc" là thế nào ? Sư cười không đáp. Tôi xót xa, sư vừa già vừa bệnh, có mang quà tặng nhưng sư không nhận, tự nói là có hai người hu hạ trng rau đậu sớm tối đủ ăn, không mong cầu nhiu. Ôi, Thượng Nhân cũng rt kỳ lạ, đặc biệt đó chứ?" (Du An Dưỡng Am ký).

Đọc ký của Miên Thẩm, cùng ông đi lại, nhìn ngắm, cảm thông vẻ đẹp cảnh sắc quê nhà, không khỏi phát sinh ý tưởng muốn so sánh với hiện thực. Những gì Miên Thẩm ghi hồi ấy, hơn một trăm năm đã trôi qua mà hình như không thay đổi bao nhiêu (?) Trên mỏm đá trước bến Thiên Mụ, Miên Thẩm đã cùng bạn ngồi đó, nhìn lên một dải chập chùng ở phía Tây Nam mà "định vị" ngọn Thương Sơn. Thật rất lâu, người đọc văn cổ mới gặp một đoạn ký tha thiết về một ngọn núi quê hương như thế:

"Thương Sơn là núi của Phú Xuân; các ngọn Tây Nam kinh thành kết liền nhau, kéo dài quanh co, họp vẻ xanh, đua tranh vẻ đẹp, chẳng biết trong my ngọn tun tú, ni lên ch có ngọn này chăng ? Một hôm, tôi lên chùa Thiên Mụ, ngi sóng đôi với khách ở mỏm đá ni trên sông nói chuyện thời thế. Mặt trời lặn, khói núi chốc lát biến thành mưa nh ướt áo, nhìn bạn bảo: kết nhau kéo dài quanh co, họp vxanh, đua tranh v đp, m o không rõ, như có như không, trong mây mù nổi lên mà Thương Sơn vn sng sững đứng đó! Tôi bèn vịnh rng:

Giang thượng qun phong đạm dục vô,
Thiu thiều nhận vọng trung cô.
Nhược vi kht đắc Duy Ma bút
Trích th Thương Sơn tác họa đ

(Muôn núi trên sông như nhạt mờ,
Xa xa ngàn dặm vẻ đơn cô
Nếu xin được bút người Thi Phật,
Vẽ ly Thương Sơn, nét họa thơ !)

Thấy núi đẹp, Miên Thẩm muốn vẽ, nhưng tiếc là không có tài của Vương Duy, hiệu Duy Ma, nhà thơ kiêm họa sĩ tài hoa đời Đường, được người đời xưng là Thi Phật. Dù chưa vẽ, nhưng trong lòng ông, ngọn Thương Sơn đã hiện hình. Gọi là Thương Sơn vì núi ấy xa xanh lắm, tươi đẹp lắm, gọi như thế cũng là cách tỏ lòng ngưỡng mộ Viên Tử Tài, người đời Thanh. Khi về ở Giang Ninh, dưới chân núi Tiểu Thương, Tử Tài lấy hiệu là Thương Sơn. Tử Tài thuở trẻ tuấn kiệt, nhưng bước vào đời gặp toàn chuyện bất như ý, nên từ tuổi trung niên về sau, Tử Tài quay về vườn Tùy, làm thơ, viết văn kêu gọi khách giang hồ anh tuấn và thủy chung với vườn Tùy gần bốn mươi năm. Ý chí của Miên Thẩm thì có gì chưa giống với Tử Tài, nhưng tấm lòng Miên Thẩm đối với quê nhà thì như hòa được với Tử Tài. Tôi và Tử Tài, phong cách đến một nửa là không gặp nhau, lại sinh không cùng thời, đáng tiếc vậy. Giả sử cùng thời thì cũng cùng nhau viết ký đ truyền v sau...

Chọn Huế làm đất ở vĩnh viễn, vì ông sinh ra ở Huế, lớn lên ở Huế. Ông vốn có lòng yêu quý núi non, đồng bằng của Huế. Lòng yêu ấy lại thuận với ý muốn sống chân chất, thánh thiện, nên khi lỡ sinh ra trong cảnh quyền thế sang trọng, Miên Thẩm vẫn mong tự mình đi chân đất trên núi nhà, ruộng nhà, đường quê, Phò mã Phạm Kế không có con trai, Nguyệt Đình đã mua tám ruộng hơn ba mẫu ở Thanh Lam, ông cũng thấy lo và góp phần chăm sóc. Thân mẫu ông là bà Thục Tân, khi mất mọi thứ đều được chu toàn nhờ ơn vua lộc nước. Miên Thẩm không thấy yên lòng, vì mình chưa thể hiện đạo hiếu sau khi mẹ mất. Ông muốn tự mình làm thửa ruộng, vừa để bỏ thói "ngồi ăn không" vừa dâng lên mẹ tấm hình của người con thảo. Trại ruộng Cầu Hậu ra đời, ông gian nan vất vả tròn bốn năm, tốn kém mười mấy lượt, mất một vạn quan tiền. Khổ nổi gạch vụn ngổn ngang, đường cày va vấp, ruộng lại xa nước ngọt, mùa hè nước mặn dẫy lên... Miên Thẩm thường về đây đốc thúc con cháu người nhà dựng trại, đào mương, cấy cày... Ông tham dự cả những cuộc họp của phụ lão ba ấp Lễ Khê, Thế Lại, Bao Vinh, mừng rỡ khi họ chung lòng lo thủy lợi, khai mở chỗ tắc, đào lấp chỗ ngập. Kết quả bốn năm làm lụng, tiền hết, sức suy, nhưng ông tỏ ra lạc quan. Mỗi khi rỗi việc công, đến ruộng xem con trẻ, người nhà, cháu chắt cày bừa, nghĩ đến ngày lúa tốt dưa chín, cúng tổ tiên yến tiệc tân khách, một tiếng nói cười, ý xưa hòa mục (Hậu Kiều trang điền bi ký). Ông tự giác cái điều mà một kẻ sĩ chân chính thường tâm niệm "Cùng vui, cùng khổ với nông dân" Hạt thóc, bát cơm là mồ hôi nước mắt, không phải là của dễ dàng mà có. Ý chí tốt đẹp ấy đã tắm gội làm cho bản thân ông đã trong trẻo, thanh sạch nay lại thêm gần, thêm quí đối với người dân quê chân lấm tay bùn.

Dù sao, Miên Thẩm vẫn là một hoàng tử quyền quí, cho nên khi cúi mình trên khoảnh ruộng, ngập chân trong luống cày, không phải không băn khoăn trước dư luận thông thường. Miên Thẩm đã có lần soát xét lòng mình - một cách tự giác. May thay, vẻ sang trọng của ngựa xe, uy quyền của con vua cháu chúa không xóa nổi bản chất hồn hậu của ông! Phác thông ký (bài ký về ngựa trắng xám chất phác) là một câu chuyện tưởng tượng hơn là sự thật và rất đỗi cảm động về bản chất của chính ông! Miên Thẩm cho rằng trước khi Bá Nhạc - một người sành ngựa ở Trung Quốc - ra đời, ngựa rất chân chất, không hề biết gò bó, vinh nhục, roi ngọc, đàm ngà, yên báu ràng buộc, ông tưởng tượng chú ngựa ấy nói rằng: "K tôi tớ này sinh ra từ bờ cát lạnh, để c xanh. Tai gn, mắt bao, mũi lớn, đầu gi tròn, con ngươi tía, miệng đỏ, tài vượt hơn bầy..." Rồi, Bá Nhạc ra đời, ngựa hết chất phác. "Bỗng nhiên bờm ri, lông dơ, ti tăm ơn sáng, cúi đu hí gió, ngoái bóng tiếc thương !... Ăn thức ăn của người, mặc áo qun của người, thân thể thm ơn, râu lông cạo gọt, sự thờ chủ còn hơn thế này..."

Phác thông ký là nét bút nhọn và sắc Miên Thẩm ngầm tự họa chân dung mình. Bản chất của ông rất ghê sợ sự pha tạp, uốn nắn, sửa sang, cạo gọt, để rồi cung phụng suốt đời, xa hẳn tính tự nhiên.

Miên Thẩm yêu đường cày, hạt thóc bao nhiêu thì ông càng quí giọt mồ hôi của người dân lam lũ bấy nhiêu, càng muốn xây dựng nếp nhà thanh bạch, cần lao bội phần. Mái đình Sở Tụng dựng trong khoảnh vườn nhà ông thể hiện ước mơ mà thời Tống, nhà văn lớn Tô Đông Pha rất tha thiết. Ông Pha chỉ mong dựng đình Sở Tụng, trồng một trăm gốc quít, đến khi mất, ước mơ vẫn chỉ là ước mơ! Miên Thẩm đã dựng đình ấy, gọi là "nên ý ông Pha". "Đình thật bé, chứa được một chiếc giường một án thư mà thôi... Khi qut chưa chín, sau k sương giáng, mặt trời lặn phía trước, vẻ lung linh cao thấp trong chén rượu..." Đây là một "giang sơn thu gọn" đầy vẻ cảm thông, trân trọng. Những con người xưa đáng yêu đáng quí như Khuất Nguyên, Tô Đông Pha cũng có ở đâu đây "...Hoặc khi gặp bạn hin, mang rượu vào đình, khiến tiêu đồng mang giỏ theo giúp. Ung được một nửa rượu, hơi nóng phả trong gió thu, hát bài "ca cây quít” của Linh Quân, trông v phương Bắc, rót rượu xung đất, cảm khái tương liên ! Bình rượu vang lanh canh như muốn vỡ, tiểu đng, gia nhân kinh hãi ngoái lại cho là say ! Hoặc bo: Đây là em của Linh Quân! Hoặc cho là em của Đông Pha. Không ngớt luận bàn..."

(Sở Tụng đình ký)

Không, Miên Thẩm không say, ông còn tỉnh lắm. Đây chỉ là phút giây giũ hốt chút bụi còn vướng trong tâm của một nhà thơ hoàng tộc đáng yêu của Huế. Ngoài chốn triều đình phức tạp, ngoài mái gia đình còn bề bộn, hai nơi yên ổn, vỗ về được tâm hồn Miên Thẩm là núi rừng và ruộng đồng xứ Huế. Một nơi gieo mồ hôi để gặt hạt thơm, một nơi lắng lòng nghe mưa thấm áo, mắt nhòa đi vì sương khói tiêu sơ. Tất cả gom vào thơ ông, văn ông, vút cánh thơ ông, bay khỏi mái Sở Tụng đình, đưa hồn thơ Miên Thẩm chấp chới trong khoảng Hương Giang - Lợi Nông - Thương Sơn và kinh thành Phú Xuân thanh lịch và cần lao...

N.T.Đ
(TCSH50/07&8-1992)

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN THIỆN KHANH (Nhân đọc Phim đôi - tình tự chậm, Nxb. Thanh niên 2010)

  • LGT: Tuệ Nguyên, một nhà thơ trẻ dám dấn thân để lục tìm chất men sáng tạo ở những vùng đất mới với khát vọng cứu rỗi sự nhàm chán trong thi ca. Trong chuyến xuyên Việt, anh đã ghé thăm tạp chí Sông Hương. Phóng viên Lê Minh Phong đã có cuộc trò chuyện với nhà thơ trẻ này.

  • KHÁNH PHƯƠNG Lê Vĩnh Tài tự chẩn căn bệnh của thơ tình Việt Nam là “sến”, nghĩa là đa sầu đa cảm và khuôn sáo, bị bó buộc trong những lối biểu hiện nhất định. Rất nhanh chóng, anh đưa được lối cảm thức đương đại vào thơ tình, cái ngẫu nhiên, vu vơ, ít dằn vặt và không lộ ra chủ ý, dòng cảm xúc ẩn kín sau những sự vật tình cờ và cả những suy lý.

  • HỒ THIÊN LONGBạn đọc TCSH thường thấy xuất hiện trên tạp chí, và một số báo văn nghệ khác một số tên tuổi như về văn xuôi có: Lê Công Doanh, Phùng Tấn Đông, Châu Toàn Hiền, Nguyễn Minh Vũ, Trần Thị Huyền Trang, Phạm Phú Phong, Trần Thùy Mai…

  • FAN ANH 1. Sự đồng hành của “ba thế hệ viết trẻ”

  • HOÀNG THÁI SƠN (Về nhà thơ trẻ Xích Bích)

  • NHỤY NGUYÊN

    Đọc bài thơ, thương hốc mắt sâu thẳm của người mẹ chờ con lạc lối, bơ vơ ngay trên ngọn sóng quê nhà.

  • Kỷ niệm 100 năm ngày bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước & Ngày báo chí cách mạng Việt NamPHẠM PHÚ PHONG - HỒ DŨNGHơn ai hết, trong buổi bình minh của cách mạng nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người ý thức rất đầy đủ về sức mạnh của báo chí và dư luận xã hội trong đấu tranh cách mạng. Nó không chỉ là phương tiện giao lưu tư tưởng, mở đường cho văn hóa phát triển mà còn là vũ khí, là công cụ đấu tranh giai cấp, đấu tranh giải phóng dân tộc trên mặt trận tư tưởng.

  • ĐÔNG HÀHuế không phải là đất ở để thương mà chỉ là đất đi để nhớ. Nhiều thế hệ học sinh sinh viên đã đến, ở lại nơi này và rồi sau đó lại khăn gói ra đi. Nhưng đi không đành, nên thường để lại bằng những nỗi lòng trải dài theo khói sương bãng lãng của đất trời cố đô. Thành thử có một thời, Huế nên thơ trong mỗi áng văn chương của những người trẻ tuổi là vì vậy.

  • Mới đó mà đã gần ba mươi năm trôi qua, kể từ khi những văn nghệ sỹ trẻ xứ Huế cùng hội ngộ với nhau trong Câu lạc bộ Văn học Trẻ Huế những năm tám mươi thế kỷ hai mươi.

  • LTS: Nhà văn, nhà thơ Thanh Tịnh là người con của xứ Huế, ông sinh ra, trưởng thành và định hình như là một nhà văn ở đây.

  • PHẠM THƯỜNG KHANH - TRẦN XUÂN TUYẾT Trong số những di sản mà Hồ Chí Minh dành cho ngành Công an thì bức thư của Người gửi đồng chí Hoàng Mai - Giám đốc Công an Khu 12, ngày 11 tháng 3 năm 1948 - nói về Tư cách người Công an Cách mệnh là một di sản quý báu.

  • NGÔ MINH Nhà xuất bản Tri thức vừa ấn hành cuốn sách quý: “Đất nước Việt Nam qua Cửu Đỉnh Huế” của nhà văn Dương Phước Thu. Sách: biên khảo, lý giải rất chi tiết, rất sâu và cảm động từng chữ, từng hình ảnh khắc trên Cửu Đỉnh.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNCuốn sách non 220 trang không có phụ bản, bản đồ, tranh ảnh nào khác, giới thiệu. “Bức tranh chung về văn hoá Huế”.

  • LÊ THỊ BÍCH HỒNGTôi đến thăm gia đình cố nhạc sĩ Trần Hoàn trong tiết xuân lây phây mưa bụi. Bác Thanh Hồng - vợ nhạc sĩ, người con gái xứ Nghệ tạo thi hứng cho ca khúc Lời người ra đi bất tử cùng năm tháng niềm nở đón khách.

  • HỒNG NHU“Cánh chim trong bão tố” - NXB Hội Nhà văn Việt Nam - tự truyện của Nguyễn Thanh Song Cầm đến tay tôi vào một ngày mưa dầm xứ Huế ngày tháng 10 chưa cười đã tối. Một cây bút mới xuất hiện. Tôi đọc liền một mạch từ đầu cho đến cuối sách, từ lời giới thiệu cho đến phần vĩ thanh 476 trang.

  • ĐẶNG TIẾNNhật nguyệt dấu yêu là một mùa hoa trái trễ tràng, tập thơ đầu tay được tác giả gửi đến người đọc như một ủy thác, sau khi đã trải nghiệm cuộc đời, thực tế và văn học.

  • MAI VĂN HOAN(Nhân đọc “Quãng cách lặng im” của Xuân Hoàng)

  • TRẦN HIỆPTừ một nhà giáo, theo tiếng gọi “chống Mỹ , cứu nước”, Nguyễn Quang Hà lên đường ra trận, liên tục “bám trụ” chiến trường Thừa Thiên - Huế. Năm 1975 anh bị thương phải ra Bắc dưỡng bệnh và dự lớp bồi dưỡng viết văn của Hội Nhà văn Việt Nam ở Quảng Bá. Sau đó anh trở lại Thừa Thiên - Huế chiến đấu và công tác cho đến bây giờ. Cũng vì thế, hầu như đa phần sáng tác của anh dù là thơ, ký hay truyện đều viết về vùng đất này.

  • HOÀNG THỊ THU THỦY1. “Ngày khai trường áo lụa gió thu bay” không chỉ có trong “Mối tình đầu” của nhà thơ Đỗ Trung Quân, mà niềm háo hức, tươi xanh, mong đợi có cả trong bài thơ “Mỗi ngày” của thầy giáo Hoàng Ngọc Quý.