Những 'hạt giống đỏ' của lịch sử

08:59 29/11/2016

Lịch sử xã hội VN trong khoảng thời gian 1954 - 1975 đã ghi dấu sự hình thành cộng đồng học sinh miền Nam tại miền Bắc với những vai trò và đóng góp nhất định cho đất nước trước và sau năm 1975. Tuy nhiên, có rất ít công trình nghiên cứu về thế hệ học sinh đặc biệt này.

Những học sinh miền Nam học tập tại miền Bắc - Ảnh: T.L

Cuốn sách Học sinh miền Nam - Tư liệu và kỷ niệm do những học sinh miền Nam năm xưa thực hiện, trong đó nhà nghiên cứu Cao Tự Thanh (Cao Văn Dũng) làm chủ biên, NXB Văn hóa văn nghệ ấn hành, vừa ra mắt, gần như là công trình đầu tiên khái quát toàn diện về lịch sử học sinh miền Nam, cũng như mối quan hệ giữa cộng đồng đặc biệt này với lịch sử.

Những cuộc đời riêng trong vận mệnh chung của đất nước

Từ năm 1954 - 1975, khoảng 32.000 thanh thiếu niên miền Nam được đào tạo tại miền Bắc để góp sức giải phóng đất nước, xây dựng miền Bắc, cũng như tiếp quản miền Nam sau giải phóng, có thể chia thành 3 giai đoạn theo những tiến trình lịch sử của đất nước: 1954 - 1959, 1959 - 1964 và 1965 - 1975. Học sinh miền Nam có nhiều độ tuổi theo các cấp học khác nhau và được hưởng chế độ đãi ngộ đặc biệt. Tất nhiên trong hoàn cảnh thiếu thốn chung của đất nước, chế độ này tốt hơn so với mặt bằng chung, nhưng khó có thể đầy đủ.

Năm 1964, khi lên 9 tuổi, nhà nghiên cứu Cao Tự Thanh đã xa gia đình ra miền Bắc học tập trong ngôi trường nội trú. Cũng như những học sinh miền Nam khác, trong ông, những ký ức về khoảng thời gian ấy chưa khi nào phai mờ: “Khi vào trường học, chúng tôi không phân biệt xuất thân của mỗi người mà sống hòa đồng như trong một gia đình mới, hay đúng hơn là cả cộng đồng, môi trường xã hội mới. Không chỉ học tập với các thầy cô, chúng tôi còn “đào tạo” lẫn nhau như hát, đàn, đá bóng…”. Dù vậy, cuộc sống xa gia đình từ nhỏ góp phần tạo nên tính cách, ảnh hưởng tới cách ứng xử của học sinh miền Nam với 2 mặt “phải” và “trái”. “Học sinh miền Nam thường là những người có năng lượng sống mạnh mẽ”, nhà nghiên cứu Cao Tự Thanh cho biết. Tuy nhiên, theo ông, họ lại thiếu nhiều kỹ năng trong cuộc sống, chẳng hạn như chuyện nữ sinh vụng về không biết nấu ăn, đi chợ, trả giá, hay nhiều nam sinh không biết gấp chăn màn… là bình thường.
 
Những “hạt giống đỏ” của lịch sử 1
Bìa sách Học sinh miền Nam - Tư liệu và kỷ niệm Ảnh: C.T.T

Các cô bé, cậu bé cũng phải chịu nỗi cô đơn lớn khi xa gia đình. Ông Tống Quang Anh - một trong những học sinh miền Nam năm xưa, tập kết ra bắc từ năm 1954 nhớ lại: “Tết đến ở các trường học sinh miền Nam, những đứa có cha có mẹ, gia đình thì được người thân đón về sum họp. Đối với bọn tôi, sự khao khát mái ấm gia đình chỉ là khát khao, như những đứa trẻ trông ngóng ông bụt, bà tiên”. Theo gia đình tập kết ra bắc khi mới lên 3 tuổi, bà Đặng Thị Mai ngẫm lại thấy mình may mắn bởi dù sống xa gia đình nhưng vẫn biết còn mẹ, còn cha. “Một số bạn tôi không được như vậy, cô đơn, trơ trọi trên đời, không biết chắc chắn quê hương mình là ở đâu, chỉ có bạn bè trong lớp là gia đình, cô bảo mẫu là “má”, có bạn gần cuối đời mới tìm được mẹ, nhưng cũng có bạn không được cái hạnh phúc ấy”, bà Mai chia sẻ.
 
 
 
Những 'hạt giống đỏ' của lịch sử - ảnh 2

Học sinh miền Nam mặc dù hình thành trong một hoàn cảnh rất đặc biệt vẫn là sự kế thừa, thể hiện phẩm chất kiên nhẫn, khát vọng tự do, sức phấn đấu và nỗi đau thương của dân tộc VN, nhân dân VN

Những 'hạt giống đỏ' của lịch sử - ảnh 3
 

Nhà nghiên cứu Cao Tự Thanh

 
Ngoài ra, bởi ý thức rất rõ cộng đồng học sinh miền Nam là thế hệ nhân lực mới đang được “cộng sản” đào tạo, nên quân đội Mỹ luôn tìm cách tiêu diệt cộng đồng này. Máy bay Mỹ thường thả bom vào những ngôi trường học sinh miền Nam, khiến học sinh phải đi di tản, nhiều em đã chết vì bom Mỹ.
 
“Hạt giống đỏ” là ai ?
 
Trong cộng đồng học sinh miền Nam, theo nhìn nhận của nhà nghiên cứu Cao Tự Thanh có một thế hệ được gọi là “hạt giống đỏ”. Ông cho hay, rất nhiều “hạt giống” trong đó là con em của những cán bộ chủ chốt - nhiều người đã tham gia chống Pháp, chống Mỹ được coi là những “cây đỏ”. Cộng đồng “hạt giống đỏ” là những người được đào tạo dự kiến để trở thành lực lượng nòng cốt xây dựng xã hội miền Nam theo mô hình xã hội chủ nghĩa. “Việc xét các ngành học với từng cá nhân được chọn lựa kỹ dựa trên khả năng, tố chất, thể chất và hoàn cảnh gia đình”, nhà nghiên cứu Cao Tự Thanh cho biết. Chẳng hạn như, ngay chính ông - một trong những người thuộc thế hệ “hạt giống đỏ”, tại Trường Học sinh miền Nam, được nhìn nhận có khả năng văn học. Hiện ông là một trong những nhà nghiên cứu về văn học sử và văn hóa sử hàng đầu tại VN.
 
“Tôi sinh ra ở Bình Thuận trong giai đoạn chống Pháp gian khổ, theo cha mẹ đi khắp nơi, việc học hành bị gián đoạn bởi chiến tranh. Khi tập kết ra bắc, tôi được học tập tại Trường Học sinh miền Nam, học văn hóa, phát triển toàn diện. Quãng thời gian này đã giúp tôi hình thành tích cách, nhận thức, cũng như thành công với nghề nghiệp sau này”, NSND Trà Giang cho hay. Trong trường, bà đã bộc lộ khả năng và được đào tạo về nghệ thuật. Sau này, bà quyết định đi theo nghiệp điện ảnh, trở thành học viên của khóa diễn viên đầu tiên của trường điện ảnh tại Hà Nội. Thế hệ của bà đã trở thành lứa nghệ sĩ là lực lượng nòng cốt của điện ảnh VN trong suốt một thời gian dài.
 
Sau khi đất nước thống nhất, nhiều người trong cộng đồng “hạt giống đỏ” trở về tiếp quản miền Nam. Dù nhiều người đã gặp khó khăn trong việc hòa nhập, nhiều người đi theo con đường khác với con đường họ đã được đào tạo, nhưng không thể phủ nhận, với nền tảng kiến thức được tiếp thu tại miền Bắc, không ít người đã trở thành những người đi đầu trong các lĩnh vực của đất nước, có người đi theo con đường chính trị, trở thành doanh nhân, tiếp quản các xí nghiệp, nhà máy, trở thành nhà nghiên cứu. Nhiều “hạt giống” trong cộng đồng học sinh miền Nam đã trở thành những chính trị gia tên tuổi như Phan Văn Khải, Trần Đức Lương, Trương Quang Được, Nguyễn Bá Thanh, Nguyễn Xuân Phúc, Trương Hòa Bình… hay những văn nghệ sĩ xuất sắc như Trà Giang, Lê Anh Xuân, Lâm Tới, Diệp Minh Tuyền…
 
Trường Học sinh miền Nam đã có những tác động khác nhau lên cuộc đời của mỗi cô bé, cậu bé năm xưa. “Học sinh miền Nam mặc dù hình thành trong một hoàn cảnh rất đặc biệt vẫn là sự kế thừa, thể hiện phẩm chất kiên nhẫn, khát vọng tự do, sức phấn đấu và nỗi đau thương của dân tộc VN, nhân dân VN”, nhà nghiên cứu Cao Tự Thanh nhìn nhận.

Theo Ngọc An - TNO
 
 
Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • HỒ DZẾNH
             Hồi ký

    Mai sau dù có bao giờ
    Đốt lò hương ấy, so tơ phím này

                                 NGUYỄN DU

  • LÝ HOÀI THU

    Tôi nhớ… một chiều cuối hạ năm 1972, trên con đường làng lát gạch tại nơi sơ tán Ứng Hòa - Hà Tây cũ, lần đầu tiên tôi nhìn thấy thầy. Lúc đó lớp Văn K16 của chúng tôi đang bước vào những tuần cuối của học kỳ II năm thứ nhất.

  • PHẠM THỊ CÚC

    (Tặng bạn bè Cầu Ngói Thanh Toàn nhân Ngày Thương binh Liệt sĩ)

  • Người ta vẫn nói Tô Hoài là “nhà văn của thiếu nhi”. Hình như chưa ai gọi ông là “nhà văn của tuổi già”. Cho dù giai đoạn cuối trong sự nghiệp của ông – cũng là giai đoạn khiến Tô Hoài trở thành “sự kiện” của đời sống văn học đương đại chứ không chỉ là sự nối dài những gì đã định hình tên tuổi ông từ quá khứ - sáng tác của ông thường xoay quanh một hình tượng người kể chuyện từng trải qua nhiều thời kỳ lịch sử, nhiều thăng trầm của đời sống, giờ đây ngồi nhớ lại, ngẫm lại, viết lại quá khứ, không phải nhằm dạy dỗ, khuyên nhủ gì ai, mà chỉ vì muốn lưu giữ và thú nhận.

  • CAO THỊ QUẾ HƯƠNG

    Tôi được gặp và quen nhạc sĩ Trịnh Công Sơn vào những ngày đầu mùa hè năm 1966 khi anh cùng anh Trần Viết Ngạc đến trụ sở Tổng hội Sinh viên, số 4 Duy Tân, Sài Gòn trình diễn các bài hát trong tập “Ca khúc da vàng”.

  • THÁI KIM LAN

    Lớp đệ nhất C2 của chúng tôi ở trường Quốc Học thập niên 60, niên khóa 59/60 gồm những nữ sinh (không kể đám nam sinh học trường Quốc Học và những trường khác đến) từ trường Đồng Khánh lên, những đứa đã qua phần tú tài 1.

  • Nhung nhăng, tần suất ấy dường như khá dày, là ngôn từ của nhà văn Tô Hoài để vận vào những trường hợp, lắm khi chả phải đi đứng thế này thế nọ mà đương bập vào việc chi đó?

  • Tôi được quen biết GS. Nguyễn Khắc Phi khá muộn. Đó là vào khoảng đầu những năm 80 của thế kỉ trước, khi anh được chuyển công tác từ trường ĐHSP Vinh ra khoa Văn ĐHSPHN.

  • Năm 1960, tôi học lớp cuối cấp 3. Một hôm, ở khu tập  thể trường cấp 2 tranh nứa của tôi ở tỉnh, vợ một thầy giáo dạy Văn, cùng nhà, mang về cho chồng một cuốn sách mới. Chị là người bán sách.

  • DƯƠNG PHƯỚC THU

    LTS: Trên số báo 5965 ra ngày 07/02/2014, báo Thừa Thiên Huế có bài “Vài điều trong các bài viết về Cố Đại tướng Nguyễn Chí Thanh”, của tác giả Phạm Xuân Phụng, trong đó có nhắc nhiều đến các bài viết về Đại tướng đã đăng trên Sông Hương số đặc biệt tháng 12/2013 (số ĐB thứ 11), và cho rằng có nhiều sai sót trong các bài viết đó.

  • NGUYỄN THỊ PHƯỚC LIÊN

    (Thương nhớ Cẩm Nhung của Hương, Lại, Nguyệt, Liên)

  • BÙI KIM CHI

    Trời cuối thu. Rất đẹp. Lá phượng vàng bay đầy đường. Tôi đang trong tâm trạng náo nức của một thoáng hương xưa với con đường Bộ Học (nay là Hàn Thuyên) của một thời mà thời gian này thuở ấy tôi đã cắp sách đến trường. Thời con gái của tôi thênh thang trở về với “cặp sách, nón lá, tóc xõa ngang vai, đạp xe đạp…”. Mắt rưng rưng… để rồi…

  • LÊ MINH
    Nguyên Tư lệnh chiến dịch Bí thư Thành ủy Huế (*)

    … Chỉ còn hai ngày nữa là chiến dịch mở; tôi xin bàn giao lại cho Quân khu chức vụ "chính ủy Ban chuẩn bị chiến trường" để quay về lo việc của Thành ủy mà lúc đó tôi vẫn là Bí thư.

  • NGUYỄN KHOA BỘI LAN

    Cách đây mấy chục năm ở thôn Gia Lạc (hiện nay là thôn Tây Thượng) xã Phú Thượng có hai nhà thơ khá quen thuộc của bà con yêu thơ xứ Huế. Đó là bác Thúc Giạ (Ưng Bình) chủ soái của Hương Bình thi xã và cha tôi, Thảo Am (Nguyễn Khoa Vi) phó soái.

  • (SHO). Nhân dân Việt Nam khắc sâu và nhớ mãi cuộc chiến đấu can trường bảo vệ biên giới tổ quốc thân yêu tháng 2/1979. Điều đó đã thêm vào trang sử hào hùng về tinh thần bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của dân tộc.

  • NGUYỄN CƯƠNG

    Có nhiều yếu tố để Cố đô Huế là một trung tâm văn hóa du lịch, trong đó có những con đường rợp bóng cây xanh làm cho Huế thơ mộng hơn, như đường Lê Lợi chạy dọc bên bờ sông Hương, đường 23/8 đi qua trước Đại Nội, rồi những con đường với những hàng cây phượng vỹ, xà cừ, bằng lăng, me xanh... điểm tô cho Huế.

  • HOÀNG HƯƠNG TRANG

    Cách nay hơn một thế kỷ, người Huế, kể cả lớp lao động, nông dân, buôn bán cho đến các cậu mợ, các thầy các cô, các ông già bà lão, kể cả giới quý tộc, đều ghiền một lại thuốc lá gọi là thuốc Cẩm Lệ.

  • PHẠM HỮU THU

    Với tư cách là Bí thư Tỉnh ủy lâm thời và Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh) của tỉnh Thừa Thiên - Huế, đầu năm 1942, sau khi vượt ngục trở về, đồng chí Nguyễn Chí Thanh đã có quãng thời gian gắn bó với vùng đầm Cầu Hai, nơi có cồn Rau Câu, được Tỉnh ủy lâm thời chọn làm địa điểm huấn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên.
    Để đảm bảo bí mật và an toàn, Tỉnh ủy đã chọn một số cơ sở là cư dân thủy diện đảm trách việc bảo vệ và đưa đón cán bộ.
    Số cơ sở này chủ yếu là dân vạn đò của làng chài Nghi Xuân.

  • TRẦN NGUYÊN

    Thăm Khu lưu niệm Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, như được trở về mái nhà thân thương nơi làng quê yêu dấu. Những ngôi nhà bình dị nối nhau với liếp cửa mở rộng đón ánh nắng rọi vào góc sâu nhất.

  • PHẠM HỮU THU
           Nhân kỷ niệm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam 22 - 12

    “Có những sự thật quá lớn lao của một thời, đến nỗi hậu thế nhìn qua lớp sương mù của thời gian, không thể nào tin nổi” (Nhà văn Phùng Quán).