VŨ VĂN
Một mùa xuân nữa lại về, mùa xuân của hòa bình, của ấm no và những đổi thay của đất nước. Nhưng đã có thời kỳ, những mùa xuân của dân tộc đến vào những lúc chiến tranh vô cùng gian khổ, trong lòng nhiều người từng sống qua những năm tháng ấy lại dâng lên niềm thương nhớ Bác, nhớ giọng nói của Người, nhớ những lời chúc Tết của Người vang lên trên loa phát thanh mỗi đêm Giao thừa.
Ảnh: Internet
Trong suốt thời gian làm Chủ tịch nước (từ 1946 cho đến khi qua đời), Bác đã viết tất cả 20 bài thơ chúc Tết. Bài thơ chúc Tết đầu tiên kể từ khi Bác giữ cương vị Chủ tịch nước là bài “Chúc Tết Đinh Hợi 1947” và bài thơ chúc Tết cuối cùng chính là bài chúc “Tết Kỷ Dậu 1969”:
Năm qua thắng lợi vẻ vang
Năm nay tiền tuyến chắc càng thắng to
Vì độc lập, vì tự do
Đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào
Tiến lên chiến sĩ đồng bào
Bắc - Nam sum họp, xuân nào vui hơn!
Đây là một trong ba bài thơ chúc Tết được viết theo thể lục bát (hai bài lục bát chúc Tết trước đó được Bác viết năm 1951 và 1954), gồm sáu câu, mỗi câu thơ chứa đựng một âm hưởng hào hùng, một khí thế thừa thắng xốc tới:
Năm qua thắng lợi vẻ vang
Năm nay tiền tuyến chắc càng thắng to
Trong hai dòng lục bát đầu tiên, Bác đã tổng kết lại một cách ngắn gọn thành công của năm cũ và dự đoán đầy tin tưởng cho sự thắng lợi của một năm mới. Âm hưởng của chữ “thắng” được lặp lại trong hai dòng thơ như một sự kéo dài, nối tiếp qua thời gian và cả không gian. Niềm vui chiến thắng đã từng đi vào rất nhiều bài thơ khác của Bác, tạo ra một cảm hứng mãnh liệt để thi ca xuất hiện:
Chuông lầu chợt tỉnh giấc thu
Ấy tin thắng trận Liên khu báo về
(Tin thắng trận, 1948)
Lục mãi giấy tờ vần chửa thấy
Bỗng nghe vần thắng vút lên cao
(Không đề, 1968)
Những mùa xuân thắng lợi sẽ nối tiếp nhau để mục đích cuối cùng của toàn thể dân tộc là giành độc lập:
Vì độc lập, vì tự do
Đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào
Câu thơ như một lời tuyên ngôn chắc nịch, hùng hồn. Trong một dòng thơ mà xuất hiện đến bốn lần những động từ gây cảm giác mạnh: đánh (hai lần), cút, nhào. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đang bước vào giai đoạn căng thẳng nhất, kịch liệt nhất. Câu thơ của Bác như một lời động viên đầy phấn khích để toàn dân, toàn quân tiến lên. Hai động từ “cút”, “nhào” có tính phỏng hình rất cao, phù hợp với đối tượng chịu sự tác động.
Hai câu kết của bài “Thơ chúc Tết Xuân Kỷ Dậu 1969” đã nói lên mong ước không chỉ của Bác mà còn của toàn thể nhân dân Việt Nam:
Tiến lên! Chiến sĩ đồng bào
Bắc - Nam sum họp, xuân nào vui hơn
Động từ “tiến lên” thể hiện được sự đoàn kết một khối và khí thế mạnh mẽ sẵn sàng chiến đấu của quân dân ta trước mọi kẻ thù. Trong nhiều bài thơ chúc Tết khác, Bác cũng dùng động từ “tiến lên”:
Tiến lên chiến sĩ! Tiến lên đồng bào
(Thơ Chúc Tết Xuân Đinh Hợi 1947)
Tiến lên! Toàn thắng ắt về ta
(Thơ Chúc Tết Xuân Mậu Thân 1968)
Toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta lúc ấy cùng thắp sáng một niềm khát khao duy nhất về ngày nước nhà hoàn toàn thống nhất, Bắc Nam hai miền không còn chia cắt. Đó sẽ là ngày mẹ được gặp con, vợ được gặp chồng, anh em bạn bè được hội ngộ trùng phùng trong mùa xuân chung của dân tộc.
Những bài thơ chúc Tết của Bác đã trở thành một món ăn tinh thần không thể thiếu đối với mỗi người dân Việt Nam. Mỗi bài thơ chúc Tết của Bác là một sự tổng kết thắng lợi năm cũ, đề ra mục tiêu năm mới, và bao trùm lên hết thảy luôn luôn là một khát vọng độc lập tự do cho dân tộc, hạnh phúc ấm no cho nhân dân. Từ khi Bác đi xa, người dân không còn được nghe những bài thơ mừng xuân mới của Bác nữa, nhưng nỗi nhớ thương thì vẫn còn nguyên vẹn trong triệu trái tim.
Mùa xuân năm 1969 là mùa xuân cuối cùng Bác ở lại với dân tộc ta, lúc này sức khỏe của Bác đã yếu nhiều. Thế nhưng, cuộc kháng chiến chống Mỹ đang bước vào giai đoạn cực kỳ cam go và quyết liệt. Cuộc nổi dậy của quân và dân ta ở xuân Mậu Thân năm 1968 đã làm lung lay mộng bành trướng của Nhà trắng ở Đông Nam Á. Vì thế, bài thơ chúc Tết năm 1969 của Bác tiếp tục như một lời hiệu triệu, thôi thúc toàn Đảng, toàn dân và quân ta thêm quyết tâm đánh đuổi đế quốc Mỹ xâm lược ra khỏi đất nước ta là một nhiệm vụ tối thượng lúc bấy giờ:
Năm qua thắng lợi vẻ vang,
Năm nay tiền tuyến chắc càng thắng to.
Vì độc lập, vì tự do,
Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào.
Tiến lên! chiến sĩ, đồng bào
Bắc - Nam sum họp xuân nào vui hơn!
Sáu năm sau bài thơ ấy, niềm mong ước bấy lâu của Người đã trở thành sự thật, nhân dân ta lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh tàn bạo của đế quốc Mỹ, giành nhiều thắng lợi vẻ vang mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, kết thúc 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Thắng lợi của Nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước là một trong những trang chói lọi nhất của lịch sử dân tộc và là một sự kiện có tầm quốc tế và có tính chất thời đại sâu sắc. Bài thơ ngắn gọn nhưng chan chứa ý thơ, tràn đầy sắc xuân, vừa độc đáo, hào hùng vừa ấm áp, thương yêu, thể hiện rõ tâm niệm rất thiết tha, rất mặn nồng của Bác gửi đến toàn thể quần chúng nhân dân, với điều mong ước, là niềm tin vào ngày mai tốt lành, ngày mai tươi sáng của đất nước và sự thắng lợi của Cách mạng Việt Nam mà Bác Hồ gửi gắm vào từng dòng thơ, ý thơ.
Trong dịp Tết đến xuân về, cùng đắm chìm vào những vầng thơ của Người và khắc ghi những gì Người đã làm cho dân tộc và để thấy được tinh thần lạc quan của dân tộc trong những lúc chiến tranh, để từ đó mà thêm thương yêu hơn đất nước mình, một đất nước anh hùng. Nhớ lời dạy của Bác, các thế hệ người Việt Nam sẽ tiếp tục ra sức phấn đấu, quyết tâm xây dựng đất nước ngày càng đàng hoàng to đẹp hơn.
V.V
(TCSH372/02-2020)
.....................................................
Tài liệu tham khảo:
1. Hồ Chí Minh toàn tập - Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011.
2. Theo dấu chân Bác Hồ - Nxb. Chính trị Quốc gia 2014.
3. Hồ Chí Minh tiểu sử - Nxb. Lý luận chính trị 2006.
Hồ Thế Hà sinh năm 1955, quê ở thị trấn Ngô Mây, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Anh tham gia quân đội từ 1978 đến 1982, chiến đấu tại Campuchia. Hồ Thế Hà tốt nghiệp khoa Ngữ văn, Đại học Tổng hợp Huế năm 1985 và được giữ lại trường. Hiện anh là Phó Giáo sư, Tiến sĩ đang giảng dạy tại khoa Ngữ văn, trường Đại học Khoa học - Đại học Huế. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Hội viên Hội Nhà báo Việt Nam. Anh đồng thời là Ủy viên Ban chấp hành Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế, Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Huế nhiệm kì: 2000 - 2005; 2005 - 2010. Chủ tịch Hội đồng Nghệ thuật Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế, nhiệm kì 2000 - 2005; 2005 - 2010.
PHẠM PHÚ PHONGĐúng vào dịp Huế chuẩn bị cho Festival lần thứ III năm 2004, Vĩnh Quyền cho tái bản tập ký và truyện Huế mình, tập sách mới in trước đó chưa tròn một năm, năm 2003. Trước khi có Huế mình, Vĩnh Quyền đã có nhiều tác phẩm được bạn đọc chú ý như các tiểu thuyết lịch sử Vầng trăng ban ngày, Mạch nước trong, Trước rạng động, các tập truyện Người tử tù không chết, Người vẽ chân dung thế gian, Màu da thượng đế, tập bút ký Ngày và đêm Panduranga và tập tạp văn Vàng mai.
...Không có sự lựa chọn nào cả, tôi đến với thơ như một nghiệp dĩ. Tôi nghĩ thơ là một thứ tôn giáo không có giáo chủ. Ở đây, các tín đồ của nó đều được mặc khải về sự bi hoan trần thế và năng lực sẻ chia những nỗi niềm thân phận. Cuộc đời vốn có cái cười và cái khóc. Người ta, ai cũng có thể cười theo kiểu cười của kẻ khác, còn khóc thì phải khóc bằng nước mắt của chính mình. Với tôi, thơ là âm bản của nước mắt...
…Có thể thấy gần đây có những xu hướng văn học gây “hot” trong độc giả, ví như xu hướng khai thác truyện đồng tính. Truyện của tôi xin khước từ những “cơn nóng lạnh” có tính nhất thời ấy của thị trường. Tôi bắt đầu bằng chính những câu chuyện giản đơn của cuộc sống hàng ngày, những điều giản đơn mà có thể vô tình bạn bước qua…
NGÔ KHAKỷ niệm 40 năm ngày Bác Hồ ra đi, chúng ta đều nhớ lại di chúc thiêng liêng của Bác để lại cho nhân dân ta. Đó là tình cảm và niềm tin của Bác đối với chúng ta ngày nay và các thế hệ mai sau.
NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 245 tháng 7-2009 và hết)
Nguyễn Khắc Phê quê ở Hương Sơn, Hà Tĩnh. Anh xuất thân trong một gia đình trí thức. Bố anh từng đậu Hoàng Giáp năm 19 tuổi. Các anh trai đều là bác sĩ, giáo sư, tiến sĩ nổi tiếng như Nguyễn Khắc Viện, Nguyễn Khắc Dương, Nguyễn Khắc Phi... Có người nói vui “Nguyễn Khắc Phê con nhà quan tính nhà lính”.
VĂN CẦM HẢI(Đọc “Ngôi nhà vắng giữa bến sông”, Tập truyện ngắn của Nguyễn Kiên - Nxb Hội Nhà văn, 2004)
NGUYỄN QUANG SÁNGMấy năm gần đây, dân ta đi nước ngoài càng ngày càng nhiều, đi hội nghị quốc tế, đi học, đi làm ăn, đi chơi, việc xuất ngoại đã trở nên bình thường. Đi đâu? Đi Mỹ, đi Pháp, đi Trung Quốc, Đài Loan, Singapore, Hàn Quốc... Nhà văn Văn Cầm Hải cũng đi, chuyến đi này của anh, anh không đi những nơi tôi kể trên, anh đi Tây Tạng, rất lạ đối với tôi.
HÀ KHÁNH LINHDân tộc ta có hơn bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước, đã xảy ra nhiều cuộc nội loạn ngoại xâm, nhiều thế hệ người Việt Nam đã cầm vũ khí ra trận giết giặc cứu nước, nhưng mãi đến cuối thế kỷ 20 những chàng trai nước Việt mới phải đi giữ nước từ xa, mới đi giữ nước mà mang trong lòng nỗi nhớ nước như tứ thơ của Phạm Sĩ Sáu.
LÊ VĂN THÊSau sáu năm (kể từ 2002) nhà văn Cao Hạnh được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam, (cuối năm 2008); Hội Văn học nghệ thuật Quảng Trị mới có thêm một nhà văn được kết nạp. Đó là Văn Xương.
NGÔ MINHTrong đợt đi Trại viết ở Khu du lịch nước nóng Thanh Tân, anh em văn nghệ chúng tôi được huyện Phong Điền cho đi dạo phá Tam Giang một ngày. Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Thế là người dẫn đường. Anh dân sở tại, thuộc lòng từng tấc đất cổ xưa của huyện.
PHẠM PHÚ PHONG…Làng em đây, núi rừng Trung Việt cũng là đây/Xưa kia đã hùng dũng đánh Tây/Giờ lại hiên ngang xây thành chống Mỹ/Đường Trường Sơn là đường chân lý/Đã cùng quê em kết nghĩa hẹn hò… (Quê em, 1971)
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGKể từ tập thơ đầu tay (Phía nắng lên in năm 1985), Huyền thoại Cửa Tùng (*) là tập thơ thứ mười (và là tập sách thứ 17) của Ngô Minh đã ra mắt công chúng. Dù nghề làm báo có chi phối đôi chút thì giờ của anh, có thể nói chắc rằng Ngô Minh đã đi với thơ gần chẵn hai mươi năm, và thực sự đã trở thành người bạn cố tri của thơ, giữa lúc mà những đồng nghiệp khác của anh hoặc do quá nghèo đói, hoặc do đã giàu có lên, đều đã từ giã “nghề” làm thơ.
Võ Quê được nhiều người biết đến khi anh 19 tuổi với phong trào xuống đường của học sinh, sinh viên các đô thị miền Nam (1966). Lúc đó, anh ở trong Ban cán sự Sinh viên, học sinh Huế. Võ Quê hoạt động hết sức nhiệt tình, năng nổ bất chấp nguy hiểm với lòng yêu nước nồng nàn và niềm tin sắt đá vào chính nghĩa.
PHẠM PHÚ PHONGThỉnh thoảng có thấy thơ Đinh Lăng xuất hiện trên các báo và tạp chí. Một chút Hoang tưởng mùa đông, một Chút tình với Huế, một chuyến Về lại miền quê, một lần Đối diện với nỗi buồn, hoặc cảm xúc trước một Chiếc lá rụng về đêm hay một Sớm mai thức dậy... Với một giọng điệu chân thành, giản đơn đôi khi đến mức thật thà, nhưng dễ ghi lại ấn tượng trong lòng người đọc.
ĐẶNG TIẾNNhà xuất bản Trẻ, phối hợp với Công ty Văn hoá Phương Nam trong 2002 đã nhẩn nha ấn hành Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường, trọn bộ bốn cuốn. Sách in đẹp, trên giấy láng, trình bày trang nhã, bìa cứng, đựng trong hộp giấy cứng.
NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 244 tháng 6-2009)Mến tặng các nhà văn Tô Nhuận Vỹ, Khánh Phương, Trần Thị Trường, cháuDiệu Linh, và những người bạn khác,lớn lên trong những hoàn cảnh khác.
NGUYỄN THỤY KHANhà thơ Quang Dũng đã tạ thế tròn 15 năm. Người lính Tây Tiến tài hoa xưa ấy chẳng những để lại cho cuộc đời bao bài thơ hay với nhịp thơ, thi ảnh rất lạ như "Tây Tiến", "Mắt người Sơn Tây"... và bao nhiêu áng văn xuôi ấn tượng, mà còn là một họa sĩ nghiệp dư với màu xanh biểu hiện trong từng khung vải. Nhưng có lẽ ngoài những đồng đội Tây Tiến của ông, ít ai ở đời lại có thể biết Quang Dũng từng viết bài hát khi cảm xúc trên đỉnh Ba Vì - quả núi như chính tầm vóc của ông trong thi ca Việt Nam hiện đại. Bài hát duy nhất này của Quang Dũng được đặt tên là "Ba Vì mờ cao".
HOÀNG KIM DUNG (Đọc trường ca Lửa mùa hong áo của Lê Thị Mây)Nhà thơ Lê Thị Mây đã có nhiều tập thơ được xuất bản như: Những mùa trăng mong chờ, Dịu dàng, Tặng riêng một người, Giấc mơ thiếu phụ, Du ca cây lựu tình, Khúc hát buổi tối, v.v... Chị còn viết văn xuôi với các tập truyện: Trăng trên cát, Bìa cây gió thắm, Huyết ngọc, Phố còn hoa cưới v.v...Nhưng say mê tâm huyết nhất với chị vẫn là thơ. Gần đây tập trường ca Lửa mùa hong áo của nhà thơ Lê Thị Mây đã được nhà xuất bản Quân đội nhân dân ấn hành. (quý IV. 2003)