Nhớ những vần thơ chúc Tết của Người

15:35 24/01/2020

VŨ VĂN     

Một mùa xuân nữa lại về, mùa xuân của hòa bình, của ấm no và những đổi thay của đất nước. Nhưng đã có thời kỳ, những mùa xuân của dân tộc đến vào những lúc chiến tranh vô cùng gian khổ, trong lòng nhiều người từng sống qua những năm tháng ấy lại dâng lên niềm thương nhớ Bác, nhớ giọng nói của Người, nhớ những lời chúc Tết của Người vang lên trên loa phát thanh mỗi đêm Giao thừa.

Ảnh: Internet

Trong suốt thời gian làm Chủ tịch nước (từ 1946 cho đến khi qua đời), Bác đã viết tất cả 20 bài thơ chúc Tết. Bài thơ chúc Tết đầu tiên kể từ khi Bác giữ cương vị Chủ tịch nước là bài “Chúc Tết Đinh Hợi 1947” và bài thơ chúc Tết cuối cùng chính là bài chúc “Tết Kỷ Dậu 1969”:

Năm qua thắng lợi vẻ vang
Năm nay tiền tuyến chắc càng thắng to
Vì độc lập, vì tự do
Đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào
Tiến lên chiến sĩ đồng bào
Bắc - Nam sum họp, xuân nào vui hơn!


Đây là một trong ba bài thơ chúc Tết được viết theo thể lục bát (hai bài lục bát chúc Tết trước đó được Bác viết năm 1951 và 1954), gồm sáu câu, mỗi câu thơ chứa đựng một âm hưởng hào hùng, một khí thế thừa thắng xốc tới:

Năm qua thắng lợi vẻ vang
Năm nay tiền tuyến chắc càng thắng to


Trong hai dòng lục bát đầu tiên, Bác đã tổng kết lại một cách ngắn gọn thành công của năm cũ và dự đoán đầy tin tưởng cho sự thắng lợi của một năm mới. Âm hưởng của chữ “thắng” được lặp lại trong hai dòng thơ như một sự kéo dài, nối tiếp qua thời gian và cả không gian. Niềm vui chiến thắng đã từng đi vào rất nhiều bài thơ khác của Bác, tạo ra một cảm hứng mãnh liệt để thi ca xuất hiện:

Chuông lầu chợt tỉnh giấc thu
Ấy tin thắng trận Liên khu báo về

                        (Tin thắng trận, 1948)

Lục mãi giấy tờ vần chửa thấy
Bỗng nghe vần thắng vút lên cao

                        (Không đề, 1968)

Những mùa xuân thắng lợi sẽ nối tiếp nhau để mục đích cuối cùng của toàn thể dân tộc là giành độc lập:

Vì độc lập, vì tự do
Đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào


Câu thơ như một lời tuyên ngôn chắc nịch, hùng hồn. Trong một dòng thơ mà xuất hiện đến bốn lần những động từ gây cảm giác mạnh: đánh (hai lần), cút, nhào. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đang bước vào giai đoạn căng thẳng nhất, kịch liệt nhất. Câu thơ của Bác như một lời động viên đầy phấn khích để toàn dân, toàn quân tiến lên. Hai động từ “cút”, “nhào” có tính phỏng hình rất cao, phù hợp với đối tượng chịu sự tác động.

Hai câu kết của bài “Thơ chúc Tết Xuân Kỷ Dậu 1969” đã nói lên mong ước không chỉ của Bác mà còn của toàn thể nhân dân Việt Nam:

Tiến lên! Chiến sĩ đồng bào
Bắc - Nam sum họp, xuân nào vui hơn


Động từ “tiến lên” thể hiện được sự đoàn kết một khối và khí thế mạnh mẽ sẵn sàng chiến đấu của quân dân ta trước mọi kẻ thù. Trong nhiều bài thơ chúc Tết khác, Bác cũng dùng động từ “tiến lên”:

Tiến lên chiến sĩ! Tiến lên đồng bào
            (Thơ Chúc Tết Xuân Đinh Hợi 1947)

Tiến lên! Toàn thắng ắt về ta
            (Thơ Chúc Tết Xuân Mậu Thân 1968)

Toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta lúc ấy cùng thắp sáng một niềm khát khao duy nhất về ngày nước nhà hoàn toàn thống nhất, Bắc Nam hai miền không còn chia cắt. Đó sẽ là ngày mẹ được gặp con, vợ được gặp chồng, anh em bạn bè được hội ngộ trùng phùng trong mùa xuân chung của dân tộc.

Những bài thơ chúc Tết của Bác đã trở thành một món ăn tinh thần không thể thiếu đối với mỗi người dân Việt Nam. Mỗi bài thơ chúc Tết của Bác là một sự tổng kết thắng lợi năm cũ, đề ra mục tiêu năm mới, và bao trùm lên hết thảy luôn luôn là một khát vọng độc lập tự do cho dân tộc, hạnh phúc ấm no cho nhân dân. Từ khi Bác đi xa, người dân không còn được nghe những bài thơ mừng xuân mới của Bác nữa, nhưng nỗi nhớ thương thì vẫn còn nguyên vẹn trong triệu trái tim.

Mùa xuân năm 1969 là mùa xuân cuối cùng Bác ở lại với dân tộc ta, lúc này sức khỏe của Bác đã yếu nhiều. Thế nhưng, cuộc kháng chiến chống Mỹ đang bước vào giai đoạn cực kỳ cam go và quyết liệt. Cuộc nổi dậy của quân và dân ta ở xuân Mậu Thân năm 1968 đã làm lung lay mộng bành trướng của Nhà trắng ở Đông Nam Á. Vì thế, bài thơ chúc Tết năm 1969 của Bác tiếp tục như một lời hiệu triệu, thôi thúc toàn Đảng, toàn dân và quân ta thêm quyết tâm đánh đuổi đế quốc Mỹ xâm lược ra khỏi đất nước ta là một nhiệm vụ tối thượng lúc bấy giờ:

Năm qua thắng lợi vẻ vang,
Năm nay tiền tuyến chắc càng thắng to.
Vì độc lập, vì tự do,
Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào.
Tiến lên! chiến sĩ, đồng bào
Bắc - Nam sum họp xuân nào vui hơn!


Sáu năm sau bài thơ ấy, niềm mong ước bấy lâu của Người đã trở thành sự thật, nhân dân ta lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh tàn bạo của đế quốc Mỹ, giành nhiều thắng lợi vẻ vang mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, kết thúc 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Thắng lợi của Nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước là một trong những trang chói lọi nhất của lịch sử dân tộc và là một sự kiện có tầm quốc tế và có tính chất thời đại sâu sắc. Bài thơ ngắn gọn nhưng chan chứa ý thơ, tràn đầy sắc xuân, vừa độc đáo, hào hùng vừa ấm áp, thương yêu, thể hiện rõ tâm niệm rất thiết tha, rất mặn nồng của Bác gửi đến toàn thể quần chúng nhân dân, với điều mong ước, là niềm tin vào ngày mai tốt lành, ngày mai tươi sáng của đất nước và sự thắng lợi của Cách mạng Việt Nam mà Bác Hồ gửi gắm vào từng dòng thơ, ý thơ.

Trong dịp Tết đến xuân về, cùng đắm chìm vào những vầng thơ của Người và khắc ghi những gì Người đã làm cho dân tộc và để thấy được tinh thần lạc quan của dân tộc trong những lúc chiến tranh, để từ đó mà thêm thương yêu hơn đất nước mình, một đất nước anh hùng. Nhớ lời dạy của Bác, các thế hệ người Việt Nam sẽ tiếp tục ra sức phấn đấu, quyết tâm xây dựng đất nước ngày càng đàng hoàng to đẹp hơn.

V.V
(TCSH372/02-2020)


.....................................................
Tài liệu tham khảo:

1. Hồ Chí Minh toàn tập - Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011.
2. Theo dấu chân Bác Hồ - Nxb. Chính trị Quốc gia 2014.
3. Hồ Chí Minh tiểu sử - Nxb. Lý luận chính trị 2006.  




 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LÊ HUỆCuộc thi Truyện ngắn cho sinh viên Huế do tạp chí Sông Hương tổ chức đã thu hút được sự tham gia của rất nhiều các bạn trẻ mang trong mình khát vọng văn chương. Những truyện ngắn dự thi đã cho ta thấy được một vóc dáng mới của các cây bút trẻ Huế hiện nay: phản ánh cuộc sống đương đại từ nhiều góc cạnh bằng bút pháp tinh tế, mới mẻ, giàu trí tuệ và đầy chất thơ. Mười lăm truyện ngắn xuất sắc lọt vào chung khảo đã được tập hợp lại thành ấn phẩm mang tên “Yêu xa xa một phút”.

  • PHAN MINH NGỌC“Bài thơ về biển khơi” (*) là tập sáng tác đầu tay của cây bút nữ Trần Thùy Mai.

  • NGÔ HƯƠNG GIANGLàm thế nào để diễn giải hợp lý về Tường Thành?

  • KHẢI PHONGTôi đã có dịp gặp những trang thơ chân chất của Nguyễn Quang Hà trong “Tiếng gà trên đỉnh chốt”(1). Lần này gặp văn Nguyễn Quang Hà trong “Mùa xương rồng nở hoa” (2), cảm tưởng lưu lại trong tôi là văn anh gây được ấn tượng mạnh hơn thơ.

  • NGUYỄN ĐÔNG NHẬT19 lời chứng của những ONS(1) cuối cùng, lần đầu tiên được lên tiếng qua công trình nghiên cứu hoàn hảo của bà Liêm Khê LUGUERN(2) là những nhân chứng cuối cùng trong số khoảng 27.000 người từ Đông Dương bị lùa đến nước Pháp từ tháng 10/1939 đến tháng 6/1940 để phục vụ cho guồng máy chiến tranh của thực dân Pháp trong Thế chiến thứ II.

  • LÝ HẠNHAi trong đời chẳng đã một lần làm thơ. Dù làm thơ để giải trí hay sẻ chia thì những trang thơ ấy cũng là tiếng hát của trái tim, là nơi dừng chân của tâm hồn.

  • LTS: Có một chuyện ít người biết là các nhà văn Tô Hoài, Xuân Diệu, Huy Cận không nhớ ngày sinh của mình. Xuân Diệu, con nhà Nho, thì biết mình sinh giờ Thìn, ngày Thìn, tháng Thìn, năm Thìn, nhưng không biết dương lịch ngày nào. Nhà văn Tô Hoài cũng vậy, nhưng nhớ Bà Cụ cho biết sinh ông đêm rằm Trung Thu. Sau này, sang Nga, bạn người Nga hỏi, mới tra ra ngày Tây là 27-9-1920. Do đó trên các tư liệu, thường thấy ghi ngày sinh: 07-9-1920, và nhà văn cũng không buồn đính chính. Nhân kỷ niệm 90 năm ngày sinh nhà văn Tô Hoài, Sông Hương nhận được bài viết của nhà văn Đặng Tiến cùng thông tin về ngày sinh Tô Hoài nói trên. Xin giới thiệu cùng bạn đọc.

  • HOÀNG DŨNGKhông phải ngẫu nhiên khi ta nói vũ trụ, thế giới thì vũ, giới là không gian, mà trụ, thế là thời gian. Ngay trong những khái niệm tưởng chỉ là không gian, cũng đã có thời gian quấn quýt ở đấy.

  • LTS: Trong các ngày 7-9/9/2010 sắp đến, Ủy ban Văn hóa Hội đồng Giám mục Việt Nam và Tòa Tổng Giám mục Giáo phận Huế sẽ tổ chức Hội thảo về thân thế và sự nghiệp của Léopold Cadière (1869-1955), Nhà nghiên cứu về Huế và Việt Nam học, chủ bút của tập san Bulletin des Amis du Vieux Hué (B.A.V.H), một trong số các tờ báo hay nhất ở Đông Dương thuở trước. Hội thảo sẽ có một số nội dung liên quan đến văn hóa Huế như Văn hóa Huế, Mỹ thuật Huế, Cổ vật Huế dưới con mắt của L. Cadière... Nhân dịp này, Tạp chí Sông Hương đăng bài viết của nhà nghiên cứu Hồ Vĩnh, chuyển tải vài nét về hoạt động văn hóa của Léopold Cadière. Xin giới thiệu cùng bạn đọc.S.H

  • NGUYỄN THỊ HÒA Không cần phải bàn cãi, Từ điển tiếng Huế của Tiến sĩ, Bác sĩ Bùi Minh Đức là một tác phẩm Từ điển. Một quyển từ điển về phương ngữ địa phương Huế mà dày dặn, công phu, với 2050 trang, thể hiện công sức nghiên cứu miệt mài của một vị bác sĩ - nghiệp dư với nghề ngôn ngữ, nhưng đầy nhiệt tình và khá chuyên nghiệp trong nghiên cứu.

  • Sinh ngày 6-2-41 tại Huế. Hy sinh ngày 11-10-68 tại vùng biên giới tỉnh Tây Ninh, nguyên quán làng Bát Tràng tỉnh Bắc Ninh. Học sinh cũ Trường Quốc Học, tốt nghiệp Đại học Sư phạm Ban Việt văn. Tên thật và bút hiệu công khai, chính thức: Trần Quang Long. Các bút hiệu khác: Thảo Nguyên, Chánh Sử, Trần Hoàng Phong.

  • TRẦN HỮU LỤCỞ tuổi 20, hành trình sáng tác của Nhóm Việt gắn liền với những biến cố lịch sử ở miền Nam (1965-1975). Những cây bút trẻ của Nhóm Việt đã bày tỏ một thái độ dấn thân ngày càng sâu sắc, vừa trên bình diện ý thức công dân, vừa trên bình diện ý thức nghệ sĩ.

  • PHONG LÊ(Kỷ niệm 100 năm ngày sinh Nguyễn Tuân 10-7-1910 – 28-7-1987)

  • NGUYÊN QUÂN Phía đằng sau những con chữ bình dị như một chốn quê nhà chưa bị ô nhiễm cơn đau phố bụi, một ngôi làng yên bình vẫn luôn hằng hiện trong mỗi hơi thở, mỗi bước gian truân của tác giả là sự chân thật đến nao lòng.

  • LÝ HOÀI THU Những câu thơ đầu tay của Hữu Thỉnh cất lên từ những cánh rừng Trường Sơn được anh gọi là “Tiếng hát trong rừng”. Anh viết về đồng đội, về cơn sốt rét rừng, về những trận bom và vết hằn xe xích, về mây, suối, dốc, thác Trường Sơn.

  • THÁI DOÃN HIỂU…Khi sự vong ân bội nghĩa của người đời đang diễn ra ở khắp đó đây thì Hoàng Trần Cương là người sống bằng ân sâu nghĩa cả. Với anh, ân nghĩa là một gánh nặng phải gánh. Anh nói về ân nghĩa như là một thứ trí nhớ của lương tri, một món nợ không bao giờ trả xong…

  • VŨ DUY THÔNG        (Thơ - Nghiêm Huyền Vũ, Nxb Trẻ 2000)Khác với bên ngoài, Nghiêm Huyền Vũ trong thơ là người trầm tư, cái trầm tư nhuốm vị triết học.Vây bọc quanh anh là không gian, thứ không gian cô liêu.

  • TRẦN QUỐC THỰCÍt người chịu đi tìm tiếng nói riêng khi đọc một tập thơ, một chặng thơ của một người. Qua từng chặng thơ, tiếng nói riêng ấy sẽ trở thành một cách thơ riêng biệt. Và đó là điều đáng mừng cho đội ngũ sáng tác.

  • NGUYỄN THANH TÚ          (Phác thảo chân dung nhà văn Nguyễn Bảo)

  • LGT: Cuốn tiển thuyết “Biết đâu địa ngục thiên đường” của nhà văn Nguyễn Khắc Phê vừa xuất bản được xem là tác phẩm thành công nhất của ông, cũng là cuốn tiểu thuyết viết kỹ lưỡng nhất, lâu nhất. Cuốn tiểu thuyết này hiện nay nằm trong danh sách những cuốn vào chung khảo cuộc thi tiểu thuyết của Hội Nhà văn Việt Nam. Sông Hương xin giới thiệu những ý kiến nhận định rất chân thành của Giáo sư Trần Đình Sử, nhà văn Ma Văn Kháng và nhà nghiên cứu phê bình Từ Sơn.