Nhớ nhạc sĩ Thái Quý

09:54 07/05/2009
NGUYỄN TRỌNG TẠO...Người ta thường nhắc tới Thái Quý như nhắc tới một con người giàu tình cảm, dễ khóc, dễ cười, dễ nóng giận và cũng rất vị tha. Nói đến khuyết điểm của mình trong cuộc họp, anh khóc đã đành, nhưng khi chỉ trích khuyết điểm của đồng đội, anh cũng khóc...

Nhạc sĩ Thái Quý

 

1. Không mấy ai rõ tuổi thật của nhạc sĩ Thái Quý. Theo cuốn Nhạc sĩ Việt Nam do Hội Nhạc sĩ Việt Nam ấn hành năm 1997 thì nhạc sĩ Thái Quý sinh tháng 3-1936; nhưng cuốn Nhạc sĩ  sáng tác của Nhà xuất bản Văn hoá in năm 1990 thì lại ghi anh sinh tháng 2-1936. Có người nói Thái Quý sinh năm 1932, còn anh thì tự nhận anh tuổi Quý Dậu 1933.

Sau khi anh qua đời, tôi đến thắp hương viếng anh tại tư gia ở một ngõ hẻm trên đường Nhật Lệ - Huế, được đọc một bài văn ai của người chú từ quê nhà (Hưng Lam, Hưng Nguyên, Nghệ An) gửi vào điếu anh, nói là anh đã lên tuổi 71 - trong số những người "thất thập cổ lai hy". Nếu đúng như vậy, thì đáng ra, Hội Nhạc sĩ Việt Nam đã phải mừng thọ 70 của anh từ năm ngoái như thường lệ đối với các hội viên cao tuổi. Nhưng việc đó đã không xảy ra vì người ta chỉ căn cứ tuổi theo hồ sơ lý lịch gia nhập Hội của anh. Chị Ninh vợ anh phân bua với tôi rằng, anh Quý thường hay "đơn giản" trong việc kê khai lý lịch, đến nỗi khai hồ sơ cho con, có lúc anh ghi quê quán Nghệ An, có lúc anh lại ghi quê quán ở nơi sinh, khiến cả nhà phải chạy đôn chạy đáo đi nhờ chính quyền sửa chữa lại hồ sơ của cháu cho thống nhất. Quả là nhạc sĩ Thái Quý "quá nghệ sĩ" trong cả những công việc rất cần sự chính xác, cụ thể...

2. Tôi có một thời gian được gần Thái Quý khi anh công tác tại Đoàn Văn công Quân khu IV trong chiến tranh chống Mỹ. Thuở ấy, anh là một nhạc sĩ sáng tác sung sức nhất của Quân khu. Anh viết hàng loạt những tác phẩm âm nhạc, từ ca khúc đến hợp xướng, từ độc tấu nhạc cụ đến nhạc múa nhiều chương. Nhiều tác phẩm để lại ấn tượng mạnh cho bộ đội và nhân dân vùng tuyến lửa lúc bấy giờ như Nữ du kích Trị Thiên đánh xe tăng, Hà Tĩnh trên đường chiến thắng, Quảng Bình đánh rất hay, Mầm xanh, Cánh võng Trường Sơn, v.v... Tôi còn nhớ những lần anh báo cáo tác phẩm vừa viết xong, chưa kịp dàn dựng, một mình anh với cây đàn ghita, anh hát liền cả bốn chương tổ khúc hợp xướng - vừa nhạc đàn, vừa nhạc miệng, vừa hát bè này vừa hát bè kia lại vừa dẫn giải ý đồ dàn dựng... khiến người nghe toát cả mồ hôi mà khâm phục cài tinh thần say mê nghệ thuật tuyệt vời của anh. Những ngày mở lớp sáng tác âm nhạc cho Quân khu cũng vậy, ốm đau anh vẫn bám lớp giảng dạy, sửa chữa bài vở cho học trò. Lần ấy, tôi có một kỷ niệm thật sâu sắc với anh. Tôi vừa viết xong tổ khúc hợp xướng Đất nước Bác Hồ và cuộc hành quân không nghỉ, thì bị sốt rét phải nằm viện. Ngày báo cáo tác phẩm, chính anh đã một mình trình bày liền mấy chương hợp xướng của tôi. Anh hát say sưa như là tác phẩm của chính anh. Anh là một người vô tư, hồn nhiên, yêu bạn bè đồng nghiệp như yêu mình. Vì vậy, những thành công của anh đều được bạn bè chia sẻ và trân trọng.

3. Người ta thường nhắc tới Thái Quý như nhắc tới một con người giàu tình cảm, dễ khóc, dễ cười, dễ nóng giận và cũng rất vị tha. Nói đến khuyết điểm của mình trong cuộc họp, anh khóc đã đành, nhưng khi chỉ trích khuyết điểm của đồng đội, anh cũng khóc. Một lần cùng đoàn văn công đi phục vụ bộ đội ở Lào, bạn Lào tặng anh một chiếc bật lửa (vì anh nghiện thuốc lá), anh đánh rơi đâu mất trong đêm tối. Tìm bật lửa không được, anh khóc hu hu. Thế là cả đoàn phải mang đèn pin đi tìm bật lửa cho anh. Tìm được bật lửa rồi, anh cũng khóc. Khóc vì chỉ một chiếc bật lửa cỏn con, mà mình đã làm phiền lòng đồng đội. Một lần tôi ghé căn phòng tập thể của vợ chồng anh tại đoàn văn công, thấy anh đang thắp hương khấn vái. Tưởng có cúng giỗ gì quan trọng lắm, hoá ra anh đang làm cỗ cúng con chó Mi Pha của anh vừa chết cách đó 3 ngày. Anh kể cho tôi nghe về con chó nhỏ bạn cho, thật ngoan hiền, mới mấy tháng mà nó lớn nhanh như thổi. Trưa hôm ấy thấy nó hơi đau ốm, anh bồi dưỡng cho nó 2 quả trứng luộc. Thế mà chiều tối nó đã nằm chết cứng dưới gậm giường. Anh ôm con Mi Pha khóc hu hu làm cho anh em tưởng có chuyện gì liền chạy đến. Anh đem con chó đi chôn, đắp mộ cho nó và làm thơ khóc chó Mi Pha. Bài thơ tôi không còn nhớ nữa, chỉ nhớ mấy câu đầy thương cảm:

Mi Pha ơi hỡi Mi Pha
Sống làm bạn với ta, chết làm ma dưới mồ
Thắp hương mà khấn hư vô
Ước người cũng tốt như là Mi Pha...

Hôm đó, anh giữ tôi ở lại tam nhật chó Mi Pha. Vừa uống rượu anh vừa kể lể về con chó nhỏ, và nước mắt giàn dụa trên khuôn mặt người nhạc sĩ đa cảm.

4. Thái Quý gia nhập quân đội từ năm 1952. Anh có một giọng hát đẹp và khoẻ. Vì thế mà được cử làm quản ca của Trường Lục quân Trần Quốc Tuấn. Rồi anh trở thành ca sĩ của văn công sư đoàn 320, Đoàn Văn công Quân khu III. Năm 1958, trong một lần cùng các nhạc sĩ Nguyễn An, Đôn Truyền và nghệ sĩ Tào Mạt theo chính uỷ Trần Độ ra thăm bộ đội đảo Hòn Mê, anh đã sáng tác được một ca khúc thật hay, đó là ca khúc: Khúc hát trên tiền tiêu Tổ quốc. Đến hôm nay nhiều người vẫn còn nhờ lời ca và điệu nhạc thật đẹp, thật yên bình của một nhạc sĩ có tâm hồn bay bổng, trong sáng: "Sương đêm buông phủ trắng đại dương. Tung cánh chim bay, thuyền vui, sóng vỗ, cánh buồm. Biển rộng ơi, rung lên trong lòng tôi hát khúc ca nhịp nhàng. Vì mến yêu thiết tha, Tổ quốc ta bao la"... Bài hát vừa viết xong liền được dàn dựng, biểu diễn, tham gia hội diễn, thu thanh phát sóng qua Đài Tiếng nói Việt Nam, và Thái Quý trở thành nổi tiếng. Bài hát này được nhạc sĩ Huy Thư soạn cho đàn ghi ta độc tấu, được hát trong các đám cưới như một bài tình ca mới của tuổi trẻ lúc bấy giờ. Nhưng chỉ mấy năm sau, có ý kiến chụp mũ cho nó là "có tư tưởng hoà bình chủ nghĩa", thế là nó bị ngừng hát, dù không có ai cấm đoán. Nỗi oan đó làm cho Thái Quý hoang mang một thời gian. Anh phải rời Đoàn Văn công Quân Khu III, chuyển về Đoàn Văn công Quân Khu IV, nơi tuyến lửa của cuộc chiến tranh chống Mỹ. Mãi đến năm 1996, ca khúc này mới được hát lại trong album ca khúc chọn lọc Qua đèo Ngang của anh do Nhà xuất bản Âm nhạc và Hội Nhạc sĩ Việt Nam ấn hành. Về câu chuyện này, năm 1999 tôi có viết bài báo Nhạc sĩ Thái Quý và bài hát "bị cấm"  in trên báo Tiền Phong. Trong bài báo đó, tôi có ghi địa chỉ và số điện thoại của anh. Mấy tuần sau, Thái Quý điện cho tôi, anh cảm động nói: "Nhờ bài báo của chú mà nhiều người bạn từ xưa đã liên lạc lại được với tôi. Họ gọi điện thoại cho tôi. Tôi khóc. Họ cũng khóc, chú ơi". Và tôi nghe trong điện thoại tiếng khóc vui sướng của anh.

5. Từ đoàn văn công Quân khu IV, Thái Quý chuyển về giảng dạy âm nhạc tại trường Nghệ thuật Huế, rồi làm chuyên viên văn nghệ của Nhà Văn hoá Lao động Bình Trị Thiên. Chia tỉnh, anh ra quê vợ làm cán bộ chỉ đạo nghệ thuật cho đoàn ca múa Quảng Bình. Từ ngày rời quân ngũ, Thái Quý vẫn sáng tác không mệt mỏi. Anh viết hàng loạt ca khúc mới, ca ngợi quê hương và tình yêu. Nhiều tác phẩm của anh đoạt huy chương vàng, và được công chúng yêu thích như: Tình ca nơi phố nhỏ (thơ Xuân Hoàng), Qua đèo Ngang (thơ Bà Huyện Thanh Quan), Chân trời mới, Khúc ca bình minh, Khúc ca gửi Huế, v.v... Dạo anh vừa viết xong Khúc ca gửi Huế, tôi cũng mới về sống ở Huế. Anh đến nhà tôi, hát cho tôi nghe thử và đề nghị tôi góp ý. Nghe xong, tôi ngồi lặng đi vì cảm động. Rồi tôi chỉ nói được một lời nhận xét: "Hay". Rồi rót rượu mời anh. Đây là một bài hát rất đẹp, rất trữ tình, thể hiện một tâm hồn yêu Huế đến da diết mà không bi lụy như một số ca khúc khác viết về Huế. Thấy tôi khen, Thái Quý mừng lắm, anh về nói với chị Ninh rằng: "Chú Tạo duyệt rồi. Bộ óc điện tử bảo là không phải sửa chữa gì cả". Anh gọi tôi là "bộ óc điện tử", đấy là vì anh quá tin yêu tôi. Vấn đề quan trọng là Khúc ca gửi Huế của anh vô cùng hoàn hảo. Sau đó, ca khúc này được nhiều ca sĩ ở Huế hát, và Đài tiếng nói Việt Nam đã nhiều lần phát trong chương trình ca nhạc theo yêu cầu thính giả. Cũng vì tình yêu Huế sâu nặng thế mà cuối đời anh lại đưa gia đình từ Quảng Bình trở lại sinh sống ở Huế. Lại đi dạy nhạc. Lại tiếp tục sáng tác. Một người khoẻ mạnh về cả tâm hồn lẫn thể lực như anh, có ngờ đâu lâm bệnh hiểm nghèo. Khi bị bệnh huyết áp, anh vẫn đi dạy nhạc cho đến khi gục xuống, phải đưa vào bệnh viện cấp cứu. Tôi và nhà báo Thanh Tú đến thăm anh, anh không nói được mà chỉ khóc, khiến vợ anh cũng khóc theo. Tôi xa anh từ đấy, cho đến ngày 13-1-2003 nhận được tin anh qua đời. Thế là xa anh vĩnh viễn, anh Thái Quý ơi!

N.T.T

(169/03-03)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Hưởng ứng cuộc vận động sáng tác Văn học Nghệ thuật hướng về thiên tai với chủ đề “Nguyện cầu cho nạn nhân động đất tại Nhật Bản” do Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế tổ chức.

  • VIỆT ĐỨCCâu trả lời đầu tiên vẫn thuộc về môi trường sinh hoạt âm nhạc. Hiện nay ở thành phố Hồ Chí Minh mỗi đêm có đến 50 tụ điểm ca nhạc hoạt động với cơn sốt ca sỹ leo thang đến chóng mặt.

  • Dương Bích HàCũng như các loại hình nghệ thuật khác, nền âm nhạc cổ truyền luôn tồn tại hai dòng: âm nhạc bác học và âm nhạc dân gian.Ở Huế, trên một thế kỷ là kinh đô của triều đại phong kiến Việt Nam, nên đặc biệt, tính chất này được bộc lộ rất rõ và triệt để, là nơi phân chia rạch ròi nhất các giai tầng trong xã hội, trong văn hóa nghệ thuật.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNNgày xưa, xã hội Việt Nam thực hiện nguyên tắc “phụ truyền tử kế” (cha truyền con nối), cho nên ông nội tôi - cụ Nguyễn Đắc Tiếu (sinh 1879), người làng Dã Lê chánh, xã Thủy Vân, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên, lúc mới lên mười tuổi, đã được cố tôi (lính trong đội Nhã nhạc Nam triều) đem vào Đại nội học Nhạc cung đình (Musique de Cour).

  • PHAN THUẬN THẢONhã nhạc là loại hình âm nhạc chính thống được sử dụng trong các cuộc tế, lễ của các triều đình quân chủ ở Việt Nam và một số nước khu vực Đông Á. Trong các cuộc triều hội, cúng tế, âm nhạc luôn theo suốt quy trình của buổi lễ, từ lúc mở đầu cho đến hồi kết thúc. Nó tham gia vào từng tiết lễ, là một thành tố không thể thiếu của cuộc lễ, đồng thời, là phương tiện giúp con người giao tiếp với thế giới thần linh. Loại hình âm nhạc này được các triều đại quân chủ hết sức coi trọng, được phát triển thành một thứ quốc nhạc và là một trong những biểu tượng cho sức mạnh của vương quyền và sự vững bền của triều đại.

  • THÂN VĂN1. Phương thức liên kết về bài bản.Đặc điểm chung nhất của hệ thống bài bản hòa tấu nhạc cung đình thường là ngắn gọn, gắn liền và phù hợp với các ca chương trong mỗi nghi thức tế lễ. Những nghi thức này được tiến hành theo một trật tự trang trọng và nghiêm ngặt, nên mỗi bài bản ca chương và âm nhạc buộc phải trình tấu đúng với thời gian cho phép của từng nghi thức. Những bài bản này đương nhiên hoàn toàn độc lập về nội dung, nhưng do nằm trong một trật tự trình tấu nối tiếp liên tục, nên ngẫu nhiên đã hình thành các thể loại liên hoàn khúc khác nhau. Trong đó, độ dài, ngắn của mỗi liên hoàn khúc, tuỳ thuộc vào tính chất quan trọng của cuộc lễ, tuỳ thuộc vào số lượt nghi thức và số ca chương mà cuộc lễ quy định.

  • YAMAGUTI OSAMUTháng Giêng năm 1994, trong lúc đang còn ngất ngây hương vị Tết, thì đột nhiên điện thoại và fax từ Paris đến tới tấp. Đó là vì UNESCO đã nhận lời yêu cầu của chính phủ Việt Nam để mở một Hội nghị Quốc tế thảo luận về vấn đề nên làm gì và cái gì có thể làm được để bảo tồn và phát huy tài sản văn hoá vô hình của Việt Nam, vì vậy họ muốn mời tôi tham gia hội nghị và đưa ra đề nghị cụ thể. Ông Tokumaru Yosihiko (giáo sư của Đại học Nữ Ochanomizu, lúc đó còn là Trưởng khoa của Khoa Văn hoá- Giáo dục) cũng nhận được lời mời như vậy, nên tôi đã liên lạc với ông và cả hai quyết định nhận lời mời này.

  • VIỆT HÙNGCuộc toạ đàm với chủ đề Sự cần thiết phải thành lập nhạc viện ở Huế vừa diễn ra vào ngày 10/3/2004. Đây là một trong những hoạt động nằm trong khuôn khổ của Trại sáng tác khí nhạc dân tộc và phê bình lý luận âm nhạc, do Chi hội Nhạc sĩ Việt Nam Thừa Thiên Huế phối hợp với Trường Đại học Nghệ thuật Huế tổ chức từ 9/3 đến 17/3/2004.

  • THÂN VĂNSau hơn 2 tháng phát động và 9 ngày chính thức dự trại (từ ngày 09 đến 17/3/2004), với 14 tác phẩm khí nhạc dân tộc và 5 tác phẩm lý luận phê bình âm nhạc của 17 nhạc sĩ có mặt tham dự trại. Lễ bế mạc chiều ngày 17/3/2004 Trại sáng tác khí nhạc dân tộc & lý luận phê bình âm nhạc tại Huế đã gây được ấn tượng tốt đẹp và những tín hiệu đáng mừng trong lòng nhân dân Cố Đô. Điều đáng nói là các nhạc sĩ của Hà Nội, Huế và TP.Hồ Chí Minh đã gặp nhau từ một ý tưởng sáng tạo chủ đạo là nhằm tôn vinh và phát huy các giá trị của di sản văn hoá phi vật thể và truyền khẩu ở Huế, góp phần định hướng cho mô hình và mục tiêu đào tạo của Nhạc viện Huế trong tương lai.

  • TRẦN VĂN KHÊNhạc Cung đình là một bộ môn nhạc truyền thống Việt Nam dùng trong Cung đình. Nhưng người sáng tạo và biểu diễn Nhạc Cung đình hầu hết là những nhạc sĩ, nghệ sĩ từ trong dân gian, có tay nghề cao, được sung vào Cung để phụng sự cho Triều đình. Nhạc Cung đình Huế là một bộ môn âm nhạc truyền thống Việt Nam rất đặc biệt và có một giá trị lịch sử, nghệ thuật rất cao.

  • THÁI CÔNG NGUYÊNMột nhà văn nước ngoài khi đến thăm Huế đã nói: “Huế là một bảo tàng kỳ lạ chứa đựng trong lòng mình những kho tàng vô giá, những giá trị văn hóa vật chất và tinh thần Việt Nam”. Đúng vậy, bên cạnh kho tàng di sản văn hóa kiến trúc đồ sộ có giá trị tầm vóc quốc tế, Huế còn là một tụ điểm di sản văn hóa tinh thần phong phú, một vùng văn hóa Phú Xuân đặc sắc “Huế đẹp và thơ” nổi tiếng.

  • PHÙNG PHUNgày 07 tháng 11 năm 2003, ông Koichiro Matsuura, Tổng Giám đốc UNESCO đã chính thức công bố trong một buổi lễ long trọng nhân kỳ họp toàn thể lần thứ 32 của Ðại hội đồng UNESCO tại Paris: UNESCO đã ghi tên 28 Kiệt tác vào Danh mục Kiệt tác Di sản Văn hóa Phi vật thể và Truyền khẩu của Nhân loại.

  • LTS: Đại hội khoá II (nhiệm kỳ 2003 - 2008) của Chi hội Nhạc sỹ Việt Nam Thừa Thiên Huế vừa diễn ra vào trung tuần tháng 9. Nhạc sỹ Hồng Đăng, Phó Tổng thư ký Hội Nhạc sỹ Việt Nam, thay mặt cho BCH Hội Nhạc sỹ Việt Nam vào tham gia chỉ đạo Đại hội. Tại Đại hội, nhiều tham luận, ý kiến phát biểu của các nhạc sỹ đã thể hiện được sự trăn trở về thực trạng và hướng phát triển của nghệ thuật âm nhạc đương đại Huế. Sông Hương xin trích đăng một số ý kiến đã trình bày tại đại hội.

  • LÂM TÔ LỘCĐại tá - nhạc sĩ Đức Tùng, sinh năm 1926 tại Huế đẹp và thơ, đã mãi mãi xa quê: Ông mất ngày 25/01/2003. Ông viết ca khúc từ trước Cách mạng tháng Tám như Kỷ niệm ngày hè, Bên trời xa, Dòng Dịch thủy, Dưới ánh trăng mơ. Ông đã từng biểu diễn ca nhạc tại nhà hát Accueil, là cây Accordéon cầm chịch của ban nhạc gia đình ở phố Hàng Bè.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ Năm nay (2003), nhạc sĩ Trần Hữu Pháp (NSTHP) “mới” tròn 70 tuổi, nhưng dễ đã mấy chục năm, sau khi nhạc sĩ Trần Hoàn rời Cố đô ra Hà Nội nhận các trọng trách, NSTHP nghiễm nhiên ngồi “chiếu trên”, là “già làng” của giới âm nhạc Thừa Thiên Huế. Kể cũng phải; từ bốn mươi năm trước, khi hàng triệu thiếu nhi miền Bắc đội mũ rơm dắt lá nguỵ trang đến trường, miệng líu lo ca bài hát ông vừa sáng tác “Tiếp đạn nào / Tiếp đạn chuyền tay trên chiến hào / Cho chú dân quân bắn nhào phản lực...” thì không ít các nhạc sĩ nổi danh bây giờ có lẽ còn... bú mẹ! Vậy mà trước mắt tôi (và chắc là với không ít người nữa) - nói ông anh đừng giận nhé - vị nhạc sĩ lão làng này lại rất...trẻ con!

  • NGUYỄN THANH TÚNăm ngoái, tôi tình cờ gặp nhạc sĩ Thái Quý khi ông đang bận rộn chỉ đạo "đoàn thành phố Huế" trước giờ ra sân khấu tham gia hội diễn ca múa nhạc công - nông - binh - trí thức do tỉnh Thừa Thiên Huế tổ chức tại nhà hát Trung tâm Văn hoá.

  • VĨNH PHÚCNếu kinh đô Thăng Long xưa từ trong cung phủ đã có một lối hát cửa quyền phát tán thành một dòng dân gian chuyên nghiệp là hát Ả đào và vẫn thịnh đạt dưới thời vua Lê chúa Trịnh, thì kinh đô Phú Xuân sau này, hoặc là đã từ trong dinh phủ của các chúa Nguyễn ở Đàng Trong phát tán thành một lối gọi là Ca Huế (gồm cả ca và đàn). Vậy cũng có thể gọi Ca Huế là một lối hát Ả đào của người Huế, một lối chơi của các ông hoàng bà chúa xét trên quan điểm tiếp biến trong tiến trình của một lối hát truyền thống và tiến trình lịch sử từ Thăng Long đến Phú Xuân-Huế.

  • VĂN THU BÍCHTừ bao đời nay, tình yêu Huế vẫn mãi chìm sâu trong lòng những người con xứ Huế, dù đang sống trên đất Huế hoặc đã biền biệt xa xứ và Huế mộng mơ cũng len nhẹ vào hồn du khách khi đến thăm vùng đất thần kinh này.

  • TRẦN NGỌC LINHBạn còn thương bạn biết gửi sầu về nơi mô?Trước khi tôi vào Huế, chị tôi dặn: “Vào muốn gặp bà Minh Mẫn cứ đến đường Nhật Lệ mà hỏi”. Theo cách nhớ đường của một người viễn khách từ xa đến thì đến phố đó cứ thấy đầu ngõ nào có một giàn hoa tử đằng với những dây hoa buông thõng chấm xuống nền đất vỉa hè thì đó chính là lối rẽ vào ngõ nhà danh ca Minh Mẫn.

  • TRẦN KIÊM ĐOÀNGọi tên hoa súng: LỤC HÀGọi thôn LIỄU HẠ: quê nhà bên sôngGọi TRẦN KIÊM: họ sắc... khôngGọi HÀ THANH: tiếng hát dòng Hương Giang