Nhớ Nguyễn Trọng Tạo - Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo với “Bạn bè ở Huế”

10:27 26/04/2019


MAI VĂN HOAN

Ký họa của nhạc sĩ Lê Mạnh Thống

Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo là một tác phẩm “tổng phổ” thông qua cuộc chơi đã sản sinh những “tập con” tác phẩm đầy mỹ tuệ. Sự hồn nhiên trong cuộc chơi hẳn là quy ước khắt khe nhất tạo ra ánh sáng chiếu soi sự thăng trầm và hoa lệ trong mỗi dòng thơ nốt nhạc của anh. Cuộc chơi ấy chừng như kéo dài đến khoảng thời gian vô ngần quý giá trên giường bệnh; vẫn nụ cười hồn nhiên khuất lấp nỗi đau, anh tạm biệt cái cuộc đời đã dành cho mình khoảng thời-không khá rộng để trưng bày những hình hài ý niệm thăm thẳm vui buồn.

Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo từng sống ở Huế 10 năm (1987 - 1997) với gia đình và bè bạn thiết thân. Sông Hương xin dành một số trang để nhớ về anh và cũng là nén nhang tưởng niệm người nghệ sĩ đa tài, hào hoa và rộng lượng.

 

Những năm 80 của thế kỷ trước, Nguyễn Trọng Tạo đã nổi danh với bài hát Làng quan họ quê tôi (phổ thơ Nguyễn Phan Hách) và bài thơ Tản mạn thời tôi sống. Mỗi lần nghe tin anh vào Huế, tôi lại đạp chiếc xe đạp cọc cạch tìm anh. Cái chỗ tôi vừa đến thì được biết anh vừa mới đi, anh “thoắt ẩn, thoắt hiện như là tàn lửa khuya”. Ở Huế, thời đó anh có một số bạn thân như vợ chồng Hoàng Phủ Ngọc Tường - Lâm Thị Mỹ Dạ, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, nhà thơ Ngô Minh, nhà văn Nguyễn Quang Lập, nhà thơ Nguyễn Khắc Thạch… Một lần trong chiếu rượu, anh thổ lộ: Sao cứ ước một người yêu ở đó/ Để suốt đời quê ngoại hóa quê hương. Điều ước ấy không ngờ đã trở thành hiện thực mà tôi là người góp một phần nhỏ tác thành cho đôi uyên ương. Chuyện có hơi dài dòng, tôi chỉ xin kể văn tắt như sau: Tôi có quen với một cô giáo trẻ xinh đẹp, dạy môn sinh Đại học Nông lâm Huế, từng ra học cao học (sau đại học) với tôi ở Vinh. Biết nàng yêu thơ nên thỉnh thoảng tôi đưa nàng đi dự những buổi giao lưu, tiếp xúc với giới văn nghệ sĩ. Hôm đó là ngày 8/11/1986, tôi mời các nhà thơ: Hoàng Vũ Thuật, Ngô Minh, Đỗ Hoàng, Lê Đình Ty, Lý Hoài Xuân và nàng đến căn hộ tập thể của tôi ở trường Hai Bà Trưng dự sinh nhật Hải Kỳ. Thi sĩ Hải Kỳ bận dạy ở Đồng Hới (Quảng Bình) nên không có mặt. Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo mới từ Vinh vào, nghe tin cũng đến góp vui. Rượu tôi đặt ở lò chị Hiếu. Nhà chị ở lưng chừng dốc Phú Cam. Rượu chị nấu bằng một thứ men khá đặc biệt. Văn nghệ sĩ Huế rất thích uống rượu của chị. Đồ mồi chủ yếu là nem và tré. Tré Huế làm bằng da lợn thái nhỏ dầm với gừng, tỏi, đường, mì chính, ớt, nước mắm. Nàng có mang theo món vả trộn lạc rang, mè (vừng) khá ngon. Thơ và nhạc. Rượu và em… Suốt cuộc vui, tôi bắt gặp Nguyễn Trọng Tạo và nàng “hai mắt cùng liếc, hai lòng cùng ưa”. Đến tháng sau, đám cưới của chàng và nàng được tổ chức gọn nhẹ ở Huế. Nguyễn Trọng Tạo sống ở Huế trọn 10 năm (1987 - 1997). Căn hộ vợ chồng anh ở đầu đường Nguyễn Huệ trở thành nơi tụ hội bạn bè. Anh có nuôi một bể cá nhưng chúng chưa kịp lớn đã nhảy hết vào bàn nhậu. Mỗi cuộc nhậu ít thì 5 người, nhiều thì hơn cả chục người. Khi anh chưa vào Huế không khí thi ca ở Cố đô đã hết sức sôi động. Có anh vào, không khí thi ca càng sôi động hơn. Phần lớn thơ anh em đọc cho nhau nghe trong chiếu rượu là thơ tình. Tôi nhớ có hôm thấy Lý Hoài Xuân quá thèm đọc thơ, Nguyễn Trọng Tạo nói đùa: Ai muốn đọc thơ thì bỏ tiền ra, cứ mỗi bài 5000đ. Nghe vậy, Lý Hoài Xuân không một chút do dự, rút ví đặt xuống chiếu rượu 15000đ để được đọc 3 bài. Lại thêm mồi, thêm rượu. Nhờ cái “sáng kiến” độc đáo ấy mà “cuộc vui đầy tháng, trận cười suốt đêm”. Nhưng cũng chính vì thế mà mấy bà vợ của các thi sĩ tửu đồ đã không ít lần nổi cơn tam bành. “Một đứa vợ la, chục đưa kinh!” Kinh chứ không phải là khinh. Kinh là sợ, sợ đến thất kinh hồn vía. Sợ là sợ thế thôi chứ “đánh chết nết không chừa”. “Phong trào tạm lắng” chỉ một đôi ngày rồi “phong trào lại lên”.

Nhờ một cuộc nhậu ở căn hộ tập thể khu nhà Đống Đa của vợ chồng Nguyễn Khắc Thạch mà Nguyễn Trọng Tạo làm được hai câu thơ “xuất thần”:

Sông Hương hóa rượu ta đến uống
Ta tỉnh, đền đài ngả nghiêng say.


Hôm sau, nghe bạn bè đọc lại hai câu thơ trên, Nguyễn Trọng Tạo gật gù khen mà không nhớ đó là thơ mình. Tôi đã đọc hàng trăm bài thơ viết về Huế nhưng hiếm thấy bài nào cô đọng như hai câu thơ này của Nguyễn Trọng Tạo. Nhà thơ tài cao, chí lớn Cao Bá Quát so sánh sông Hương như thanh kiếm dựng giữa trời xanh. Thi sĩ đa tình, lãng mạn Nguyễn Bính thì ví sông Hương như mái tóc buông hờ của cung nga. Còn Nguyễn Trọng Tạo - người ham chơi (theo cách gọi vui của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường) thì nhận ra “sông Hương hóa rượu”. Trên đất nước ta có hàng trăm dòng sông nhưng không phải dòng sông nào cũng “hóa rượu” như sông Hương. Nguyễn Trọng Tạo đã đến Huế và đã từng nếm thử chất men ấy. Thi sĩ đã ngà ngà hơi men. Làm say một người “ham chơi” như Nguyễn Trọng Tạo đâu phải dễ. Nhưng lần này thì anh say thật, say đến mức cả đền đài, lăng tẩm đều nghiêng ngả trước mặt anh. Trong những thi phẩm anh viết về Huế, ngoài hai câu thơ “xuất thần” trên, tôi đặc biệt yêu thích bài Con sông huyền thoại:

Con sông mình hạc xương mai
Vàng son in bóng đền đài hoa khôi
Đến đây tôi gửi bóng tôi
Vớt lên thì vỡ, tan rồi lại nguyên

 
Con sông mướt cỏ tóc tiên
Những đêm kỹ nữ bỏ quên nguyệt cầm
Vầng trăng lõa thể ướt đầm
Sẩy chân thi sĩ vớt nhầm mỹ nhân

 
Con sông đám cưới Huyền Trân
Bỏ quên dải lụa phù vân trên nguồn
Hèn chi thơm thảo nỗi buồn
Niềm riêng nhuộm tím hoàng hôn đến giờ

 
Con sông nửa thực nửa mơ
Nửa mong Lý Bạch nửa chờ Khuất Nguyên...


Vẻ đẹp kiêu sa, đài các, huyền ảo của sông Hương và xứ Huế được nhà thơ đặc tả khá tinh tế. Tôi cứ nghĩ mãi về cái “niềm riêng” mà tác giả đề cập đến trong bài thơ này. Lẽ thường đám cưới thì vui nhưng sao Huyền Trân lại buồn? Cái “dải lụa phù vân” bỏ quên trên nguồn có hàm ý gì? Nhà thơ chỉ gợi còn người đọc thì tự mình tìm câu trả lời. Cũng trong bài thơ này, Nguyễn Trọng Tạo có một số cách nói khá mới mẻ và ấn tượng: con sông có “mình hạc, xương mai”, nỗi buồn lại “thơm thảo”, niềm riêng thì “nhuộm tím hoàng hôn”…

Gắn bó với Huế suốt 10 năm, anh không chỉ để lại cho Huế mấy chục bài thơ, mấy chục ca khúc mà anh còn vẽ bìa, viết lời tựa cho nhiều thi hữu thân quen. Ảo ảnh - tập thơ đầu tay của tôi, xuất bản 1988 do anh chọn bài, viết lời tựa và vẽ bìa. Tôi vô cùng biết ơn anh!

Mỗi lần nhớ anh, nhớ về “một lứa bên trời” thuở ấy, tôi lại nhẩm đọc bài thơ Bạn bè ở Huế của anh:

bạn bè ở Huế đông vui lắm
túi đầy thơ tặng túi đầy trăng
thấy nhau là nhớ mùi rượu Hiếu
mưa nắng sá gì dốc Phú Cam

 
sẵn tiền vài lít chưa là bốc
trắng tay mươi xị dễ đâu gàn
vui chơi cũng lạ đông hơn họp
vàng nát không chừng cốc đã tan

 
đất trời lướt khướt dìu nhau bước
đắc đạo rượu ngon đắc đạo tình
bạn bè ở Huế thương nhau thiệt
một đứa vợ la... chục đứa kinh.


Năm 1997 Nguyễn Trọng Tạo trở lại Hà Nội làm tạp chí Âm Nhạc, báo Thơ, tạp chí Sao Việt… và anh vẫn còn viết tiếp những bài thơ về “bạn bè ở Huế”: “Đêm lang thang cùng Thanh Tú đượm buồn/ chuông điện thoại thở dài Văn Cầm Hải/ Hoàng Phủ Ngọc Tường vẫn viết văn bằng miệng/ Ngô Minh gửi bài lách tách nhấn i-meo…”.

M.V.H  
(SHSDB32/03-2019)



 


 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Sách được các sư cô Thiền viện Viên Chiếu lược dịch, biên soạn từ nhiều nguồn tư liệu, chủ yếu là tư liệu chữ Hán, tiếng Anh, giúp người đọc hiểu thêm con đường tu tập của pháp sư Huyền Trang.

  • Soạn tâm thế an nhiên khi bước vào tuổi già, nhẹ nhàng đón đợi niềm vui, nỗi buồn trong cuộc sống... là điều mà trang viết của vị bác sĩ mê văn thơ đem đến cho độc giả.

  • Phó giáo sư Đỗ Lai Thúy thông qua cuốn sách "Vẫy vào vô tận" đã giới thiệu 17 chân dung các nhà văn hóa, nhà nghiên cứu có đóng góp cho con đường học thuật và tư tưởng của đất nước.

  • BỬU NAM

    Nguyễn Quang Lập - Trần Thùy Mai - Ngô Minh - Phạm Tấn Hầu - Nguyễn Quang Vinh - Hoàng Thị Duyên(*)

  • NGUYỄN DUY TỪ

    Kỷ niệm 120 năm ngày sinh (1894), 60 năm ngày mất (1954) của nhà văn Ngô Tất Tố

  • PHẠM ĐỨC DƯƠNG

    GS.TS Phạm Đức Dương, nguyên là Viện trưởng Viện nghiên cứu Đông Nam Á, Tổng biên tập 2 tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á và Việt Nam Đông Nam Á; Chủ tịch Hội Khoa học Đông Nam Á, Viện trưởng Viện nghiên cứu Văn hóa Phương Đông...

  • CAO QUẢNG VĂN

    “Bồng bềnh xanh mãi bao niềm nhớ:
    Huế ở trong lòng người phương xa…”

  • TRỊNH SƠN

    Có những người, hiếm thôi, khi đã gặp tôi thầm ước giá như mình được gặp sớm hơn. Như một pho sách hay thường chậm ra đời.

  • HÀ KHÁNH LINH

    Người xưa nói: Cung kiếm là tâm, là cánh tay vươn dài của võ sĩ; Bút là tâm nối dài của Văn Sĩ. Khi đọc tập truyện ngắn UẨN KHUẤT của Kim Quý, tôi nghĩ phải chăng khi không thể tiếp tục hóa thân thành những nhân vật trên sân khấu, nghệ sĩ ưu tú Kim Quý đã cầm bút để tiếp tục thể hiện những khát vọng cao đẹp của mình.

  • BÙI VĂN NAM SƠN

    Trong “Bùi Giáng, sơ thảo tiểu truyện”(1), nhà phê bình văn học Đặng Tiến nhận định có tính tổng kết về văn nghiệp Bùi Giáng như sau: “Trên cơ bản, Bùi Giáng là nhà thơ”.

  • YẾN THANH

    (Đọc Thi pháp tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng của Nguyễn Thành)

  • PHAN NAM SINH

    (bàn thêm với nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân)

  • Sau 2 công trình nghiên cứu đồ sộ, biên soạn công phu “Thưởng ngoạn Đồ sứ kí kiểu thời Nguyễn (1082 - 1945)” và “Đồ sứ kí kiểu Việt Nam thời Lê Trịnh (1533 - 1788)”, NXB Văn Nghệ 2008 và 2010, vào đầu tháng 3.2014, bộ sách Đại lễ phục Việt Nam thời Nguyễn 1802 - 1945 (khổ lớn 27x27 cm, NXB Hồng Đức), do nhà nghiên cứu Trần Đình Sơn biên soạn đã được ra mắt tại Thư viện Khoa học tổng hợp TPHCM.

  • NGUYỄN NHÃ TIÊN

    Có một con đường mà tôi đi hoài không hết Hội An. Dường như cái phố cổ ấy luôn thường hằng phát đi một tín hiệu: nhớ. Lại thường chọn rất đúng cái khoảnh khắc con người ta nhớ mà rót cái tín hiệu ấy tới.

  • LTS: Tiểu thuyết "Huế mùa mai đỏ", tập I, của Xuân Thiều đề cập đến một thời điểm lịch sử của chiến trường Trị Thiên cũ trong chiến dịch Mậu Thân.

  • ĐẶNG TIẾN

    Nhà thơ Phạm Thiên Thư là một tác gia dồi dào, đã in ra hằng vài ba trăm ngàn câu thơ, có lẽ là kỷ lục về số lượng trong nền văn chương tiếng Việt, vượt xa Bùi Giáng.

  • VÕ TẤN CƯỜNG

    Đinh Hùng - một hồn thơ kỳ ảo với vũ trụ thơ thuần khiết, song hành với thực tại là hiện tượng thi ca đầy phức tạp và bí ẩn. Số phận cuộc đời của Đinh Hùng và thi ca của ông chịu nhiều oan trái, bị chìm khuất dưới những dòng xoáy của thời cuộc cùng với những định kiến và quan niệm hẹp hòi về nghệ thuật…

  • TÔ NHUẬN VỸ
    (Nhân tiểu thuyết Đời du học vừa ra mắt bạn đọc)

    Tôi thích gọi Hiệu (Lê Thị Hiệu) hơn là Hiệu Constant, nhất là sau khi đọc, gặp gỡ và trò chuyện với Hiệu.

  • PHẠM PHÚ PHONG

    Từ khi có báo chí hiện đại phát triển, nhất là báo in, văn chương và báo chí có quan hệ hết sức mật thiết. Nhiều nhà báo trở thành nhà văn và hầu hết các nhà văn đều có tác phẩm in báo.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP

    Anh không thấy thời gian trôi...
    Ám ảnh về cái chết có lẽ là ám ảnh lớn nhất mỗi đời người vì mỗi phút trôi qua là một bước con người xích lại gần hơn với cái chết. Sống gửi thác về...